|   
          | 
    Thiền học Nam Truyền 
    Giác Nguyên dịch Việt 
     
    Chương 10 
    Kiến giải về
    Nghiệp lý:  
    Quy luật Tác động và Phản ứng
     
    Quy luật
    nghiệp lý là một trong những quy luật quan trọng nhất chi phối và
    điều động đời sống của chúng ta. Hiểu được nghiệp lý, sống
    trong trí tuệ về nghiệp lý, thực hiện những gì thật sự cần
    thiết mà ta đã học được từ quy luật này, mỗi người sẽ cảm
    nhận được một nếp sống trọn vẹn và bình yên. Một khi đời sống
    thường nhật thiếu đi sự giao hòa và bị tự cô lập, một nếp sống vô
    minh về bản chất các pháp thì điều tất nhiên sinh quan của chúng ta
    sẽ chỉ là những khổ lụy và ngộ nhận. Quy luật nghiệp báo là một trong
    những định thức thiên nhiên cơ bản mà thông qua nó, nếu với một sự vận
    dụng sáng suốt, ta sẽ sáng tạo ra được biết bao thế giới sống bao la,
    lồng lộng. Cứ kể chúng ta là những nhà nghệ sỹ nhưng thay vì phải
    dùng đến những phương tiện nghề nghiệp như họa cụ, nhạc
    cụ..., ở đây chúng ta lại tận dụng từng cảm nghiệm tâm sinh lý của
    mình như là những nguyên vật liệu hay dụng cụ để thực hiện tác
    phẩm sáng tạo, phô diễn thế giới nội tại vốn vô cùng phức tạp mà cũng
    thú vị của mình. Hãy nhớ rằng chỉ từ kiến giải này cùng những sáng tạo
    năng động cộng với khả năng tranh thủ thời gian, chúng ta mới có thể
    thành tựu viên mãn công phu tu hành của mình. 
    Thuật ngữ "Nghiệp" trong cả hai thứ tiếng Pàli và Sanskrit
    (Kamma hay Karma) ở trường hợp này đều có nghĩa là "hành động,
    việc làm". Quy luật nghiệp báo chỉ đơn giản là định lý tác
    động và phản ứng: Một hành động có chủ ý sẽ cho ra một hậu quả nhất
    định nào đó. Tùy thuộc vào động lực tâm lý lúc tạo nghiệp, hậu
    quả của các hành động cũng theo đó mà được quy định: Hành động bằng ác
    tâm sẽ cho ra quả xấu, hành động bằng thiện tâm sẽ dẫn đến quả
    tốt. Chính quy luật sinh hóa của thế giới vật chất cũng đã minh họa
    cho ta về quy luật đó: Cây táo chỉ trổ ra trái táo, chứ không thể
    sinh ra trái xoài hoặc bất cứ trái nào khác. Nghiệp lý cũng là một
    thứ quy luật tự nhiên nhưng lại thuộc lĩnh vực tâm lý.  
    Khi nói đến vấn đề Nghiệp lý, Ðức Phật luôn đặt biệt
    nhắm đến ý hướng hành động, tức động lực tâm lý thúc đẩy ta
    hành động. Ngài dạy rằng Nghiệp chính là sự cố ý, tác ý, khuynh
    hướng mang tính thúc đẩy ta hành động từ nội tại, bởi chính nó là nguồn
    động lực quy định hậu quả của hành động. Một điều hết sức
    hiển nhiên mà chúng ta cần phải biết đó chính là vấn đề mỗi
    mỗi đơn vị ý thức mang tính đầu tư dù thiện hay ác đều là
    một năng lực đủ sức tạo ra một hậu quả tương ứng. Khi chúng ta hiểu
    được cơ sở căn bản của nghiệp nằm ở sự đầu tư, cố ý, thì chúng
    ta cũng có thể đồng thời hiểu được rằng mình phải cẩn trọng ra
    sao trong mỗi ý hướng trước khi bắt tay một việc nào đó, chỉ cần
    một thái độ sống thiếu tỉnh thức, một khuynh hướng nội tâm bất chánh
    thì coi như chúng ta đã tự gieo mầm cho vô vàn đau khổ mà mình sẽ phải
    lãnh chịu trong tương lai. 
    Vấn đề nghiệp lý có thể được nhận hiểu ở hai cấp độ
    thông qua sự thấu thị rộng rãi về những hình thức tồn tại, hiện hữu
    của chúng vẫn luôn dàn trải suốt đời sống của mỗi người. Ở cách
    hiểu thứ nhất, nghiệp lý đề cập đến cảm nghiệm về
    quy luật tác động và phản ứng mang tính thời gian và thời gian ở đây là
    bất định. Nói vậy có nghĩa rằng nghiệp lý trong trường hợp này
    chính là luật báo ứng theo lối định nghĩa phổ cập: Nhân nào Quả nấy, và
    thời gian tương ứng giữa nhân và quả rất phức tạp và trừu tượng. Với cách
    hiểu thứ hai, nghiệp lý được nhận diện qua từng phút giây
    cũng vẫn quy luật tác động và phản ứng: Sau một tâm thái mát mẻ của tình
    thương, chúng ta sẽ lập tức cảm nghiệm được một niềm tịnh lạc mang
    tính thừa tiếp. Cứ thế, ngay sau những bức xúc phiền não, hậu quả
    tâm lý tất nhiên mà chúng ta sẽ phải cảm nhận dĩ nhiên là những bất
    ổn, bất an trong tâm hồn. Chính sự tỉnh thức trực tiếp của chúng ta
    về mỗi vận động của nghiệp lý trong từng phút giây như vậy
    sẽ là một nguồn động lực tích cực cho công phu phát triển và nuôi lớn
    sự an lành cho chính mình trong từng phút giây. Ðây lại cũng chính là một
    sự tồn tại tự nhiên của nghiệp lý. 
    Lý tưởng và nhân cách sống của chúng ta luôn được quy định qua
    nghiệp lý, nói rõ hơn, chính là hình thái và tính chất cũng như qui
    mô của nó. Bằng cái nhìn của trí tuệ thiền chân chính, ta sẽ thấy
    rõ rằng không có một chủ thể, thực thể nào là trường cữu, bất
    biến để khả dĩ có vị trí cho một cái tôi nào đó tồn tại: Mỗi
    chúng ta chỉ là một tổng hợp, một hình thái của những chuỗi dài tâm vật
    lý luôn đổi thay, vô thường. Mỗi người chúng ta đều có một
    hướng đời riêng, trong từng phút giây ý thức, bất luận là có chủ ý
    hay vô tình, ta đều luôn tự trưởng dưỡng ở chính mình những hình thái
    ý thức sai biệt. Ðó cũng chính là một trong những biểu hiện
    cụ thể của nguyên lý vô ngã như vừa nói trên. Cứ mỗi một tình
    trạng ý thức hiển hiện trong từng phút giây, bất kể thiện
    ác, ngoài ra cái hiệu quả di hậu tất yếu, nó còn để lại một sức
    mạnh tiềm tàng để sẳn sàng lớn mạnh hơn nữa trong những lần tái
    hiện sau này. Bởi lúc đó chúng không còn đơn giản là một hình thái
    tâm lý đột xuất nữa, mà đã trở thành ra một ý thức mang tính huân
    tập, tập quán, một kiểu quán tính hùng hậu. Nói một cách khác đi, chúng
    ta chỉ là một bộ sưu tập tổng hợp của rất nhiều nhân cách, những khuynh
    hướng ý thức mà mình đã đầu tư và trưởng dưỡng, đặc biệt là
    những hình thái ý thức đã tự có một sức mạnh phát triển. 
    Chúng ta thường có khuynh hướng chẳng quan tâm gì đến những cấu tố
    tâm lý trong các cảm nghiệm, tư tưởng của mình, mà thay vào đó chỉ
    là những vận động ý thức mang tính cách vô tội vạ, chẳng màng gì
    đến hậu quả như người ta vô tư thảy một viên đá xuống nước mà chẳng
    kể gì đến những xao động. Trong khi đó ta hãy nhớ rằng mỗi phút
    giây tư tưởng đi qua trong đầu chúng ta còn là những điều kiện và
    động lực tác tạo ra biết bao nhiêu vấn đề bòng bong khác. Bất cứ
    đối tượng ý thức nào khởi lên trong nội tâm chúng ta, cộng với tính
    cách và bản chất của nó đều luôn là một đối tượng sở tri để
    chúng ta tri nhận và chính thái độ tri nhận về chúng luôn là những
    điều kiện, nhân tố quy định cảnh giới tái sanh thực ra là những
    biểu hiện cụ thể cho từng trình độ tâm linh của mỗi chúng
    sanh. Chúng có ý nghĩa nhắc nhở ta về những bản chất sai biệt của
    đời sống nội tâm mà mình vẫn cảm nghiệm trong từng giây phút đồng thời
    cũng giúp ta lưu tâm đến dòng luân hồi sanh tử mà mình sẽ phải lăn
    trôi qua các sanh thú (tức chỗ tái sanh) theo quy luật nghiệp lý. 
    Ðối với nền văn hóa phương Tây, vấn đề tái sanh và các cảnh
    giới luôn hồi vẫn thường được xem là đáng nghi, khó tin nếu không muốn
    nói đó là những vấn đề đau đầu không cần thiết. Mặc dầu thái độ
    hoài nghi đó cũng có thể là điều cần thiết cho sự nhận thức,
    kiểm tra trong cuộc tu của mình, bởi những khái niệm về nghiệp
    lý và tái sanh vốn là một phần giáo lý quan trọng của Ðức Phật,
    mà để hiểu biết về chúng, thì vấn đề đòi hỏi ở chúng
    ta một sự tự chứng, thể nghiệm bằng chính khả năng của mình. Chúng ta
    có thể chưa đạt đến trình độ chứng đạt thiền định hoặc những
    khả năng thần thông, nhưng nếu với một thái độ trí tuệ thể
    nghiệm đúng đắn thì vẫn có thể tự mở ra cho mình những khà năng
    nhận thức và hiểu biết chính chắn, nói theo ngôn ngữ của nhà thơ
    Coleridge thì lúc này chúng ta coi như đã có được một chiếc mốc treo cho
    lòng bất tín. Với khả năng ý thức đó, chúng ta coi như đã thoát khỏi
    cạm bẫy của một niềm tin mù quáng cùng với một ý hệ vô tín
    ngưỡng, cuồng dại. Bằng vào con đường này, chúng ta có thể nhận rõ
    được những gì mà mình vẫn chưa hiểu được ở bản thân, cũng như những
    trình độ tri kiến nào mình chưa có được.  
    Theo Phật giáo Nguyên thủy thì cảnh giới tái sanh, tức không gian hiện
    hữu của muôn loài được chia thành sáu tầng: Bốn tầng đọa xứ, tầng
    nhân giớivà các tầng thiên giới. Các cõi đọa xứ được tồn tại,
    hiện hữu bởi sự tác động và chiêu cảm từ các phiền não của chúng
    sanh. Các ác tâm này chính là những phản ứng tâm lý xấu xa của chúng ta
    trong đời sống. Ngoài hậu quả nhãn tiền là một đời sống nội tâm đau
    khổ ngay trong hiện tại, chúng còn là con đường đưa đẩy ta vào các cõi
    đọa xứ trong vô số kiếp tái sanh tương lai. 
    Tầng nhân giới hay cõi người được xem là lạc cảnh thấp nhất trong các
    cõi tái sanh thiện thú. Ở đây là một môi trường lý tưởng
    để tu tập bởi vì như ta vẫn biết, thế giới này có điểm đặc
    biệt là cả đau khổ lẫn hạnh phúc cùng đều có mặt. Mà mức độ đau
    khổ hay hạnh phúc trong thế giới loài người chúng ta dù ở mức độ nào
    cũng vẫn có thể là những điều kiện tốt cho công phu tu hành: Một
    ông vua hay gã ăn mày đều có thể tự tìm thấy những yếu tố tâm
    lý cần thiết cho công phu phát triển đạo hạnh và sự dấn thân vào
    con đường giải thoát. Thậm chí ta có thể nói rằng chỉ có những đau khổ
    và hạnh phúc ở thế giới loài người mới là những nhân tố tối ưu
    để phát triển trí tuệ và giác ngộ. 
    Ðể có thể sanh được là người, ta ít nhất phải có một thái độ
    sống hào sảng và hòa ái. Bởi chính những giá trị tâm linh này là một sức
    mạnh thiện nghiệp vừa đủ để tác tạo một tấm thân nhân loại,
    đồng thời chúng cũng chính là những biểu hiện đặc trưng cho một
    nhân tính thật sự. Cũng với những giá trị đạo đức trên đây cộng thêm
    một đời sống đạo hạnh mà thuật ngữ Phật giáo vẫn gọi là "giới
    đức", nếu được tu dưỡng lớn mạnh hơn thì chúng còn có thể
    đưa ta tái sanh lên các cõi thiên giới. Thiên giới ở đây là các cõi trời
    mà đời sống ở đó, đặc biệt về mặt vật chất, có thể nói là
    toàn hảo: Các thiên nhân luôn chói lòa hào quang và mọi nhu cầu khoái
    lạc kể cả nhục dục cũng luôn hết sức đầy đủ. Thuật ngữ Phật
    học gọi các cõi thiên giới này là tầng trời dục giới. 
    Tầng thiên giới cao nhất chính là cảnh giới của các vị Phạm thiên
    (hiểu theo nghĩa của từ ngữ Phật giáo). Nét đặc trưng trong đời sống
    của các vị Phạm thiên là các vị chỉ luôn sống bằng thiền lạc, một thứ
    hạnh phúc thuần túy tinh thần, nằm ngoài tất cả khoái lạc, dục cảm và các
    cõi Phạm thiên này chỉ là chỗ tái sanh dành riêng cho những vị đã chứng
    đạt thiền định. 
    Chung quy lại, sáu cảnh giới tái sanh hay còn gọi là Lục Ðạo sanh tử
    đều được tạo thành từ nghiệp báo. Mà vấn đề nghiệp báo
    thì hoàn toàn do chính mỗi chúng sanh tự quyết định lấy cho mình.
    Không ai có thể sắp xếp hay quy định chỗ tái sanh cũng như khuynh
    hướng tư tưởng của chúng ta được. Lời dạy quan trọng nhất của Ðức
    Phật cho chúng ta là mỗi người phải luôn nổ lực hết mình để
    phát triển thiện pháp bản thân ngay trong từng ngày của đời sống
    thường nhật. Ðịnh nghĩa đơn giản nhất của quy luật nghiệp lý là
    "nhân nào quả nấy". Khi chúng ta hiểu được rằng đời sống của
    chính mình là một dòng chảy của nghiệp quả, chính mình phải là người
    nhận lãnh tất cả những gì mà bản thân đã gây tạo thì chắc chắn chúng ta
    sẽ có một sinh phong xứng đáng, những chọn lựa lý tưởng cho từng
    hành động hoặc kể cả sự nghiệp bình sinh của mình. 
    Một vấn đề khác cần nhắc đến ở đây là có đôi lúc vì không
    kham nổi tính khắc nghiệt của nghiệp lý bằng chút ít hiểu
    biết không đến nơi đến chốn của mình, người ta đã tự tạo ở
    nội tâm một sự cắn rứt quá mức cần thiết đối với những tội lỗi
    quá khứ của bản thân. Ta có thể gọi tình trạng tâm lý giằng xé
    đó là mặc cảm tội lỗi. Nỗi mặc cảm này là cảm giác tự ti, tự chán
    ghét chính mình, một sự thiếu hiểu biết về những vận động vô
    thường của các giá trị tâm lý. Mặc cảm tội lỗi cũng là một hình
    thức ngã chấp nhưng mang tính bi quan đáng thương là "Tôi không thể
    tha thứ cho chính mình". Sự hiểu biết chính chắn về nghiệp
    lý sẽ giúp ta một cái nhìn bình tĩnh và thông minh về các sở hành
    thiện ác của bản thân. Trong suốt dòng luân hồi đăng đẳng qua khắp các
    cảnh giới tái sanh, mỗi người chúng ta đã gây tạo biết bao là các
    tội lỗi và thiện nghiệp. Nếu nhìn về quy luật Nghiệp
    báo bằng những mặc cảm tội lỗi, những lo âu và hoảng sợ không cần
    thiết, thì đó chính là thái độ thiếu sáng suốt và nông nổi, vô
    ích. Thậm chí nó còn là một nhân tố bất thiện nữa là khác. Sự thấu
    đáo về nghiệp lý một cách sáng suốt, chính chắn là con đường
    tối ưu để ta tự phát triển trí tuệ về tất cả hạnh nghiệp
    thiện ác: Những con đường dẫn đến an lành và tự do hoặc đau khổ và
    đọa đày. Chính thái độ hiểu biết về nghiệp lý như
    vậy, chúng ta mới có được một phản ứng tâm lý tích cực và an lòng khi
    nghĩ về quá khứ, đồng thời cũng tự chọn cho mình những hướng tốt
    đẹp trong hiện tại. Mặc cảm tội lỗi là một hình thức tâm lý tự
    trừng phạt mình, còn trí tuệ về nghiệp lý là một biểu
    hiện cho đời sống thuần cảm vô tư, bình tỉnh và bao dung.  
    Trong giáo lý của mình, Ðức Phật vẫn thường xuyên nói đến cái
    giá trị hy hữu của một kiếp tái sanh làm người. Ngài đã từng dùng
    đến ví dụ về một con rùa mù nằm dưới đáy biển sâu, cứ mỗi
    trăm năm nổi lên mặt nước một lần và quả là một điều hạn hữu nếu
    như trong một lần nào đó, khi trồi đầu lên khỏi mặt biển nó lại tình
    cờ đưa lọt chiếc đầu bé nhỏ của mình vào cái lổ thủng của một
    tấm ván vẫn trôi dạt bất định trên mặt đại dương. Ðức Phật dạy rằng cơ
    hợi có được tấm thân nhân loại còn khó khăn hơn thế rất nhiều. Cả
    hai trường hợp hy hữu trên tuy vẫn có thể xảy ra nhưng chắc chắn phải
    cần đến thời gian rất dài. Từ một sinh thú thấp kém được chuyển
    sanh vào một sinh thú khác cao hơn quả là một điều thiên nan vạn nan. 
    Có hiểu được tất cả sinh thú tái sanh đều được quy định bởi
    hạnh nghiệp của mỗi cá nhân, chúng ta mới hiểu được lý do
    tại sao Ðức Phật lại thường xuyên nhấn mạnh đến sự hy hữu của một
    thân người. Bởi vì ở các cõi đọa xứ, trong hình thức các sinh chủng hạ
    cấp, các loài chúng sanh luôn luôn bị sống trong những cơn đau khổ triền
    miên nên rất khó có được cơ hội phát triển thiện pháp. Ở đó,
    đời sống nội tâm của các loài đọa lạc thường xuyên bị chi phối bởi
    vô vàn phiền não và cứ mỗi ác tâm lại luôn là nhân tố cho một ác
    tâm khác. Sự suy xét về nghiệp lý sẽ mang lại cho ta một trí
    tuệ vừa đủ để thấy rõ tầm quan trọng của một đời sống, đồng
    thời giúp ta tự biết tranh thủ thời gian để tu học. Chỉ trong một
    ngày thôi, xuyên qua vô số dòng tư tưởng, chúng ta đã tạo ra biết bao
    là những hạnh nghiệp thiện ác. Với một sự cẩn trọng và tỉnh thức
    trong mỗi mỗi ý hướng sinh hoạt, chúng ta có thể chọn lấy
    cho đời mình những hoạt động thích đáng. 
    Lần đó, có người đến hỏi Ðức Phật rằng tại sao tuy cùng sống chung
    trong một thế giới mà mỗi người lại có những hoàn cảnh, điều
    kiện sống cũng những nhân cách sai biệt nhau. Ðức Phật đã trả lời
    rằng mỗi mẫu đời dù tốt hay xấu đều do các tiền nghiệp của
    từng cá nhân quy định lấy. Ở đây, chúng ta có thể tóm lược những
    câu trả lời cặn kẻ của Ðức Phật bằng cách rút gọn lại trong đôi nét
    căn bản mà cũng tương ứng và hợp lý theo quy luật nghiệp báo rằng
    bản tính hiếu sát, hung tợn luôn dẫn đến hậu quả yểu thọ và
    bệnh hoạn, lòng từ bi luôn đưa đến những kiếp sống an lành, lòng
    hào sảng luôn đưa tới một đời sống vật chất đầy đủ, một tâm hồn
    hiếu học và cầu tiến, đặc biệt là thói quen vận dụng trí
    tuệ sẽ đưa đến khả năng minh mẫn trong các kiếp tái sinh...  
    Ðức Phật với trình độ trí tuệ của mình có thể nhớ lại một cách
    như ý vô số tiền kiếp của tất cả chúng sanh cùng với sự hiểu
    biết tinh tường về những hạnh nghiệp nào đã quy định sinh thú và
    tình trạng của mọi loài. Lòng từ bi của Ðức Phật, từ đó, được xem là
    vô lượng. Ngoài tình thương đối với những chúng sanh đang đau khổ, Ngài
    còn có lòng trắc ẩn đối với ngay cả những chúng sanh đang được hạnh phúc
    nếu như họ vẫn tiếp tục gây tạo những ác nghiệp. Khi chúng ta
    không hiểu gì về nghiệp lý, còn mê lầm về thực tướng của
    các pháp thì coi như chúng ta vẫn mãi tiếp tục gây tạo những đau khổ cho
    mình và cho người, kể cả trường hợp chúng ta có là một người mang
    nhiều thiện chí vị tha. Ðối với chúng ta hôm nay, nhiều người vẫn
    có ý hướng phát triển một tâm lực siêu phàm những mong có được
    những khả năng thấu suốt vấn đề tái sanh để xác định quy luật
    nghiệp lý. Nhưng thật ra, nếu xét cho cùng thì nỗ lực đó đâu
    phải là điều cần thiết duy nhất cho việc xác định sự tồn tại
    của nghiệp lý. Bởi vì định luật nghiệp lý thật ra vẫn
    hiển hiện rõ ràng trong từng giây phút của đời sống, mà chỉ với một
    sự quan sát cẩn thận và tỉnh thức, ta đã có thể lĩnh hội một cách cụ
    thể. 
    Ðức Phật vẫn thường nêu rõ những quan điểm tri kiến chánh tà của
    tất cả chúng sanh về vấn đề nghiệp lý: mỗi hành động lớn
    nhỏ của chúng ta đều luôn để lại một hậu quả, ngay trong hiện
    tại hoặc tương lai. Hiểu được như vậy được xem là Chánh kiến. Còn
    Tà kiến là thái độ phủ nhận quy luật tương quan giữa nhân và quả, tức
    mối tương thuộc hữu cơ giữa lực tác động và hậu quả phản ứng. Trong
    thế giới văn minh hiện đại của chúng ta hôm nay, mọi người hầu
    hết chỉ hướng đến quan điểm sống hiện sinh: Nhắm mắt lao mình
    đi tìm mọi hướng giải quyết cấp thời nhằm để thỏa mãn những nhu
    cầu khát vọng cụ thể của mình và chính nhân sinh quan này vô tình
    đã khiến người ta có một cái nhìn xa lạ về quy luật có vẻ trừu
    tượng, vớ vẫn này trong thế giới sống nông nổi đó. Chỉ cần một lần
    quay nhìn lại với một nhãn trường rộng rãi, chúng ta sẽ thấy rằng mình thực
    ra chính là tác giả của mọi sự và toàn bộ đời sống của mình không
    hề là môt quy trình hiện hữu vận động một cách ngẫu nhiên, tình cờ,
    đột biến. Nhìn rõ tất cả mọi hoạt động của mình là một điều
    hết sức quan trọng, bởi từ đó ta mới thấu suốt được những ý
    hướng hoạt động cùng những hậu quả được sản sinh từ chúng. 
    Chánh niệm hay thái độ tỉnh thức là một phương tiện tối ưu
    để chúng ta nhận ra dòng vận động của nghiệp lý. Có hai hình
    thái chánh niệm đặc biệt liên quan đến trí tuệ nghiệp
    lý: Ðó chính là thái độ tỉnh thức để nhận chân thực tại và thái
    độ sẳn sàng chấp nhận mọi tình trạng của thực tại. Thái độ tỉnh thức
    để nhận chân thực tại là sự chuyên tâm nhìn ngắm từng động tác bản
    thân, sự tỉnh thức trọn vẹn đối với tất cả những gì đang xảy ra: Ðứng
    biết là đang đứng, đi biết là đang đi. Từ chánh niệm này chúng
    ta có thể đi thêm một bước nữa là đủ sức chấp nhận mọi trạng
    hướng tốt xấu của từng thực tại mà mình đang tri nhận, bất luận là tốt hay
    xấu. 
    Một người bị xem là thiếu chánh niệm khi hai khả năng trên đây
    chỉ nằm dưới mức cần thiết. Mà ngoài ra sự thiếu tỉnh thức về
    những khuynh hướng hoạt động của mình, chúng ta còn thường lãng quên trong
    mỗi mỗi sinh hoạt để rồi từ đó chúng ta nhắm mắt tác tạo những
    điều sai trái mang tính thói quen của mình. Trong khi đó, đối với hầu
    hết mọi người, các thói quen bất thiện thường nhiều và mạnh
    hơn những thói quen tốt đẹp. Trí tuệ và nghiệp lý sẽ đem lại cho
    ta nhiều thú vị trong đời sống hoạt động thường ngày. Chính nó giúp ta
    có được những cuộc nhìn ngắm chi li, và như vậy cũng có nghĩa là chúng ta
    đã bắt đầu có được một nội tâm tỉnh thức trước tất cả thực tại. Bất
    cứ một hành động nào dù nhỏ nhặt đến mấy đi nữa, ngoài ra việc
    để lại một hậu quả trong tương lai, chúng còn di hậu lại một sức mạnh
    mang tính phục sinh và gia lực cho một ý thức mai sau. Cứ mỗi một giây
    phút quên mình dể cho lòng sân hận hoặc tham dục xuất hiện thì cũng
    có nghĩa là chúng ta đã vô tình tạo điều kiện cho chúng tiếp
    tục có mặt trong một ngày mai nào đó.  
    Ðiều này rất dễ hiểu: Chỉ cần một thời gian nhất định, với từng
    giọt nước liên tục nhỏ xuống, bất cứ chiếc bồn chứa nào rồi cũng
    sẽ đầy tràn. Chúng ta thường có thói quen xem rẻ một giọt nước là ít
    oi, nhỏ bé nhưng chắc chắn chúng ta cũng hiểu và tin được rằng với
    nhiều giọt nước ít oi và bé nhỏ đó, một chỗ chứa mênh mông như
    đại dương cũng phải có lúc đầy tràn. Cứ theo ví dụ đó mà hiểu, tư
    tưởng của chúng ta luôn được nuôi dưỡng, kéo dài, đong đầy bằng từng
    cảm nghiệm ý thức trong từng mỗi mỗi phút giây. Chúng ta chắc
    chắn sẽ tích lũy được một trữ lượng năng lực nội tâm to tát và hùng hậu
    nhưng dĩ nhiên không thể chỉ bằng vào một kiếp sống hiện tại này
    mà còn phải cần đến sự huân tập trong vô số thời gian tương lai nữa. 
    Ngay giây phút này, chúng ta hãy thử nghĩ đến phút giây hấp hối của
    mình trên giường chết và những hồi tưởng sau cùng về cả cuộc đời
    mình trong đó. Cứ thử làm như vậy đi, bạn sẽ thấy mình ngay từ bây giờ
    phải có một nếp sống ra sao, phải thực hiện những điều gì, những
    giá trị nhân cách nào mà mình cần phải phát triển, thăng hoa. Ðời sống
    của chúng ta là một quá trình hiện hữu cơ động bao gồm những biến
    tướng nhất định, luôn tuôn chảy và thay đổi. Mỗi người chúng ta
    đều phải luôn tự có trách nhiệm quy định lấy một hướng đời riêng
    cho mình để hướng tới những giá trị sống sâu sắc nhất. Với một cuộc
    sống được trang bị càng nhiều những trí tuệ và chánh niệm cũng
    như một khả năng chiêm ngắm thực tại tinh tường thì chúng ta có thể tận
    dụng tất cả năng lực của mình một cách hiệu quả và không còn bị vây
    hãm giữa bốn bức tường lũy đầy bóng tối của tất cả những gì không thật
    sự cần thiết.  
    Chúng ta không phải đợi chờ đến giây phút cuối đời để nhìn lại
    thuở bình sinh của mình, bởi khi đó mọi sự đã quá muộn màng rồi. Chúng
    ta phải bắt đầu tất cả ngay từ bây giờ, đó là sự nhìn ngắm thấu suốt
    toàn bộ dòng sông cuộc đời mà tất cả nguồn chảy của nó chính là những
    vận động của nghiệp lý. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tìm thấy cho mình một
    sức mạnh tâm linh kỳ thú để sống trọn một kiếp đời thật sự
    lý tưởng mà khả năng bản thân có thể cho phép. 
    Câu chuyện sau đây về cuộc đời của một vị đại sư Tây Tạng,
    Milarepa, có thể cho ta một hình ảnh minh họa về khả năng hồi tâm
    của một con người biết hoán chuyển nỗi ám ảnh về những ác
    nghiệp quá khứ của mình thành ra một sức mạnh để gột rửa tâm hồn
    bản thân và đạt đến một trí tuệ giác ngộ. Milarepa vốn sinh ra trong
    một gia đình giàu có nhưng chẳng may cha của ông lại qua đời quá sớm. Ngay
    sau ngày tang lễ, chú bác của Milarepa đã ngang nhiên dành hết quyền
    sở hữu về tất cả tài sản của gia đình ông và chẳng những thế,
    họ lại còn đối xử tàn nhẫn với mẹ con ông nữa. Hai mẹ con Milarepa đành
    biệt xứ ra đi với hai bàn tay trắng. Qua thời gian, Milarepa lớn khôn trong
    tất cả cơ cực và tủi nhục. Nhớ lại mối thù ngày xưa, ông quyết định
    ra đi tìm học tất cả các môn huyền thuật ghê gớm nhất rồi quay
    về cố hương làm một cuộc trả thù đẫm máu đối với những người mà
    ngày xưa đã hành hạ đọa đày, đẩy mẹ con ông đến bước đường
    cùng. Sau cuộc trả thù thành công đó, có lẽ nhờ vào duyên lành quá khứ,
    trong một phút bình tâm, Milarepa đã bất chợt giật mình kinh hãi khi hồi
    tưởng lại những tội ác mà mình đã gây ra, dầu nói theo quan điểm thông
    thường thì việc trả thù của ông có thể được gọi là một
    chuyện thích đáng, hợp lý.  
    Chuyện về ông rất dài, nhưng ở đây chúng ta có thể tóm lược
    đại khái là sau những cuộc giằng xé nội tâm, Milarepa quyết định lên
    đường tầm sư học đạo với một tấm lòng tha thiết mong tìm thấy
    được một hướng đi nào đó để tự cứu chuộc mình. Cuối cùng rồi thì
    Milarepa đã gặp được một người mà ông cần tìm có đủ sức khả dĩ giúp
    ông thực hiện một nếp đời mà mình vẫn mong mỏi. Người đó chính là
    đại sư Marpa, một trong những đại sư được xem là thánh nhân và nỗi
    danh nhất Tây Tạng. Và như ta đã biết, sau đó chính Milarepa cũng đã
    được xếp vào hàng ngũ những bậc thánh sư Tây Tạng tương đương với
    người thầy của mình. Ðiều dĩ nhiên khỏi phải nói thêm ở đây là
    Milarepa trước khi đạt đến một địa vị như vậy đã phải trải qua thật
    nhiều ngày tháng khổ công để tu học và tự thăng hoa chính mình
    bằng những công phu mà nội dung vẫn là từ bi và trí tuệ. 
    Trong một chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã có một
    thời thuyết giảng về hai giáo lý căn bản của Phật giáo là vấn
    đề vô ngã và nghiệp báo. Trong bài thuyết giảng, Ngài nói rằng
    nếu bị bắt buộc phải chọn một trong hai kiến thức về định
    luật nghiệp lý và định luật vô ngã thì chúng ta tốt hơn nên
    chọn lấy kiến thức về định luật nghiệp lý. Trước lời
    tuyên bố này của Dức Ðạt Lai Lạt Ma, nhiều người tỏ ra rất ngạc nhiên
    vì xưa nay ai cũng hiểu rằng định lý vô ngã vẫn là một vấn đề
    cốt lõi căn bản của giáo lý Ðức Phật, bởi chính từ trí tuệ về
    quy luật này, người ta mới có thể thấy được bản chất hiện tượng,
    tương đối, rỗng tuếch và phù du của vạn hữu.  
    Thực ra câu nói của Ngài nhắm vào một vấn đề khác mang ý nghĩa
    sâu sắc hơn nhiều: Ðộng cơ căn bản thúc đẩy chúng ta chấp thủ mọi
    sự trên đời, trước hết chính là sự thiếu hiểu biết về
    nghiệp lý, quy luật tương tác giữa nhân quả, tác động và phản ứng.
    Sự hiểu biết về nghiệp lý là một trí tuệ sinh động,
    chính nó luôn mang ý nghĩa tô đậm, cụ thể hóa định lý vô ngã.
    Một khi không có được trí tuệ về nghiệp lý thì kiến thức
    về vấn đề Vô Ngã sẽ trở nên trừu tượng, thậm chí máy móc và duy
    lý, xa xôi, khó có thể được chấp nhận. Nếu chỉ biết suy nghĩ
    đơn giản rằng không có một cái Tôi nào hết, không có "người
    tạo" cũng không có "người hưởng" và chúng ta có thể muốn
    làm gì thì làm, đó chính là một sự ngộ nhận nguy hiểm về giáo
    lý Ðức Phật, đồng thời đó cũng là một ý thức biện hộ nghèo
    nàn, nông nổi cho mọi thói xấu của mình. Ngược lại, khi thấu suốt được
    qui luật nghiệp lý và tự biết điều động từng sinh hoạt lớn
    nhỏ của mình một cách thích đáng thì điều đó giúp ta lý hội
    được định luật Vô ngã một cách chính chắn và đúng mức. 
    Lòng từ bi, cũng như trí tuệ nội quán, chỉ được phát khởi đúng mức
    từ sự hiểu biết về nghiệp lý. Bởi từ trí tuệ
    nghiệp lý đó, chúng ta có thể xót thương được cả người có ác
    tâm lẩn kẻ bị nạn thay vì theo như thói thường, ai cũng căm ghét người có
    ác tâm và chỉ biết bất nhẫn đối với riêng người chịu nạn. Thái độ
    đó không hề có ý nghĩa là một phản ứng tâm lý yếu hèn hoặc
    thiếu dứt khoát. Bởi thực ra, trong trường hợp ta xót thương được kẻ
    có ác tâm chính là nhờ sự thấu suốt về cái động cơ vô minh đã
    khiến họ gây tạo đau khổ cho chính mình và người khác. Lòng từ bi
    đó được hiển hiện một cách sáng suốt. 
    Ðức Phật đã nhấn mạnh rằng chỉ có một tiềm năng giác ngộ thật sự
    mới có thể đủ sức giữ vững được bản sắc của một con người trong dòng
    vận động phức tạp và bất trắc của nghiệp lý và trình độ này phải
    được huân tập không chỉ trong một kiếp sống, mà phải trải qua vô số
    kiếp luân hồi. Mặc dù qua kinh điển, ta có thể đã từng đọc
    thấy rất nhiều trường hợp những cá nhân cứ triền miên lăn trôi theo
    một dòng vận động nghiệp báo gần như mang tính nghiệp dĩ, một
    kiểu duyên số mang tính định phận. Ðúng ra thì để có thể có
    được một hiểu biết rộng rãi về những khuynh hướng tạo nghiệp
    cũng không có gì là khó khăn. Mặc dù có nhiều lúc ta vẫn bắt gặp những
    câu chuyện về vấn đề nghiệp lý xem ra có vẻ nghịch
    thường, cá biệt. Những câu chuyện như vậy thật cũng rất dễ hiểu
    và đơn giản, chỉ có điều là chúng nêu ra những khía cạnh phức tạp và
    tế nhị của quy luật nghiệp lý mà thôi.  
    Chẳng hạn như câu chuyện về một người đàn ông trong thời Ðức
    Phật, sau khi đặt bát cúng dường cho một vị Tỳ Kheo La Hán rồi lại sanh lòng
    tiếc của xem đó như là một sự lãng phí vô ích. Dù sao thì việc bố
    thí đến một đối tượng thánh nhân cũng là một công đức lớn nên nhờ
    vào quả phước của lần cúng dường duy nhất đó, người đàn ông nọ sau
    khi chết đã bảy lần liên tục tái sanh trở lại làm người và kiếp
    nào cũng được là một triệu phú giàu có. Nhưng do chút lòng tiếc
    của trong lần bố thí ngày xưa, nên dầu có giàu sang đến mấy, suốt cả
    bảy đời triệu phú, ông chỉ biết ngồi trên đống vàng mà ăn mặc tằn
    tiện như một gã ăn mày. Ðó quả là một trường hợp trớ trêu của
    nghiệp lý. Mỗi một thoáng tư tưởng đều luôn để lại một
    hậu quả tương ứng: Một hành động được thực hiện bằng bao nhiêu tác
    động tâm lý, dù chúng có đối lập với nhau đến mấy đi nữa, thì
    kết quả của hành động đó cũng sẽ giữ lại trọn vẹn những khía cạnh
    mâu thuẩn tương ứng. Ðối với cả hai trường hợp tạo nghiệp thiện ác
    đều có chung một qui luật như vậy: Nhân thuần túy sẽ cho quả thuần túy,
    nhân pha trộn thì quả cũng theo đó mà trổ sanh duới hình thức pha trộn. 
    Những hạnh nghiệp vào giây phút cận tử trên giường chết cũng là
    một phần nhân tố quyết định cho việc tái sinh. Có tất cả bốn trường
    hợp nghiệp lực khả dĩ ảnh hưởng đến những giây phút cuối đời của
    chúng ta. Trường hợp thứ nhất là Trọng Nghiệp, tức những hành động
    thiện ác mang tính nghiêm trọng (ở cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực)
    mà chúng ta đã tạo trong thuở bình sinh. Loại nghiệp này có sức tác
    động rất lớn đến cảnh giới tái sinh.Trọng nghiệp ở đây nếu
    là những trọng nghiệp bất thiện thì có thể là những hành
    động xúc phạm đến những cá nhân hay tập thể đáng kính. Về
    thiện nghiệp thì có thể là sự chứng đạt các tầng thiền hoặc
    các tầng thánh quả hữu học... 
    Trường hợp thứ hai là nếu không có sự can thiệp của các trọng
    nghiệp thì một sự thực hiện tại chỗ hoặc các hồi tưởng về
    những tiền nghiệp thiện ác trong thuở sinh thời đều có ý
    nghĩa tác động đến vấn đề tái sinh. Thuật ngữ Phật học gọi
    đây là trường hợp Cận Tử Nghiệp. Những giây phút cuối cùng của một
    kiếp sống là cả một cuộc giàn xếp giữa nghiệp báo với sự tái
    sanh. Nếu lúc bình sinh mà ai cũng biết sáng suốt và tỉnh thức chứng
    kiến những phút giây hấp hối của người khác thì đến lúc này thì
    chúng ta mới may ra có đủ can đảm và bình tĩnh đối diện với chính cái
    chết của mình.  
    Nếu không có sự chi phối của hai loại nghiệp trên thì vấn đề
    tái sinh của đương sự có thể được quyết định bởi trường hợp
    nghiệp lực thứ ba mà thuật ngữ trong kinh điển vẫn gọi là Thường
    Nghiệp, tức những hành vi thiện ác dầu thuộc tinh thần hay hành động
    cụ thể mà ta vẫn lập đi lập lại nhiều lần trong đời sống thường
    nhật. Ở đây ta có thể gọi đó là Tập Quán Nghiệp cũng
    được. Loại nghiệp này vẫn đủ sức mạnh giàn xếp cho ta một cảnh
    giới tái sinh bằng cách tự hồi trạng lại trong những hơi thở sau cùng. Xét ra
    đây là loại nghiệp được xem là phổ cập nhất.  
    Cuối cùng, ta phải nhắc đến loại nghiệp thứ tư mà công năng của
    nó vẫn có sức tác động gần tương tự như ba loại nghiệp trước, có
    nghĩa là vẫn có thể qui định sinh thú cho đương sự hấp hối, đó chính
    là Khinh Thiểu Nghiệp, những việc làm tốt xấu nhỏ nhoi không đáng
    kể mà ta đã thực hiện trong những dịp ngẫu nhiên, tình cờ nào đó.
    Tuy là những sở hành nhặt nhạnh, chắt chiu, bé mọn không đáng kể
    nhưng dù sao thì nghiệp lúc nào vẫn là nghiệp và đã là nghiệp
    thì dĩ nhiên cái di hậu tất yếu của nó phải là quả. Nếu không có ba
    loại nghiệp trước xuất hiện thì loại nghiệp thứ tư này cũng sẽ
    tự đến ám ảnh tâm lý người sắp chết, đồng thời quyết định
    cảnh giới tái sanh cho họ. 
    Bất cứ hạnh nghiệp nào cũng đều luôn có một hướng phản ứng và
    hướng phản ứng đó đôi khi lại tùy thuộc vào những tình huống bất ngờ
    để thậm chí có thể trở nên vô hiệu nghiệm. Ta có thể
    thấy rõ trường hợp này qua câu chuyện sau đây vẫn được ghi lại trong
    kinh điển. Vào thời Ðức Phật có một gã sát thủ khát máu giết
    người không gớm tay, Sau một thời gian tung hoành khắp chốn, gã đã bị bắt
    rồi bị kết án tử hình. Trong giây phút cuối cùng ở pháp trường, gã sát
    thủ này đã tình cờ nhìn thấy một số vị Tỳ Kheo đang đi ngang qua đó. Hình
    bóng của các vị tự nhiên làm hắn nhớ lại việc minh đã để bát cúng
    dường cho Ngài Xá Lợi Phất. Lòng hắn bất chợt trào dâng một niềm hoan
    hỷ vô hạn để rồi với chút thiện tâm đó, ngay sau khi lìa khỏi
    cổ, gã sát thủ đã lập tức tái sanh lên thiên giới. 
    Một trường hợp vô hiệu khác của các tiền nghiệp là khi một
    người đã được sanh về những cảnh giới cao cấp, quả nghiệp ác xấu
    quá khứ cũng không có điều kiện trổ quả. Tuy nhiên những trường hợp
    vô nghiệm như vậy cũng chỉ mang tính tạm thời mà thôi. Chính bản thân
    các vị thiên nhân cũng có thể thấy rõ điều đó. Họ biết nhờ
    đâu mà mình được sanh về thiên giới và đồng thời cũng hiểu được
    những ác quả mà mình sẽ phải gánh chịu sau khi đã sống hết tuổi thọ
    của kiếp thiên nhân hiện tại. Chính nhờ hiểu biết được
    điều này, một số vị thiên nhân đã cố gắng hạn chế tối đa những
    giây phút hưởng lạc, mặc dù với những điều kiện sống hết sức
    tuyệt vời trên thiên giới thì một nổ lực như vậy quả thật không dễ
    dàng tí nào, để dốc sức tu tập thiện pháp nhằm hướng đến một
    quả vị thánh nhân nào đó, tối thiểu là tầng sơ quả, một bến bờ
    vĩnh viễn cách ngăn tất cả đọa xứ. Theo kinh điển ghi lại thì sau khi
    đã sanh về thiên giới, tay sát thủ trên đây cũng đã chứng đạt quả vị
    Tu Ðà Huờn. 
    Khi giải thích về nghiệp lý, Ðức Phật luôn đặc biệt nhấn
    mạnh đến khía cạnh tiềm lực của từng trường hợp hành động thông
    qua những nhân tố tương thuộc đối với quả nghiệp. Chẳng hạn khi nói
    về sức mạnh tạo quả của việc bố thí, Ngài dạy rằng chỉ riêng
    trường hợp thực hiện này thôi cũng đã có đến ba nhân tố quyết
    định tình trạng trổ quả của nó để từ đó một cuộc bố thí dù lớn nhỏ
    đều có một kết quả và tính cách khác nhau: Ðức hạnh của người
    nhận, tấm lòng của người cho, và thí phẩm có hợp pháp, hợp lệ hay
    không. Sự thiếu đủ các nhân tố này luôn quyết định kết quả của
    cuộc bố thí đó. 
    Từ đó suy ra, ta có thể hiểu rằng nhiều khi một cuộc trai đàng
    long trọng được tổ chức để cúng dường đến Ðức Phật cùng
    đoàn thể Thánh Tăng mà công đức so ra vẫn ít hơn đôi ba phút phơi mở
    trọn vẹn tâm hồn mình rồi tập trung tư tưởng hướng về tất cả chúng
    sanh một lòng từ bi vô lượng, không phân biệt. Bởi vì ở đây chúng ta
    có thể tạm thời chọn ra một trong nhiều lý do để giải
    thích trường hợp vừa nêu trên, là để có một tình thương vô lượng tự
    đáy lòng như vậy, chúng ta dĩ phải có một tư tưởng giao hòa và cảm thông
    vô bờ bến đối với mọi loài, mà đó lại là một sức mạnh tâm linh
    vô cùng thâm hậu và cần thiết cho tất cả thiện nghiệp.  
    Ðức Phật còn dạy rằng công đức vô lượng của lòng từ bi trên đây xét
    ra còn thua xa công đức của một phút giây thấu thị tinh tường bản chất Tam
    Tướng của các pháp. Sở dĩ một khoảnh khắc trí tuệ về Tam Tướng lại
    được đánh giá cao như vậy là bởi chính nó giúp ta giác ngộ. Chỉ cần nhìn
    thấy được bản chất vô thường của thân tâm chính mình thôi, xem nó sinh
    hóa như thế nào, thì coi như chúng ta đã phát triển khả năng tự tại
    và bình thản trước tất cả những cấu tố như huyễn của từng cảm nghiệm
    trong đời sống. Ðôi khi trong công phu thiền định, lúc phải đối đầu
    với trở lực khó khăn thuộc tâm sinh lý, chúng ta tự đánh mất khả năng
    nhìn ngắm thực tại mà công phu thiền định của mình đang nhắm tới. Tuy
    nhiên điều đó lại giúp ta ghi nhớ rằng những năng lực nghiệp báo
    luôn được hình thành từ những huân tập tích lũy và tái hiện một cách
    liên tục. Và sự chiêm ngắm, tỉnh thức về bản chất vô thường của vạn
    hữu là cả một chuỗi dài của những trí tuệ được tái hiện
    nhiền lần cho nên đương nhiên đây là một nghiệp lực hùng hậu khả
    dĩ dẫn đến nhiều thiện báo an lành và tự do. 
    Trí tuệ về nghiệp lý chẳng khác gì một nguồn ánh sáng cho
    thế giới, bởi từ đó chúng ta mới có thể chọn lấy cho mình một
    hướng đi thích đáng và đời sống của chúng ta mới thật sự nhắm đến
    tất cả những gì trọn vẹn và hoàn mãn nhất. 
    J. G. 
      
    Hướng dẫn thực tập
    Thực hiện một tinh thần
    thiền định tự tại
    Thái độ tự tại dĩ nhiên là tư thái căn bản, cốt
    lõi của Thiền Quán nhưng bằng vào pháp môn tu tập về bốn pháp phạm
    trú (Từ, Bi, Hỷ, Xả), tinh thần tự tại cũng vẫn có thể được phát
    triển như một phương tiện thiết yếu. Tinh thần tự tại thường
    song hành và được vận dụng để điều động lòng từ bi. Và mặc dù
    chúng ta có cố gắng trưởng dưỡng, tu tập một lòng từ bi vô lượng đối với
    tha nhân bằng tất cả những cố gắng san sẻ hết mình những nỗi đau khổ
    trên toàn thế giới nhưng chắc chắn vẫn luôn có nhiều trường hợp,
    tình huống mà chúng ta không thể nào tìm thấy được một chút trắc ẩn,
    bất nhẫn. Thánh Francis đã có một lời nguyện rất nỗi tiếng:
    "Xin cho tôi có đủ sức mạnh để thay đổi mọi sự mà mình muốn
    thay đổi để tôi không phải bất lực trong khả năng đón nhận mọi sự,
    và xin cho tôi hãy có được cái trí tuệ để hiểu được những gì
    mà mình chưa biết đến". Một trí tuệ về nghiệp lý
    trong sự hiện hữu của tất cả chúng sinh luôn mang lại cho ta một tâm hồn
    sáng suốt cộng với một trái tim biết yêu thương không phân biệt. 
    Ðể có được một tư phong lẫn tâm thái tự tại,
    trước hết hành giả nên chọn lấy một tư thế ngồi thật thoải mái
    rồi nhắm mắt lại. Sau đó, hành giả tập trung tư tưởng vào hơi thở cho
    đến khi nào có được một sự cảm nhận chính chắn, khách quan rằng tâm
    sinh lý của mình đang ở trong tình trạng thật sự ổn định. Tiếp theo,
    hành giả hãy bắt đầu chiêm ngắm trực tiếp vào nội tâm vốn đang được
    quân bình và tự tại của mình. Hãy tự cảm nhận như là một sự thưởng thức
    chính thực tại đó và nếu cần, hành giả có thể tự ám thị mình bằng
    những lời thầm thì mang ý nghĩa xác định thực tại: "Mong sao nội tâm
    tôi luôn được quân bình và an lành; mong sao tôi không bị quấy động bởi
    bất cứ tục sự nào,...". Rồi hành giả nên tự mình quán xét tổng quát
    bản chất vô thường của mọi thứ trên đời: Cái gì cũng tự đến rồi
    đi, không có chi là trường tồn bất biến. Từ niềm vui cho đến nổi
    buồn, nỗi bất hạnh hay điều may mắn, con người, nhà cửa, súc vật,
    các dân tộc và kể cả toàn bộ các nền văn minh đều chỉ là
    bọt nước phù du.  
    Hành giả nên luôn tâm niệm rằng mong sao mình có
    thể điềm nhiên ngắm nhìn tất cả những đổi thay trên đời bằng một
    nội tâm tự tại thăng bằng, đồng tự phơi mở tâm hồn mình để thương
    yêu tất cả vạn loài mà vẫn bằng tâm thái đó. Ðể xác quyết trí
    tuệ về nghiệp lý "Mỗi người luôn chịu trách nhiệm
    về những sở hành thiện ác lớn nhỏ của mình", hành giả lại nên
    tiếp tục nuôi dưỡng ở chính tâm hồn mình cái khả năng yêu thương và
    tự tại trong mỗi biến cố của đời sống, dĩ nhiên vẫn với sự quân
    bình, điềm tỉnh và bình an của nội tâm. 
     
    [Chương trước][Mục
    lục][Chương kế]  |