BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
MANY LIVES, MANY MASTERS

Tác Giả : Bác Sĩ BRIAN L. WEISS
Dịch Giả: THÍCH TÂM QUANG

PHẬT LỊCH 2549 - DƯƠNG LỊCH 2006


Câu Chuyện Thật Của Một Bác Sĩ Chuyên Khoa Tâm Thần, Một Bệnh Nhân Trẻ Của Ông, và Cách Chữa Trị Tiền Kiếp Đã Thay Đổi hẳn Đời Sống của Cả Hai.

-ooOoo-

LỜI NGƯỜI DỊCH

Thời đại ngày nay là thời đại khoa học, nhưng có thể nói chính xác hơn là thời đại khoa học vật chất, còn khoa học tinh thần thì có lẽ mới chỉ là những bước đi chập chững. Từ thượng cổ người ta đã suy nghĩ và tìm hiểu xem có tiền kiếp và luân hồi không, nhưng cho tới nay hầu như chưa có câu trả lời "khoa học". Những ý niệm, khái niệm, ý tưởng về điều đó vẫn là một vấn đề nhức nhối gây bán tín bán nghi. Thì đây, tác phẩm này đích thực là một công trình khoa học dưới dạng thức văn học về tiền kiếp và luân hồi, một vấn đề xuyên suốt quá trình triết học, tôn giáo trong lịch sử loài người.

Đúng như tác giả, Bác Sĩ Brian L. Weiss viết "loài người đã chống lại những thay đổi và không chấp nhận những ý tưởng mới". Quả thật là như vậy. Vì đây là những vấn đề hết sức khó chứng minh một cách khoa học nhưng lại thật đơn giản trong khoa học tôn giáo đích thực. Bạn đọc hoàn toàn có thể tự do so sánh đối chiếu để tìm ra chân lý. Bạn có thể tin rằng có nhiều tiền kiếp và nhiều lần luân hồi hay không, điều đó cũng chẳng khác câu chuyện của Galileo xưa kia. Dù sao, trái đất vẫn cứ quay.

đây là chuyện khoa học nên nó được viết rất chân thật, giản dị, trong sáng song rất hấp dẫn vì xen lẫn hiện tại, quá khứ, những suy tư quí báu của tác giả. Tin chắc rằng bạn đọc sẽ rút ra được những kết luận bổ ích cho cuộc sống, và biết đâu nó cũng thay đổi hẳn cuộc sống của mình.

Tự biết khả năng còn nhiều hạn chế, nhưng với tấm lòng nhiệt thành chúng tôi cố gắng hoàn thành dịch phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc.

Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư Tôn Đức đã khích lệ và góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biệt chúng tôi xin tri ân Đạo Hữu Trần Quốc Cường đã bỏ nhiều công phu để hiệu đính, sửa chữa những thiếu sót sai lầm, một đóng góp to lớn trong việc phát hành tác phẩm này. Chúng tôi cũng xin chân thành tri ân các Đạo Hữu Diệu Linh Phạm Bích Kiều - Bác Sĩ Richard J. Kochenburger, Kỳ Châu - Diệu Thức cùng các bạn đạo tại Houston Texas, Chơn Phổ Nguyễn Thị Phương, Trí Quang Nguyễn Thế Nhiệm, Bác Sĩ Hoàng Giang, Đạo Hữu Trần Minh Tài, Nguyên Khiêm Lương Thị Thanh Kiểm, Võ Hiếu Liêm - Đặng Thị Hạnh, Minh Hỷ Phan Duyệt - Diệu Tâm Nguyễn Thị Thuyên, D.S Hoàng Trọng Bình - D.S Nguyễn Thị Vân, Diệu Chơn Lương Thị Mai, Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Mạnh Cương, Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Tuấn, Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Thị Mai Trinh, Nguyễn Hữu Nhung, Nguyễn Cung Thị Hỷ đã phát tâm cúng dường ấn tống tác phẩm này.

Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý Đạo Hữu cùng bửu quyến thân tâm thường an lạc, hạnh phúc và các hương linh Ninh Viết Khánh, pháp danh Tuệ Trường, Bùi Kim Hạnh, pháp danh Diệu Ngôn, Châu Nguyệt Vân Thu, Nguyễn Mỹ Linh, Hoàng Văn Nhượng, Nguyễn Ngọc Hoạt và Phương Thị Tính, pháp danh Diệu Thủy, Nguyễn Thị Thái, Phan Thị Lộc vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Sau cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để tác phẩm được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.

Xuân Bính Tuất, Phật Lịch 2549, Dương Lịch 2006
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang

-ooOoo-

Tặng Carole, Người Bạn Đường Của Tôi,

Tình yêu của Carole đã nuôi dưỡng và nâng đỡ tôi khiến tôi không bao giờ quên

Chúng tôi luôn bên cạnh nhau, cho đến giây phút cuối cùng.

Lời cảm ơn và tình thương yêu của tôi gửi đến các con tôi Jordan và Amy, vì đã thứ lỗi cho tôi làm cho các con mất nhiều thì giờ để viết tác phẩm này.

Tôi cũng xin cảm ơn Nicole Paskow đã ghi âm những buổi trị liệu.

Cảm ơn Julie Rubin về những ý kiến biên tập quí báu sau khi đọc bản thảo đầu tiên của tác phẩm này.

Gửi lời cảm ơn chân thành tới Barbara Gess, biên tập viên, nhà xuất Bản Simon và Schuster, vì tài năng chuyên môn và lòng can đảm của bà.

Cảm kích sâu xa của tôi tới tất cả những người ở khắp nơi, đã khiến cho tác phẩm này được thành tựu.

-- Bác Sĩ BRIAN L. WEISS

LỜI TỰA

Tôi biết mọi chuyện đều có lý do. Có lẽ vào lúc một sự việc nào đó xẩy ra chúng ta không thấu hiểu hay biết nhìn xa trông rộng để nhận thức thấu đáo lý do đó, nhưng với thời gian và kiên nhẫn, nguyên nhân này sẽ được đưa ra ánh sáng.

Cũng như vậy với Catherine. Tôi gặp cô lần đầu vào năm 1980 khi cô hai mươi bẩy tuổi. Cô đến văn phòng tôi để chữa bệnh trầm cảm, lên cơn sợ hãi, và ám ảnh sợ. Tuy cô đã có những triệu chứng này từ hồi còn thơ ấu, nhưng gần đây tình trạng càng ngày càng tồi tệ hơn. Hàng ngày cô cảm thấy tinh thần bị tê liệt và hoạt động kém. Cô sợ hãi và bị suy nhược.

Trái với sự chao đảo xẩy ra trong đời sống của cô vào lúc đó, đời sống của tôi trôi chẩy suông sẻ. Tôi có gia đình khá vững vàng, hai con nhỏ, và một sự nghiệp đang phát triển.

Từ lúc đầu, đời sống của tôi dường như luôn luôn thăng tiến. Tôi lớn lên trong một gia đình yêu thương. Thành công ở đại học đến với tôi dễ dàng, và ngay vào năm đại học thứ hai tôi đã có quyết tâm trở thành một bác sĩ tâm thần học.

Tôi được cấp bằng Phi Beta Kappa, Cấp II (Magna Cum Laude) tại Trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước năm 1966. Rồi tôi vào Trường Đại Học Y Khoa Yale và nhận bằng Bác Sĩ Y khoa năm 1970. Sau khi thực tập nội trú tại Trung Tâm Đại Học Y Khoa Nữu Ước-Bellevue, tôi trở lại Đại Học Yale để hoàn tất chương trình thực tập nội trú. Sau khi hoàn tất, tôi nhận một chức vụ của khoa tại Đại Học Pittsburg. Hai năm sau, tôi tham gia giảng dạy y khoa tại đại học Miami, trưởng ban dược lý trị liệu. Nơi đây tôi được nhà nước công nhận trong lãnh vực tâm thần sinh học và lạm dụng vật chất. Sau bốn năm ở trường Đại học tôi được đề bạt làm Trợ Lý Giáo Sư ngành Tâm thần tại trường Y khoa, và được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Tâm Thần tại một bênh viện lớn đã sát nhập với Trường Đại Học Miami. Vào lúc này tôi đã công bố ba mươi bẩy tham luận khoa học và sách đề tài trong lĩnh vực của tôi.

Nhiều năm nghiên cứu khắt khe đã rèn luyện tâm trí tôi suy nghĩ với tư cách khoa học gia và thầy thuốc, hướng tôi đi theo con đường bảo thủ hẹp hòi trong nghề nghiệp của tôi. Tôi không tin vào cái gì nếu không thể chứng minh được bằng phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có ý thức về một số nghiên cứu trong khoa cận tâm lý được thực hiện tại các đại học lớn trong nước, nhưng những nghiên cứu này cũng không làm cho tôi chú ý. Tất cả điều đó dường như quá cường điệu đối với tôi.

Rồi tôi gặp Catherine. Trong mười tám tháng tôi đã sử dụng phương pháp trị liệu thông thường để giúp cô khắc phục những triệu chứng của cô. Khi thấy không có gì hiệu quả, tôi thử thôi miên. Trong trạng thái mơ màng từng đợt, Catherine nhớ lại tiền kiếp chứng minh những nhân tố đã gây ra những triệu chứng cho cô. Cô cũng có thể hành động như cáp thông tin từ " thực thể tinh thần" tiến hóa cao và qua họ, cô đã cho thấy nhiều bí mật về đời sống và cái chết. Chỉ vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất, và cô đã tiếp tục cuộc sống, hạnh phúc và an lạc hơn trước nhiều.

Không có gì trong học vấn và kinh nghiệm của tôi đã sửa soạn cho tôi về việc này. Tôi tuyệt đối ngỡ ngàng khi những biến chuyển này bộc lộ.

Tôi không có lời giải thích khoa học nào về điều đã xẩy ra. Tâm trí con người có quá nhiều cái vượt khỏi tầm nhận thức của chúng ta. Có lẽ, do thôi miên, Catherine đã có thể tập trung vào phần tiềm thức chứa những ký ức thực sự về tiền kiếp hay có thể cô đã kết nối vào cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi là tập hợp vô thức, nguồn gốc của năng lượng bao quanh chúng ta và chứa đựng những ký ức về toàn thể loài người.

Các khoa học gia đang bắt đầu tìm kiếm câu trả lời ấy. Chúng ta, là một xã hội, đạt được nhiều cái do khám phá ra những bí mật của tâm trí, linh hồn và sự tiếp tục sau khi chết, và ảnh hưởng của những kinh nghiệm của tiền kiếp đối với cách ứng xử hiện tại của chúng ta. Rõ ràng, những sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt trong lĩnh vực y học, tâm thần học , thần học, và triết học.

Tuy nhiên sự nghiên cứu khoa học mạnh mẽ trong lĩnh vực này chỉ ở trong trứng nước. Đã có những tiến bộ lớn trong việc khám phá ra kiến thức này, nhưng tiến trình lại chậm và vấp phải sự phản kháng của các khoa học gia cũng như của dân chúng.

Suốt dòng lịch sử, loài người luôn chống lại sự thay đổi và không chấp nhận những ý kiến mới. Toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết lịch sử đầy những thí dụ. Khi Galileo khám phá ra những vệ tinh của Mộc Tinh, những nhà thiên văn học lúc đó đã từ chối, không chấp nhận và thâm chí không xem xét những vệ tinh này vì sự hiện hữu của các vệ tinh này mâu thuẫn với niềm tin đã được chấp thuận của họ. Vậy nên ngày nay các nhà tâm thần học và các bác sĩ chuyên khoa khác cũng từ chối xem xét và đánh giá chứng tích được thâu thập về sự sống sót sau khi thân xác chết và về những ký ức về tiền kiếp. Họ đã nhắm mắt.

Tác phẩm này là sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào tiến trình nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lý, nhất là ngành nghiên cứu những kinh nghiệm trước khi sinh và sau khi chết. Mỗi lời nói mà bạn đọc là sự thật. Tôi không thêm gì cả, và tôi chỉ bỏ những phần lặp đi lặp lại. Tôi đã thay đổi chút ít nhận dạng của Catherine để bảo đảm sự bảo mật.

Tôi đã mất bốn năm để viết về cái đã xẩy ra, bốn năm để có can đảm liều lĩnh trong nghề nghiệp tiết lộ những tin tức không truyền thống này.

Đột nhiên một đêm trong khi tôi đang tắm, tôi cảm thấy như bị ép buộc phải viết ra những gì đã kinh qua. Tôi có một cảm giác mạnh là đã đến lúc tôi không nên giữ tin tức này lâu hơn nữa. Những bài học mà tôi biết phải được chia sẻ với những người khác và không nên giữ riêng cho mình. Kiến thức phát ra qua Catherine và nay phát qua tôi. Tôi biết rằng không có hậu quả nào có thể xảy ra nếu tôi phải đương đầu có thể chứng tỏ là tàn phá bằng việc không chia sẻ kiến thức mà tôi có được về sự bất tử và ý nghĩa thực sự của cuộc sống.

Tôi vội vàng ra khỏi phòng tắm, ngồi vào bàn với chồng băng thâu trong những buổi làm việc với Catherine. Vào lúc gần sáng, tôi nghĩ đến ông nội, người Hung ga ri của tôi đã chết khi tôi hãy còn là một thiếu niên. Bất cứ khi nào tôi nói với ông là tôi sợ liều lĩnh, ông cũng khuyến khích tôi một cách thương yêu bằng cách nhắc lại câu thành ngữ tiếng Anh ưa thích của ông : "địa ngục gì mà sợ", ông sẽ nói. "địa ngục gì mà sợ".

-ooOoo-

CHƯƠNG MỘT

Lần đầu tôi gặp Catherine, cô mặc một bộ đồ đỏ tươi và bồn chồn dở trang tạp chí để tại phòng đợi của tôi. Rõ ràng là cô thở hỗn hển. Hai mươi phút trước đó, cô đi tới đi lui trong hành lang bên ngoài Khoa Tâm Thần, cố gắng thuyết phục mình giữ đúng hẹn gặp tôi mà không bỏ đi.

Tôi ra phòng đợi và chào cô, và chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhận thấy tay cô lạnh và ẩm ướt, xác nhận có sự lo âu. Thực ra sau hai tháng trời thu thập can đảm để làm hẹn gặp tôi mặc dù hai thầy thuốc tư vấn mà cô tin tưởng khuyên cô tìm sự giúp đỡ nơi tôi. Cuối cùng cô đã ở đây.

Catherine là một phụ nữ quyến rũ lạ thường, với mái tóc vàng hoe dài vừa phải và cặp mắt mầu nâu nhạt. Lúc đó, cô là một chuyên viên phòng thí nghiệm tại bệnh viện mà tôi là Trưởng Khoa Tâm Thần, và cô kiếm thêm tiền bằng cách làm nghề mặc áo tắm.

Tôi bảo cô vào phòng tôi, đi qua chiếc đi văng tới chiếc ghế da lớn.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cái bàn bán nguyệt của tôi ngăn cách chúng tôi. Catherine ngả lưng trên ghế, im lặng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi chờ đợi, muốn để cho cô khởi đầu, nhưng sau vài phút, tôi bắt đầu hỏi về quá khứ của cô. Trong lần khám bệnh đầu, chúng tôi bắt đầu làm sáng tỏ cô là ai và tại sao cô đến tìm gặp tôi.

Trả lời câu hỏi của tôi, Catherine cho biết câu chuyện về đời sống của cô. Cô là một đứa trẻ trung bình, sinh ra trong một gia đình Cơ Đốc Giáo ôn hòa tại một thành phố nhỏ ở Massachussetts. Người anh cô, sinh ra trước cô ba năm, rất khỏe mạnh, được hoàn toàn tự do mà cô thì không được phép. Em gái của cô là đứa con được cưng chiều nhất của cả bố mẹ.

Khi cô bắt đầu nói về những triệu chứng của cô, cô trở nên căng thẳng và giao động nhiều. Cô nói thật nhanh và ngả người về phía trước, tựa khuỷu tay lên bàn. Đời cô luôn luôn bị đè nặng bởi sợ hãi. Cô sợ nước, sợ bị nghẹn đến mức không thể nuốt nổi viên thuốc, sợ máy bay, sợ bóng tối, và cô rất hãi hùng về cái chết. Trong thời gian vừa qua, sự sợ hãi của cô bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Để cảm thấy an toàn, cô thường ở phòng nhỏ có lối đi trong căn hộ của cô. Cô phải mất hai hay ba giờ mới ngủ được. Khi ngủ, cô ngủ chập chờn không ngon giấc, chốc chốc lại thức. Những cơn ác mộng và những tình tiết mộng du gây tệ hai cho cô lúc còn nhỏ bắt đầu trở lại. Khi sợ hãi và những triệu chứng ngày càng làm cô tê liệt, cô càng trở nên phiền muộn.

Trong khi Catherine nói chuyện, tôi có thể cảm thấy cô đau khổ sâu xa đến nhường nào. Nhiều năm qua tôi đã giúp nhiều bệnh nhân như Catherine thoát khỏi những thống khổ của sợ hãi, và tôi cảm thấy tin tưởng cũng có thể giúp cô. Chúng tôi quyết định đào sâu thời ấu thơ của cô tìm ra căn nguyên phát sinh các khó khăn của cô. Thường thường kiểu nhìn vào bên trong giúp làm nhẹ đi lo âu. Nếu cần thiết, và nếu cô có thể uống thuốc, tôi sẽ cho cô một số thuốc chống lo âu loại nhẹ để cô được thoải mái hơn. Đó là cách chữa trị theo tiêu chuẩn sách vở cho các triệu chứng của Catherine, và tôi không bao giờ ngần ngại dùng thuốc an thần, hay thuốc chống suy nhược thần kinh, để chữa trị những chứng sợ hãi và lo âu nghiêm trọng và kinh niên. Bây giờ tôi ít khi dùng những thứ thuốc đó và chỉ dùng chúng tạm thời hay là không dùng nữa. Không có thứ thuốc nào có thể trừ được tuyệt căn những triệu chứng ấy. Những kinh nghiệm của tôi với Catherine và với những người khác như cô đã chứng minh điều đó với tôi. Bây giờ tôi biết có thể có những phương thuốc không chỉ ngăn chặn hay bao trùm những triệu chứng.

Trong buổi chữa bệnh đầu tiên, tôi cố gắng đánh nhẹ vào thời thơ ấu của cô. Vì lạ lùng là Catherine chỉ nhớ được một số ít biến cố hồi thơ ấu, để tiến nhanh đến việc khắc phục sự ức chế này, tôi đã để tâm xem xét đến cách chữa trị bằng thôi miên. Cô không thể nhớ tí gì đến những lần chấn thương đặc biệt nào trong lúc thơ ấu có thể giải thích được sự sợ hãi lan tràn trong đời cô.

Vì cô gắng sức căng tâm trí ra để mà nhớ lại, những mảng ký ức riêng biệt đã xuất hiện. Khi cô năm tuổi, cô đã kinh sợ khi một người nào đó đẩy cô từ cái cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô nói là ngay cả đến trước khi việc xẩy ra này, cô không bao giờ thấy thoải mái ở dưới nước. Khi Catherine mười một tuổi, mẹ cô bị suy nhược trầm trọng. Mẹ cô bỏ nhà một cách kỳ cục, đòi hỏi phải được khám bệnh bởi một bác sĩ tâm thần với sự điều trị bằng sốc điện. Cuộc điều trị này đã khiến cho mẹ cô rất khó nhớ lại các sự việc. Kinh qua việc này với mẹ cô làm Catherine sợ hãi, nhưng, vì mẹ cô đã đỡ nhiều và trở lại như xưa, Catherine nói, những nỗi sợ hãi của cô tiêu tan. Cha cô là một người rượu chè và đôi khi người anh Catherine phải tìm đến quán rượu địa phương để đưa ông về. Cha cô càng ngày càng uống nhiều rượu dẫn đến đánh lộn thường xuyên. Mẹ cô, bà trở nên ủ rũ và thu mình lại. Tuy nhiên Catherine thấy đó là mẫu hình gia đình đã được chấp nhận.

Mọi sự tốt hơn bên ngoài gia đình. Cô có hò hẹn ở trường trung học và hòa đồng dễ dàng với bạn bè, đa số bạn cô, cô biết họ đã nhiều năm. Tuy nhiên cô thấy thật khó mà tin người, nhất là những người ở ngoài nhóm bè bạn nhỏ nhoi của cô.

Tôn giáo của cô thì bình dị và không có vấn đề gì. Cô được nuôi dưỡng để tin vào hệ tư tưởng cách tu tập của Cơ Đốc Giáo truyền thống, và thực sự là chẳng bao giờ cô hoài nghi về tính đứng đắn và giá trị của Cơ Đốc Giáo. Cô tin rằng nếu bạn là một người Cơ Đốc ngoan đạo và sống đúng bằng cách tuân theo niềm tin và nghi thức, sẽ được lên thiên đàng, nếu không bạn sẽ phải chuộc tội hay địa ngục. Thượng Đế Cha và Con Ngài ban ra những quyết định cuối cùng. Sau này tôi được biết Catherine không tin luân hồi; thật ra cô biết rất ít về khái niệm này, tuy thỉnh thoảng cô có đọc về những người Ấn Giáo. Luân hồi là một ý niệm trái ngược với sự dạy dỗ và hiểu biết của cô. Cô không bao giờ đọc sách về siêu hình hay huyền bí, vì chẳng bao giờ để ý đến chuyện ấy. Cô vững tin vào tín ngưỡng của mình.

Sau trung học, cô hoàn tất hai năm kỹ thuật, trở thành một chuyên viên phòng thí nghiệm. Có một nghề nghiệp và được khuyến khích bởi người anh, cô chuyển về Tampa, giành được chỗ làm ở Miami tại một bệnh viện huấn nghiệp lớn liên kết với Trường Đại Học Y Khoa Miami. Cô dọn về Miami vào mùa xuân năm 1974 lúc 21 tuổi.

Hóa ra là đời sống của Catherine ở Miami lại khó khăn hơn ở một thành phố nhỏ, tuy nhiên cô thấy sung sướng là đã thoát khỏi những vấn đề gia đình.

Trong năm đầu tại Miami, Catherine gặp Stuart. Là người Do Thái hai con, Stuart khác hẳn với những người mà cô từng hò hẹn. Anh là một thầy thuốc thành công, mạnh mẽ và năng động. Có một quá trình bí mật không cưỡng nổi giữa hai người, nhưng cuộc ngoại tình của họ không vững chắc và đầy bão tố. Một cái gì đó ở anh đã lôi cuốn tình cảm mạnh mẽ của cô và đã tỉnh thức cô, như thể cô bị anh mê hoặc. Vào lúc Catherine bắt đầu chữa bệnh, cuộc tình với Stuart đã được sáu năm, vẫn còn rất mặn nồng nếu không phải là sâu đậm. Catherine không thể cưỡng lại nổi Stuart tuy anh đối xử với cô không đẹp, và cô tức giận về những dối trá, không giữ lời hứa và những mánh khóe của anh.

Một vài tháng trước khi gặp tôi để khám bệnh, Catherine cần phải giải phẫu dây thanh vì một khối u lành. Cô đã rất lo lắng trước khi giải phẫu và hết sức kinh hoàng lúc tỉnh lại tại phòng hồi sức. Phải mất nhiều giờ ban trợ y mới làm cho cô bình tĩnh lại được. Sau khi bình phục ở bênh viện, cô bèn tìm đến Bác Sĩ Edward Poole. Bác sĩ Edward là một bác sĩ nhi khoa rất tốt bụng mà Catherine đã gặp trong khi làm việc tại bệnh viện. Hai người đều cảm thấy có ngay mối quan hệ và nảy nở tình bạn hữu thân thiết. Catherine bầy tỏ hết với Bác sĩ Edward, cho biết về những sợ hãi, quan hệ với Stuart, và cô cảm thấy mất tự chủ trong cuộc sống. Bác Sĩ Edward khăng khăng bảo cô gặp tôi, chỉ tôi chứ không bác sĩ tâm thần đồng nghiệp nào khác để chữa bệnh. Khi Edward điện thoại cho tôi để giới thiệu, ông giải thích, vì lý do nào đó, ông nghĩ rằng chỉ có tôi mới có thể hiểu tường tận Catherine, dù cho các bác sĩ tâm thần khác cũng rất có tín nhiệm và là những bác sĩ chuyên khoa lành nghề. Tuy nhiên Catherine không gọi tôi.

Tám tuần lễ trôi qua. Là Viện Trưởng Khoa tâm thần, tôi rất bận với công việc nên đã quên bẵng cuộc điện đàm với Bác sĩ Edward. Sợ hãi và ám ảnh sợ hãi của Catherine trở nên tồi tệ. Bác Sĩ Frank Acker, trưởng Khu phẫu thuật, tình cờ biết Catherine từ nhiều năm, thường đùa vui với Catherine khi ông đến thăm phòng thí nghiệm nơi Catherine làm việc. Ông cảm thấy cô không vui và bị căng thẳng. Mấy lần ông muốn nói với cô song lại lưỡng lự. Một buổi chiều, Frank lái xe trên một con đường nhỏ để ra khỏi bệnh viện để tới nơi thuyết trình. Trên đường đi, ông thấy Catherine lái xe về nhà ở gần bệnh viện, ông vội vẫy cô vào lề đường, rồi nói to với Catherine, " Tôi muốn Catherine gặp ngay Bác Sĩ Weiss", ông la lên qua kính xe "Không được chậm trễ". Mặc dầu các bác sĩ giải phẫu thường thôi thúc hành động, nhưng ngay cả Frank cũng ngạc nhiên là làm sao ông đã nhấn mạnh đến nhường nào.

Những cơn sợ hãi và lo âu ngày càng hay xảy ra và kéo dài dài. Cô bắt đầu bị hai cơn ác mộng tái phát. Một ác mộng về một cây cầu sập khi cô đang lái xe qua cầu. Xe cô đâm xuống nước, cô bị mắc kẹt và chết đuối. Trong ác mộng thứ hai, cô bị kẹt ở trong căn phòng quét hắc ín đen, trượt chân và vấp vào mọi thứ, không thể tìm thấy lối ra. Cuối cùng cô đã đến gặp tôi.

Lần chữa trị đầu tiên, tôi không hình dung là cuộc sống của tôi sắp đảo ngược mà người thiếu nữ sợ sệt bối rối ngồi bên kia bàn tôi, là chất xúc tác, và tôi không bao giờ còn như trước nữa.

-ooOoo-

CHƯƠNG HAI

Mười tám tháng tâm lý liệu pháp trôi qua, Catherine đến gặp tôi một hay hai lần một tuần. Cô là một bệnh nhân tốt, bộc lộ, có khả năng hiểu thấu, và muốn hồi phục nhanh chóng.

Trong thời gian này, chúng tôi khảo sát tỉ mỉ cảm nghĩ, tư tưởng và những giấc mộng của cô. Công nhận kiểu ứng xử hay tái diễn giúp cô có sự sáng suốt và hiểu biết. Cô đã nhớ được nhiều chi tiết có ý nghĩa về quá khứ của cô, chẳng hạn như cha cô buôn bán đường biển thường vắng nhà và thỉnh thoảng rất hung tợn sau khi uống nhiều rượu. Cô hiểu nhiều hơn về sự quan hệ của cô với Stuart, và cô bộc lộ cơn giận một cách thích đáng. Tôi cảm thấy lẽ ra cô khá hơn nhiều. Bệnh nhân hầu như thường khá hơn khi họ nhớ lại được những ảnh hưởng không mấy vui trong quá khứ, khi họ biết công nhận và sửa chữa kiểu ứng xử vụng dại và khi họ phát triển sự sáng suốt và xem những trở ngại của họ bằng cách nhìn rộng rãi hơn và khách quan hơn. Nhưng Catherine không mấy khá lên.

Lo âu và kinh sợ vẫn hành hạ cô. Cơn ác mộng mạnh tái diễn tiếp tục và cô vẫn sợ bóng tối, sợ nước, và sợ bị vây. Giấc ngủ của cô vẫn chập chờn và không khoan khoái. Tim cô hồi hộp. Cô tiếp tục từ chối bất cứ thuốc gì, sợ bị nghẹn khi uống các viên thuốc. Tôi cảm thấy như thể tôi tiến tới trước một bức tường, và dù tôi đã làm gì đi nữa, bức tường ấy vẫn quá cao và chẳng ai trong chúng tôi có thể vượt qua được bức tường ấy. Mặc dầu cảm nghĩ thất vọng, một cảm giác quyết tâm đến với tôi. Dù thế nào, tôi vẫn giúp Catherine.

Và rồi một sự việc lạ lùng xẩy ra. Mặc dù cô rất sợ hãi phải đi máy bay và phải trấn an mình bằng vài ly rượu trong khi đi máy bay, nhưng Catherine đã cùng Stuart đi dự một cuộc hội thảo y khoa vào mùa xuân năm 1982. Tại đây, cô thúc Stuart đi xem cuộc triển lãm Ai Cập tại viện bảo tàng nghệ thuật ở Chicago, nơi đây cô và Stuart đi theo một đoàn du khách.

Catherine luôn luôn quan tâm đến những đồ tạo tác cổ của Ai Cập và những phiên bản di vật ở thời kỳ đó. Cô không phải là một học giả và cũng chưa bao giờ nghiên cứu lịch sử thời kỳ ấy, nhưng không biết làm sao những vật ấy dường như rất quen thuộc với cô.

Khi người hướng dẫn miêu tả một số đồ tạo tác trong cuộc triển lãm, cô thấy người này nói sai, và cô đã sửa lại cho đúng, và cô nói đúng ! Người hướng dẫn ngạc nhiên và Catherine cũng ngỡ ngàng. Làm sao cô đã biết những thứ như vậy? Tại sao cô cảm thấy mình rất đúng, chắc chắnđến nỗi sửa sai cho người hướng dẫn trước công chúng? Có lẽ những ký ức bị lãng quên từ khi còn thơ ấu được nhớ lại.

Vào lần khám bệnh kế tiếp, cô kể cho tôi nghe điều đã xẩy ra. Mấy tháng trước đây, tôi có đề nghị dùng thôi miên, nhưng Catherine sợ hãi và từ chối. Vì việc xảy ra tại cuộc triển lãm Ai Cập, bây giờ cô miễn cưỡng đồng ý.

Thôi miên là một công cụ tuyệt hảo để giúp bệnh nhân nhớ lại những việc xẩy ra đã bị quên lãng từ lâu. Không có gì là huyền bí cả về việc này. Đó chỉ là một trạng thái thái tập trung. Theo chỉ dẫn của một nhà thôi miên thành thạo, cơ thể bệnh nhân thư giãn, làm cho ký ức nhậy bén. Tôi đã thôi miên cả trăm bệnh nhân và thấy rằng thôi miên giúp giảm bớt lo âu, loại bỏ được chứng sợ hãi, thay đổi được thói quen xấu, và giúp nhớ được dữ kiện bị kìm nén. Có dịp tôi đã thành công trong việc giúp bệnh nhân hồi nhớ lại thời kỳ thơ ấu, thậm chí lúc họ mới hai hay ba tuổi, do đó gợi lại được những ký ức về những chấn thương bị lãng quên từ lâu đã ngăn trở cuộc sống của họ. Tôi tin thôi miên có thể giúp Catherine.

Tôi bảo Catherine nằm trên giường khám bệnh, mắt nhắm hờ và đầu nằm trên một gối nhỏ. Đầu tiên chúng tôi tập trung vào hơi thở của cô. Với mỗi lần thở ra cô giải thoát sự căng thẳng và lo âu chất chứa và mỗi lần hít thở cô thư giãn nhiều hơn nữa. Sau ít phút như vậy tôi bảo cô hãy tưởng tượng là cơ bắp từ từ thư giãn, bắt đầu từ cơ bắp mặt và hàm, rồi đến cổ và vai, cánh tay, lưng, cơ bắp bụng, và sau cùng là chân. Cô cảm thấy toàn ngày càng chìm sâu vào giường khám bệnh.

Rồi tôi bảo cô hãy mường tượng một ánh sáng trắng chói lọi ở đỉnh đầu cô, trong thân thể cô. Sau đó khi tôi đem ánh sáng lan tỏa xuống cơ thễ cô, nó hoàn toàn làm giãn mọi cơ bắp, mọi dây thần kinh, mọi cơ quan - tất cả thân thể - đưa cô vào một trạng thái thư giãn sâu xa và an bình. Cô cảm thấy ngày càng buồn ngủ hơn, an ổn và bình tĩnh càng nhiều hơn. Cuối cùng theo chỉ dẫn của tôi, ánh sáng tràn ngập cơ thể cô cũng như bao quanh cô.

Tôi đếm ngược chậm rãi từ số mười đến số một. Với mỗi số, cô tiến sâu vào mức độ thư giãn. Cô chìm vào trạng thái hôn mê. Cô có thể tập trung vào giọng nói của tôi và loại trừ tất cả những tiếng ồn ào chung quanh. Khi đếm tới số một, cô đã ở tình trạng bị thôi miên trung bình. Toàn bộ tiến trình mất khoảng 20 phút.

Sau một lúc tôi bắt đầu hướng cô về quá khứ, yêu cầu cô nhớ lại những ký ức về thời thơ ấu. Cô có thể nói chuyện và trả lời câu hỏi của tôi trong khi duy trì ở mức độ thôi miên sâu. Cô nhớ lại sự việc khó chịu tại phòng nha sĩ khi cô sáu tuổi. Cô nhớ lại rõ ràng sự việc hãi hùng lúc 5 tuổi khị cô bị đẩy từ cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô bị tắc và nghẹn, bị uống nước, và trong khi nói chuyện về việc này, cô bắt đầu như nghẹn tại phòng khám của tôi. Tôi nói với cô việc này đã qua rồi, và cô đã ra khỏi nước. Ngừng tắc nghẹn và cô thở lại bình thường.Cô vẫn ở trong trạng thái hôn mê sâu.

Vào năm ba tuổi, một sự cố xấu nhất đã xẩy ra. Cô nhớ cô tỉnh giấc trong phòng ngủ tối tăm và thấy cha cô ở trong phòng. Ông ta nồng nặc mùi rượu và lúc này cô vẫn còn ngửi thấy mùi đó. Ông ta sờ mó cô và xoa đến cả "phía dưới" của cô. Cô quá kinh hãi và bắt đầu khóc, ông ta bịt miệng cô bằng bàn tay thô bạo của ông. Cô không thở được. Trong phòng mạch của tôi, hai mươi lăm năm sau, trên giường khám bệnh Catherine bắt đầu thổn thức. Tôi cảm thấy bây giờ chúng tôi đã có được tin tức, chìa khóa để mở cửa. Tôi chắc chắn những triệu chứng sẽ được cải tiến nhanh và mạnh mẽ. Tôi nhẹ nhàng bảo cô, chuyện đó đã qua rồi, và cô không còn ở trong phòng ngủ nữa, mà đang thanh thản và vẫn đang hôn mê. Cô hết thổn thức. Cuối cùng tôi đem cô về tuổi hiện thời. Tôi đánh thức cô sau khi đã bảo cô, bằng hậu thôi miên, hãy nhớ tất cả những gì cô đã nói với tôi. Chúng tôi đã dùng thời gian còn lại của buổi điều trị bàn luận về ký ức sống động đột xuất về chấn thương với cha cô. Tôi cố gắng giúp cô chấp nhận và bổ sung vào kiến thức "mới" của mình. Bây giờ cô hiểu mối quan hệ với cha cô, phản ứng của ông ta với cô, sự cách biệt của người cha, và sự sợ hãi người cha của cô. Cô vẫn còn bàng hoàng khi rời phòng mạch, nhưng tôi biết sự hiểu biết mà cô đạt được rất đáng giá với một chốc lát khó chịu.

Trong loạt sự việc khi phát hiện cô có ký ức bị kiềm chế sâu và đau đớn, tôi đã quên hẳn không xem xét đến việc cô có thể có liên quan tới kiến thức về đồ tạo tác Ai Cập. Nhưng ít nhất cô đã hiểu thêm về quá khứ của mình. Cô đã nhớ được vài biến cố kinh hoàng, và tôi trông đợi một sự cải thiện đáng kể về những triệu chứng của cô.

Bất chấp sự hiểu biết này, tuần lễ sau đó cô thông báo là, những triệu chứng vẫn như cũ và có phần nặng hơn. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không thể hiểu nổi có điều gì không đúng. Có thể có điều gì xẩy ra trước lúc cô ba tuổi? Chúng tôi đã phát hiện quá đủ những lý do về sự sợ hãi bị nghẹn, sợ nước, sợ bóng tối, và sợ mắc bẫy, vậy mà sự sợ hãi nhức nhối và các triêu chứng, sự lo âu bất trị soát vẫn hoành hành lúc cô thức. Những cơn ác mộng vẫn khủng khiếp như trước. Tôi quyết định đưa cô về quá khứ xa hơn nữa.

Trong khi thôi miên, Catherine đã thì thầm nói chậm và thong thả. Do đó tôi đã có thể viết xuống từng lời cô và đã trích dẫn trực tiếp những lời cô nói. (Hiện tượng thiếu mạch lạc rõ ràng những lúc nghỉ trong câu nói, không phải là xóa bỏ hay là sự biên tập của tôi. Tuy nhiên một số dữ kiện lặp đi lặp lại không được bao gồm ở đây).

Từ từ, tôi đưa Catherine quay về lúc hai tuổi, nhưng cô không nhớ được những ký ức có ý nghĩa. Tôi chỉ dẫn minh bạch và dứt khoát :" Hãy quay về lúc các triệu chứng phát sinh". Tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì cho việc sắp xẩy ra.

"Tôi nhìn thấy những bậc thềm mầu trắng dẫn đến một tòa nhà, một tòa nhà trắng lớn với những cột nhà to, phía trước trống trải. Không có ô cửa nào. Tôi mặc y phục dài..... cái áo choàng làm bằng vật liệu thô sơ. Tóc tôi bện lại, mớ tóc màu vàng hoe dài"

Tôi bối rối. Tôi không biết chắc điều đang xẩy ra. Tôi hỏi cô, đó là năm nào , và tên là gì . "Aronda... , tôi mười tám tuổi. Tôi thấy một cái chợ trước tòa nhà. Có những cái thúng.....họ mang những cái thúng trên vai. Chúng tôi sống ở một thung lũng ..... Không có nước. Năm 1863 trước Công Nguyên. Vùng này trơ trụi, nóng và có cát. Có một cái giếng, không có sông. Nước từ núi chảy vào thung lũng".

Sau khi kể lại nhiều chi tiết về địa hình, tôi bảo cô hãy đi tới một vài năm xa hơn và nói cho tôi biết cô thấy gì.

"Có cây cối và một con đường đá. Tôi thấy bếp lửa để nấu nướng. Tóc tôi màu vàng hoe. Tôi đang mặc y phục dài mầu nâu sồng và đi dép. Tôi 25 tuổi. Tôi có một đứa con gái, tên nó là Cleatra... Cleatra là Rachel (Rachel hiện là cháu của cô, cô và Rachel quan hệ với nhau rất mật thiết). Trời rất nóng."

Tôi giật mình. Dạ dày tôi thắt lại, và căn phòng lạnh lẽo. Những tưởng tượng và hồi tưởng của cô dường như qúa rõ ràng. Cô không một chút do dự gì. Tên, ngày tháng, quần áo, cây cối, tất cả được thấy một cách sống động ! Cái gì đã diễn ra nơi đây? Làm sao một đứa con của cô có bây giờ lại là cháu cô? Tôi bối rối hơn. Tôi đã khám nghiệm cả ngàn người bệnh tâm thần, rất nhiều người bằng thôi miên, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này - ngay cả trong mơ. Tôi chỉ dẫn cho cô đi xa hơn lúc cô chết. Tôi không biết chắc cách phỏng vấn người nào đó đang ở trong một hiện tượng kỳ quặc rõ ràng ( hay ký ức) , nhưng tôi đang tìm kiếm những biến cố gây chấn thương có thể nằm dưới những sợ hãi và triệu chứng hiên nay. Những biến cố lúc gần chết có thể đặc biệt gây chấn thương. Hình như, lũ lụt hay sóng thủy triều đang tàn phá làng này.

"Có những cơn sóng lớn quật đổ cây cối. Không có chỗ nào mà chạy đến. Trời lạnh; nước lạnh. Tôi phải cứu con tôi, nhưng tôi không thể ... . . chỉ ôm con thật chặt. Tôi chết đuối. Nước làm tôi bị nghẹt. Tôi không thể thở được, không thể nuốt được... nước mặn. Con tôi bị giằng ra khỏi tay tôi".

Catherine hổn hển và khó thở. Đột nhiên cơ thể của cô thư giãn hoàn toàn, và hơi thở của cô trở nên sâu và điều hòa.

"Tôi nhìn thấy những đám mây ... Con tôi nay với tôi. Và những người khác trong làng tôi. Tôi thấy anh tôi"

đang nghỉ ngơi; cuộc sống này đã chấm dứt. Cô vẫn ở trong hôn mê sâu. Tôi ngỡ ngàng ! Những kiếp trước? Luân hồi? Năng lực trí lực trị liệu bảo tôi rằng cô không bịa đặt ra chuyện này, cô không dựng chuyện. Tư tưởng, cách trình bày của cô, sự chú ý đến những chi tiết đặc biệt, tất cả đều khác với trạng thái có ý thức của cô. Toàn bộ cung bậc khả năng chẩn bệnh tâm thần lóe lên trong tâm trí tôi, nhưng trạng thái tâm thần và cấu trúc cá tính của cô không giải thích nổi những khám phá này. Loạn tinh thần? Không, cô chưa bao giờ có chứng cớ nào bị rối loạn suy nghĩ hay nhận thức. Cô chưa bao giờ mắc chứng ảo giác về việc nghe tiếng, về thị giác hay ảo ảnh khi thức, hay bất cứ loại nào khác trong các giai đoạn thần kinh. Cô không ảo tưởng cũng chẳng xa rời thực tế. Cô không có nhiều cá tính hay chứng tâm thần phân lập. Chỉ có một Catherine, và tâm thức của cô hoàn toàn biết việc này. Cô không mỵ dân và không có khuynh hướng xa lánh hay chống xã hội. Cô cũng không phải là một nữ tài tử. Cô không dùng ma túy và cũng không ăn các chất gây ảo giác. Cô rất ít uống rượu. Cô không có bệnh thần kinh hay tâm lý có thể giải thích kinh nghiệm trực tiếp rõ ràng này trong khi thôi miên.

Có những ký ức nào đó nhưng từ đâu? Phản ứng chính của tôi là tôi đã vấp phải cái gì đó mà tôi biết rất ít - luân hồi và những ký ức tiền kiếp. Tôi nhủ thầm không phải là tâm trí được đào tạo một cách khoa học của tôi chống lại việc đó. Nhưng ở đây nó đang xẩy ra ngay trước mắt tôi. Tôi không thể giải thích nổi, mà cũng không thể phủ nhận sự thật của nó.

Tôi nói, "tiếp tục", một chút nản lòng nhưng bị quyến rũ về cái đang xẩy ra. " Cô còn nhớ gì nữa không?" Cô nhớ lại một vài phần của hai kiếp khác.

"Tôi mặc y phục dài có dải áo đen, có một dải đen trên đầu tôi. Mái tóc đen của tôi đã ngả muối tiêu. Đó là năm 1756 sau công nguyên. Tôi là người Tây Ban Nha. Tên tôi là Louisa và tôi 56 tuổi. Tôi đang khiêu vũ, và những người khác cũng đang khiêu vũ. (ngừng lại lâu) Tôi bị ốm. tôi bị sốt, cảm lạnh. Rất nhiều người bị bệnh; nhiều người đang bị chết... Các bác sĩ không biết là do nước."

Tôi bảo cô nói về thời gian sau đó. "Tôi bình phục, nhưng đầu tôi vẫn đau; mắt tôi và đầu tôi vẫn đau do sốt , do nước... Nhiều người chết.

Sau này cô nói với tôi cô là gái mãi dâm trong kiếp đó nhưng cô không tiếp tục tin tức này vì cô bị bối rối bởi tin ấy. Hiển nhiên, trong khi bị thôi miên, cô đã có thể kiểm duyệt những ký ức truyền cho tôi.

Vì Catherine công nhận cháu gái của cô trong một tiền kiếp, tôi bốc đồng hỏi cô có bao giờ tôi hiện diện trong kiếp sống nào của cô không. Tôi tò mò về vai trò của tôi nếu có trong những ký ức của cô. Cô trả lời ngay, trái với sự chậm rãi và thong thả trước đây.

"Ông là thầy giáo của tôi, ngồi trên bục giảng. Ông dạy chúng tôi từ những cuốn sách. Ông già và tóc muối tiêu. Ông mặc áo dài có viền vàng... . Tên ông là Diogenes. Ông dạy chúng tôi ký hiệu, tam giác. Ông rất khôn ngoan, nhưng tôi không hiểu. Đó là năm 1568 trước Công nguyên. ( Xấp xỉ một nghìn hai trăm năm trước nhà triết học khuyến nho nổi tiếng Diogenes. Tên này không phải là một cái tên khác thường)

Buổi đầu tiên kết thúc. Những buổi lạ lùng hơn còn tiếp theo.

Sau khi Catherine đi khỏi, và tiếp theo vài ngày sau đó, tôi cân nhắc những chi tiết về thôi miên lùi về dĩ vãng. Cân nhắc là điều tự nhiên với tôi. Có ngay cả đến trong việc điều trị "bình thường" ít chi tiết xuất hiện thoát khỏi sự phân tích tinh thần ám ảnh của tôi, và buổi điều trị này hầu như không "bình thường". Hơn nữa, tôi rất hoài nghi về đời sống sau khi chết, luân hồi, xuất hồn, và những hiện tượng liên quan. Tóm lại, phần lo gic của tôi suy gẫm đây có thể là sự tưởng tượng của cô ta. Thực tế là tôi không thể chứng minh bất cứ những khẳng định hay sự mường tượng của cô ta. Nhưng tôi cũng nhận thức một tư tưởng ít nhiều xúc động hơn và sâu xa hơn tuy không mấy rõ ràng. Giữ tâm trí mở rộng, tư tưởng nói, khoa học thực sự bắt đầu bằng khảo sát. "Những ký ức" của cô có thể không phải là quái dị hay tưởng tượng. Có thể là một thứ gì đó nhiều hơn được trông thấy - hay bất cứ giác quan nào khác. Hãy giữ tâm mở rộng. Hãy tìm nhiều dữ kiện hơn.

Tôi có một tư tưởng dai dẳng khác. Có nên để Catherine bắt đầu lo âu và sợ hãi, bị quá kinh hoàng lại trải qua thôi miên nữa không? Tôi quyết định không gọi cô. Hãy để cho cô hiểu thấu kinh nghiệm này đi đã. Tôi sẽ đợi cô đến tuần lễ tới.

-ooOoo-

CHƯƠNG BA

Một tuần lễ sau, Catherine nhún nhẩy đến phòng mạch tôi cho buổi thôi miên kế tiếp. Mở đầu rất đẹp, cô trông rạng rỡ hơn bao giờ hết. Cô sung sướng báo rằng nỗi sợ suốt đời bị chết đuối đã biến mất. Nỗi sợ bị nghẹn cũng được giảm bớt một chút. Giấc ngủ của cô không còn bị gián đoạn bởi ác mộng về cầu gẫy. Mặc dù cô nhớ những chi tiết về tiền kiếp, nhưng cô chưa thực sự thâm nhập vào thực chất.

Quan niệm về tiền kiếp và luân hồi xa lạ với vũ trụ học của cô, và tuy những ký ức quá sống động, quang cảnh, âm thanh và mùi vị quá rõ ràng, sự nhận biết rằng cô đã ở đấy quá mạnh và trực tiếp, cô cảm thấy hẳn là cô đã thực sự ở đấy. Cô không nghi ngờ gì cả; việc xẩy ra quá mạnh. Tuy cô quan tâm đến việc làm sao điều đó lại thích hợp với sự nuôi nấng và niềm tin của cô.

Trong tuần đó tôi có xem lại sách giáo khoa từ một khóa dạy về sự so sánh các tôn giáo trong năm đại học đầu tiên của tôi tại Columbia. Quả thật có nhắc đến luân hồi trong Cựu và Tân Ước. Vào năm 325 sau Công nguyên, Hoàng Đế La Mã Constantine Đại Đế, cùng với người mẹ, Hellena, đã hủy bỏ những trang đề cập đến luân hồi ghi trong Tân Ước. Đại Hội Đồng Đệ Nhị

tại Constantinople họp vào năm 553 sau Công nguyên, xác nhận việc làm này, và tuyên bố quan niệm luân hồi là một dị giáo. Hiển nhiên, họ nghĩ quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của Giáo Hội bởi nó cho con người quá nhiều thời gian để tìm sự cứu rỗi. Tuy vậy những dẫn chứng gốc đã là điểm đó, các cha cố trong Giáo Hội cổ đã chấp nhận quan niệm về luân hồi. Những người Ngộ Đạo thời cổ - Clement ở Alexandria, Origen, Saint Jerome, và nhiều khác nữa - tin rằng họ đã sống trước đó và sẽ sống lại nữa.

Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào luân hồi. Thực tế là tôi chưa bao giờ bỏ nhiều thì giờ suy nghĩ về việc này. Mặc dù việc dạy dỗ về tôn giáo trước đây của tôi có dạy tôi một loại hiện hữu mập mờ nào đó về "linh hồn" sau khi chết, nhưng quan niệm ấy không thuyết phục được tôi.

Tôi là anh cả của bốn anh em, tất cả cách nhau ba tuổi. Chúng tôi là thành viên của Giáo đường bảo thủ Do Thái ở Red Bank, một thành phố nhỏ gần bờ biển ở New Jersey. Tôi là người hòa giải và chính khách trong gia đình. Cha chúng tôi dính líu vào tôn giáo nhiều hơn tất cả chúng tôi. Ông theo tôn giáo rất nghiêm túc, ông theo tôn giáo suốt cả đời. Thành tích học hành của các con là niềm vui lớn lao nhất trong đời ông. Ông dễ bị bối rối trước sự bất hòa trong gia đình và rút lui để tôi hòa giải. Mặc dầu hóa ra điều đó là sự rèn luyện tuyệt vời cho một sự nghiệp trong tâm thần học, nhưng hồi tưởng lại thời thơ ấu của tôi nặng nề hơn và trách nhiệm nhiều hơn tôi muốn. Tôi nổi bật từ đó là một thanh niên nghiêm nghị, là người quen chịu nhiều trách nhiệm.

Mẹ tôi luôn luôn biểu lộ lòng thương yêu của bà. Không có giới hạn nào ngăn cản bà. Một người bình dị hơn cha tôi, bà lợi dụng tội lỗi, nỗi thống khổ, sự bối rối cùng cực, và sự đồng cảm chung với các con làm công cụ lôi kéo, hoàn toàn không đắn đo. Tuy nhiên bà ít khi buồn rầu, và lúc nào chúng tôi cũng có thể tin chắc vào tình yêu và sự hỗ trợ của bà.

Cha tôi có một công việc tốt, nhiếp ảnh công nghệ, và tuy chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm, nhưng tiền bạc rất eo hẹp. Người em út của tôi, Peter, sinh ra năm tôi 9 tuổi. Sáu người gia đình chúng tôi chia nhau trong hai căn phòng ngủ nhỏ.

Sinh hoạt trong căn phòng nhỏ này thật là bề bộn và ồn ào, và tôi tìm nơi nương tựa ở sách vở. Tôi không ngừng đọc sách khi không chơi bóng chày hay bóng rổ, những đam mê khác ở thời thơ ấu của tôi. Tôi biết học hành là con đường ra khỏi thành phổ nhỏ này, yên tâm với ý nghĩ đó, tôi luôn luôn đứng thứ nhất nhì trong lớp học.

Vào lúc tôi được học bổng toàn phần của trường Đại Học Columbia, tôi là một thanh niên đứng đắn và chăm chỉ. Thành công đại học đến với tôi dễ dàng. Tôi theo ngành hóa học và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sĩ tâm thần vì lĩnh vực này gồm cả sự quan tâm đến khoa học và thích thú của tôi với nhiều công việc về tâm con người. Hơn nữa, nghề y khoa sẽ cho phép tôi bày tỏ sự quan tâm và lòng trắc ẩn với người khác. Trong lúc đó tôi gặp Carole trong kỳ nghỉ hè tại khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi đang là hầu bàn phụ và Carole là chiêu đãi viên. Chúng tôi nếm mùi lôi cuốn lẫn nhau ngay và cảm giác thân tình và thoải mái mạnh mẽ. Chúng tôi thư từ, hẹn hò, yêu nhau, đính hôn vào năm tôi ở năm thứ hai trường Đại Học Columbia. Nàng vừa thông minh vừa đẹp. Mọi sự dường như rơi vào đúng chỗ. Một số ít có người trẻ tuổi lo về đời sống và cái chết và đời sống sau cái chết, nhất là khi mọi thứ trôi chẩy êm đềm, và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đang trở thành một khoa học gia, và đang học cách suy nghĩ theo kiểu cách lô gic, vô tư, "chứng minh đúng".

Hơn nữa, trường y khoa và khu nội trú ở Đại Học Yale đã kết tinh phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về não bộ hóa chất và vai trò của thần kinh truyền tin là những thông tin hóa chất trong mô não.

Tôi theo ngành mới về tâm sinh lý, ngành hợp nhất những lý thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống mới về hóa chất bộ não. Tôi viết nhiều bài về khoa học, thuyết giảng tại các hội nghị địa phương và toàn quốc, và trở thành một người năng động thành công trong lĩnh vực của tôi. Tôi hơi bị ám ảnh, sôi nổi và cứng rắn, nhưng đó là những điểm hữu ích cho một thầy thuốc. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để chữa trị cho bất cứ ai bước vào phòng mạch tôi để chữa bệnh.

Rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1863 trước Công nguyên. Hay đó là một cách nào khác? Và nơi đây tôi chứng kiến cô lại vui vẻ hơn bao giờ hết.

Tôi lại lo là Catherine sẽ tiếp tục sợ hãi. Tuy nhiên, cô nhiệt tình sửa soạn cho buổi thôi miên và đắm chìm ngay.

"Tôi đang ném những vòng hoa xuống nước. Đó là một nghi lễ. Tóc tôi vàng hoe và được tết lại. Tôi mặc một bộ nâu viền vàng, và mang dép. Một người nào đó chết, một người nào đó trong Hoàng gia ... người mẹ. Tôi là một người hầu trong Hoàng Gia, và tôi giúp làm đồ ăn. Chúng tôi để thi hài vào trong nước muối ba mươi ngày. Người ta làm khô và các bộ phận được lấy đi. Tôi có thể ngửi thấy, mùi của các xác."

Tự nhiên cô quay về kiếp sống Aronda, nhưng ở một giai đoạn khác, vào lúc nhiệm vụ của Aronda là phải sửa soạn các xác sau khi họ chết.

Catherine tiếp tục, "trong một tòa nhà riêng biệt, tôi có thể nhìn thấy những xác chết. Chúng tôi bọc những xác ấy lại. Linh hồn đi qua. Hãy mang theo đồ đạc và hãy sửa soạn cho kiếp tới, một kiếp vĩ đại hơn". Cô đang bầy tỏ cái dường như giống quan niệm về cái chết và kiếp mới sau khi chết của một người Ai Cập, khác hẳn bất cứ niềm tin nào của chúng ta. Theo tôn giáo đó, bạn có thể mang theo đồ đạc.

Cô rời bỏ kiếp sống này và yên nghỉ. Cô ngưng lại vài phút trước khi đi vào thời cổ đại.

"Tôi thấy đá đóng băng, lủng lẳng trong hầm ... vách đá ... " Cô mơ hồ miêu tả một chỗ tối tăm khổ sở, và trông cô lúc này rất khó chịu. Sau này cô đã miêu tả cô nhìn thấy chính cô. "Tôi rất xấu xí, bẩn thỉu và hôi hám". Cô rời bỏ đi vào một thời gian khác.

"Có một số tòa nhà và một cái xe ngựa có bánh xe bằng đá. Tóc tôi nâu hoe với một cái nơ trên tóc. Xe ngựa chất đầy rơm. Tôi rất sung sướng. Cha tôi ở đấy ... Ông ôm hôn tôi. Đó là ... đó là Edward (bác sĩ khoa nhi nài nỉ cô đến gặp tôi). Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có nhiều cây. Có những cây ô liu và cây vả trong sân. Người ta viết trên giấy. Có những dấu vết buồn cười trên giấy, giống như chữ. Người ta viết cả ngày, làm thành một thư viện. Đó là năm 1536 trước Công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus."

Năm không đúng lắm, nhưng tôi chắc chắn cô ở trong cùng một kiếp mà cô đã thuật lại trong buổi thôi miên tuần trước. Tôi bảo cô giữ kiếp này nhưng đi ngược thời gian.

"Cha tôi biết ông (nghĩa là tôi). Ông và cha tôi nói về mùa màng, luật lệ, và chính phủ. Cha tôi nói ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông". Tôi đưa cô đi xa hơn nữa. "Ông nằm trong một phòng tối. Ông già và ốm đau. Trời lạnh ... Tôi cảm thấy trống rỗng ". Cô tiếp tục đến lúc chết.

"Bây giờ tôi già và yếu đuối. Con gái tôi ở đấy, gần giường tôi. Chồng tôi đã chết. Chồng con gái tôi cũng ở đấy cùng với các con của chúng. Có nhiều người chung quanh".

Lần này cái chết của cô an bình. Cô đang trôi nổi. Trôi nổi? Việc này khiến tôi nhớ đến những sự nghiên cứu của Bác Sĩ Raymond Moody về kinh nghiệm của những người sắp chết. Những đối tượng của ông cũng nhớ đến sự trôi nổi, rồi lại nhập vào xác thân. Trước đây mấy năm tôi đã có đọc cuốn sách của ông và bây giờ tôi quyết tâm sẽ đọc lại nữa. Tôi không biết Catherine có thể nhớ gì nữa sau khi chết, nhưng cô chỉ nói "tôi đang bay lơ lửng" Tôi đánh thức cô và chấm dứt buổi thôi miên.

Với niềm mong muốn khát khao tìm bất cứ tài liệu khoa học nào đã được xuất bản về luân hồi, tôi bèn đi lùng tại những thư viện y khoa. Tôi đã nghiên cứu công trình của Bác Sĩ Ian Stevenson, một vị giáo sư được kính nể về tâm thần học của Đại Học Virginia, người đã xuất bản nhiều tài liệu tâm thần học. Bác Sĩ Ian Stevenson đã thu thập hơn hai ngàn trường hợp về trẻ em có những ký ức và kinh nghiệm kiểu luân hồi. Nhiều trường hợp biểu lộ ngoại ngữ, khả năng nói tiếng ngoại quốc mà chúng chưa bao giờ bộc lộ. Những báo cáo về các trường hợp của ông được hoàn tất rất cẩn thận, được nghiên cứu kỹ, và rất xuất sắc.

Tôi đã đọc bài cái nhìn khái quát khoa học tuyệt vời của Edhar Mitchell. Với sự quan tâm lớn lao, tôi khảo sát dữ kiện ESP (tri giác ngoại cảm) của Trường Đại Học Duke, và những bài viết của Giáo sư C.J. Ducasse tại Đại Học Brown, và tôi đã phân tích kỹ lưỡng những công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Martin Ebon, Bác sĩ Helen Wambach, Bác sĩ Gertrude Schmeidler, Bác sĩ Frederick Lenz, và Bác sĩ Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm. Tôi bắt đầu hiểu rằng dù cho tôi đã coi mình là có học vấn về mọi phương diện của tâm trí, vốn học hành của tôi còn rất hạn chế. Nhiều thư viện tràn đầy những nghiên cứu tìm hiểu và tài liệu nhưng ít người biết đến nó. Nhiều các cuộc nghiên cứu đã được tiến hành, kiểm tra và tái tạo bởi những nhà trị liệu và khoa học tiếng tăm. Liệu tất cả những người đó có bị lầm lẫn hay bị lừa gạt không? Bằng chứng dường như hỗ trợ quá mạnh, tuy tôi vẫn nghi ngờ. Quá mạnh hay không, tôi thấy rất khó tin.

Catherine và tôi cả hai, bằng những con đường riêng, đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi thí nghiệm này. Catherine đang khá hơn về cảm tính, và tôi đang mở rộng tầm nhận thức của tôi. Catherine đã bị hành hạ nhiều năm bởi sợ hãi, và cuối cùng đang cảm thấy đỡ. Dù đó là những ký ức có thật hay những tưởng tượng sống động, tôi đã tìm ra được cách để giúp cô, và bây giờ tôi sẽ không ngưng lại.

Trong một lúc ngắn ngủi, tôi nghĩ về tất cả điều đó khi Catherine trôi dạt vào hôn mê lúc bắt đầu buổi thôi miên tiếp theo. Trước khi đi vào thôi miên, cô có nói đến một giấc mơ về một trò chơi trên những bậc thềm đá cổ, một trò chơi với một bàn cờ có lỗ. Giấc mơ dường như thật sống động nơi cô. Bấy giờ tôi bảo cô hãy quay trở về vượt qua giới hạn không gian và thời gian và xem có phải giấc mơ có nguồn gốc ở một hiện thân trước không.

"Tôi nhìn thấy những bậc thềm dẫn đến một tháp canh ... trông ra núi và biển. Tôi là một đứa con trai ... Tóc tôi vàng hoe ... , mái tóc lạ. Quần áo của tôi ngắn ngủn, màu nâu và trắng, làm bằng da thú. Một số người đứng trên đỉnh tháp, đang nhìn ra ... những lính gác. Họ rất bẩn thỉu. Họ chơi trò chơi giống như chơi cờ, nhưng không phải. Bàn cờ tròn không phải vuông. Họ chơi bằng những con cờ giống như dao găm sắc cắm vào lỗ. Những con cờ này có đầu thú. Địa hạt Kirustan (đánh vần theo âm) Địa hạt? Từ Hòa Lan, vào khoảng 1473.

Tôi hỏi tên chỗ cô ở và liệu cô có thể đến xem hay nghe một năm. " Bây giờ tôi đang ở một hải cảng; đất trải dài tới biển. Có một pháo đài ... và nước. Tôi thấy một cài chòi ... mẹ tôi đang nấu ăn trong cái nồi bằng đất sét. Tên tôi là Johan".

Cô tiến tới cái chết của cô. Vào lúc này trong buổi thôi miên, tôi vẫn tìm kiếm một biến cố chấn thương mạnh có thể gây ra hay giải thích những triệu chứng trong đời sống hiện tại của cô. Dù cho những tưởng tượng rõ ràng là khác thường này, và tôi không chắc chắn về điều đó, cái mà cô tin hay nghĩ ngợi vẫn có thể nằm dưới những triệu chứng. Tóm lại, tôi đã thấy nhiều người bị chấn thương bởi những giấc mơ của họ. Một số người không thể nhớ được liệu một chấn thương hồi thơ ấu thực sự đã xẩy ra hay xuất hiện trong giấc mơ, tuy ký ức về chấn thương này vẫn ám ảnh đời sống họ lúc trưởng thành.

Điều mà tôi chưa hoàn toàn cảm nhận là những ảnh hưởng gây tác hại hoành hành ngày lại ngày, cũng như những lời công kích cay nghiệt của cha mẹ, có thể gây chấn thương tâm lý nhiều hơn chỉ một biến cố chấn thương. Những ảnh hưởng tai hại này là do chúng pha trộn vào bối cảnh sống hàng ngày của chúng ta, rất khó để nhớ lại và xua đuổi chúng. Một đứa trẻ luôn luôn bị chỉ trích có thể mất nhiều lòng tin tưởng và lòng tự trọng như một người nhớ lại bị làm nhục vào một ngày đặc biệt hãi hùng nào đó. Một đứa trẻ ở trong một gia đình nghèo khổ chỉ có ít thực phẩm cho mỗi ngày có thể bị cùng những vấn đề tâm lý như một đứa trẻ đã trải qua nhiều ngày gần bị chết đói. Tôi hiểu ngay rằng những ảnh hưởng tiêu cực hoành hành ngày lại ngày phải được nhìn nhận và phải được giải quyết bằng nhiều lưu ý như đối với một biến cố chấn thương nặng.

Catherine bắt đầu nói.

"Có những chiếc thuyền, giống như ca nô, sơn sáng chói. Vùng Providence. Chúng tôi có súng ống, giáo, ná bắn đá, cung và tên, nhưng lớn hơn. Có những mái chèo lớn lạ lùng trên những con thuyền ... ai cũng phải chèo thuyền. Chúng tôi có thể bị lạc, trời tối. Không có đèn đuốc. Tôi sợ hãi. Có những con thuyền khác cũng như chúng tôi (hình như của phe tấn công). Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên bộ da thú bẩn thỉu. Chúng tôi đang đi thám sát. Giầy của tôi trông thật ngộ nghĩnh, giống như bao tải ... buộc dây ở mắt cá ... bằng da thú. (ngừng lâu) Mặt tôi nóng lên vì lửa. Người của tôi đang giết những người kia, nhưng tôi không. Tôi không muốn giết. Con dao ở trong tay tôi"

Đột nhiên cô bắt đầu nói ríu rít và thở hỗn hển. Cô thuật lại là một kẻ địch đã chộp được cô từ phía sau cô, nắm lấy cổ và cắt họng cô bằng con dao của nó. Cô nhìn thấy mặt kẻ thù trước khi chết. Đó là Stuart (Bác sĩ, người tình nhân Do Thái của cô). Trông nó khác nhưng cô biết là chính nó. Johan chết vào lúc 21 tuổi.

Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của mình, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.

"Người nào đó đang ẵm tôi", cô thì thầm nhè nhẹ và mơ màng, "người nào đó giúp tôi ra đời. Bà đang mặc bộ đồ xanh với một cái tạp dề trắng. Bà đội một cái mũ trắng, gấp lại ở các góc. Căn phòng có những cửa sổ ngộ nghĩnh, nhiều ngăn. Tòa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mớ tóc đen dài. Bà muốn ẵm tôi. Bà mặc một cái áo ngủ vải thô thật nực cười... Áo đó sẽ bị hư khi chà sát lên nó. Thật dễ chịu ở dưới ánh mặt trời và lại được ấm áp ... Đúng là ... đúng là cùng người mẹ của tôi hiện nay!".

Trong những buổi thôi miên trước, tôi bảo cô quan sát kỹ những người đáng chú ý trong những kiếp sống ấy để xem liệu cô có thể nhận ra họ là những người đáng chú ý trong kiếp sống hiện nay của Catherine không. Theo đa số các tác giả, các nhóm linh hồn hay cùng nhau luân hồn lại nhiều lần, giải quyết nghiệp của họ (thiếu nợ người khác và của chính mình, những bài học phải học) trên khoảng thời gian của nhiều kiếp sống.

Trong hoài bão muốn hiểu biết màn kịch ngoạn mục lạ lùng đang được trải ra chưa được biết đến đối với phần còn lại của thế giới, trong phòng mạch lặng lẽ với ánh sáng lờ mờ, tôi muốn kiểm tra lại kiến thức này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng phương pháp khoa học mà tôi đã sử dụng mạnh mẽ trên 15 năm qua trong việc nghiên cứu của tôi để đánh giá thông tin hết sức bất thường này nảy sinh từ miệng Catherine.

Trong những buổi thôi miên chính Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh. Cô có trực giác về con người và các sự kiện đã chứng minh là đúng. Trong lúc thôi miên, cô bắt đầu đoán trước được những câu hỏi của tôi trước khi tôi có dịp hỏi những câu hỏi. Nhiều giấc mơ của cô có xu hướng biết trước hay tiên đoán.

Có lần, khi cha mẹ cô đến thăm cô, cha của cô đã bầy tỏ sự nghi ngờ khủng khiếp về việc đang xẩy ra. Để chứng minh cho ông đó là sự thực, cô đưa ông đến trường đua ngựa. Ở đó ngay trước mắt ông, cô đã đoán trúng ngựa nào thắng trong mỗi cuộc đua. Ông hết sức ngỡ ngàng. Một lần cô biết chắc là đã chứng minh được điểm đó, cô đã đem tất cả tiền thắng trong cuộc đua cho người vô gia cư khổ sở đầu tiên cô gặp trên đường lúc ra khỏi trường đua. Cô trực giác cảm thấy quyền năng mới mà cô vừa đạt được không nên dùng để kiếm tiền. Đối với cô, những quyền năng này có ý nghĩa cao cả hơn nhiều. Cô nói với tôi kinh nghiệm này làm cho cô hơi sợ hãi, nhưng cô rất vui với tiến bộ cô đạt được và cô mong muốn tiếp tục lùi về dĩ vãng. Tôi vừa bị choáng váng vừa bị cuốn hút trước khả năng tâm linh của cô, nhất là tình tiết ở trường đua ngựa. Đó là chứng cớ hiển nhiên. Cô đã có vé trúng ở mỗi cuộc đua. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào. Điều gì đó kỳ quặc đã xẩy ra trong mấy tuần lễ vừa qua, và tôi đã vật lộn để bảo vệ cách nhìn của tôi. Tôi không thể phủ nhận khả năng tâm linh của cô. Và nếu những khả năng này là thật và có thể đưa ra những chứng cớ hiển nhiên, thì việc đọc lại những sự kiện ở tiền kiếp của cô cũng có thể là thật không?

Bây giờ cô trở lại về kiếp sống mà cô mới vừa sinh ra. Hóa thân này dường như gần đây hơn nhưng cô không nhận ra được năm nào. Tên cô là Elizabeth.

"Bây giờ tôi lớn hơn, có một anh và hai chị gái. Tôi nhìn thấy cái bàn ăn ... Cha tôi ở đấy ... Ông là Edward (bác sĩ nhi khoa một lần nữa trở lại làm cha). Mẹ tôi và cha tôi lại đánh nhau. Thức ăn là khoai tây và đậu. Cha tôi giận dữ vì đồ ăn nguội. Họ đánh nhau nhiều. Ông lúc nào cũng uống rượu... Ông đánh mẹ tôi (Giọng của Catherine sợ hãi và cô run lên rõ ràng). Ông đẩy những đứa con. Ông không giống ông như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông. Tôi muốn ông đi đi" Cô nói như một đứa trẻ nói.

Câu hỏi của tôi trong buổi này khác hẳn câu mà tôi thường dùng trong việc trị liệu tâm lý thông thường. Tôi hành động như một hướng dẫn viên cho Catherine, cố gắng xem lại toàn bộ một kiếp sống trong một hay hai tiếng, tìm kiếm những sự kiện gây chấn thương và những loại có hại có thể giải thích những triệu chứng hiện tại của cô. Trị liệu thông thường được tiến hành với nhịp độ thong thả và chi tiết hơn. Mỗi lời nói do bệnh nhân lựa chọn đều được phân tích về sắc thái và nghĩa bóng. Mỗi nét mặt, mỗi cử chỉ, mỗi biến đổi giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Mỗi phản ứng của cảm xúc đều được xem xét tỷ mỷ. Các kiểu ứng xử được cẩn thận lắp ráp vào với nhau. Tuy nhiên với Catherine, những năm tháng qua đi vù vù trong một phút. Các buổi thôi miên của Catherine giống như lái xe trong cuộc đua xe hơi Indy 500 dậm đạp hết ga ... cố gắng nhận ra các bộ mặt trong đám đông khán giả.

Tôi chuyển sự chú ý tới Catherine và yêu cầu cô hãy tiến xa hơn nữa.

"Bây giờ tôi có chồng. Nhà tôi có một phòng lớn. Chồng tôi có tóc vàng hoe. Tôi không biết anh (tức là chồng không xuất hiện trong hiện kiếp của Catherine) . Chúng tôi chưa có con. Anh rất tử tế với tôi. Chúng tôi yêu nhau và rất hạnh phúc". Hiển nhiên cô đã thoát khỏi sự áp chế ở nhà cha mẹ. Tôi hỏi liệu cô có thể nhận ra khu vực mà cô đã ở không.

"Brennington" Catherine ngập ngừng thì thầm. " Tôi nhìn thấy những cuốn sách có những bìa cũ ngộ nghĩnh. Cuốn to nhất đóng lại bằng một cái dây. Đó là cuốn Kinh Thánh. Có những chữ to lạ lùng ... tiếng Gaelic" (tiếng Xen-tơ).

Cô nói ở đây một số tiếng cô không nhận ra được. Không biết có phải là tiếng Gaelic hay không, tôi không biết.

"Chúng tôi sống trong vùng nội địa không gần biển. Xứ đó ... . Brennington? Tôi thấy một nông trại có lợn và cừu. Đó là trại của chúng tôi". Cuối cùng cô tiếp tục. "Chúng tôi có hai con trai ... Đứa lớn đã lấy vợ. Tôi có thể nhìn thấy gác chuông nhà thờ... . một tòa nhà bằng đá rất cổ.". Đột nhiên cô đau đầu, và Catherine trong cơn đau đớn, ôm lấy thái dương bên trái. Cô kể là bị ngã trên bậc thềm đá, nhưng đã bình phục. Cô chết lúc tuổi già trên giường ở nhà với gia đình xung quanh.

Cô lại lơ lửng ra khỏi xác thân sau khi chết, nhưng lần nay cô không hoang mang hay bối rối.

"Tôi nhận thấy một ánh sáng chói lọi. Thật là tuyệt vời; bạn có năng lượng từ ánh sáng ấy." Cô đang nghỉ ngơi, sau khi chết giữa những kiếp sống. Ít phút trôi qua lặng lẽ. Đột nhiên cô nói, không phải nói thì thầm chậm rãi như thường lệ trước đó, bây giờ cô nói to và khàn, không chút ngập ngừng.

"Nhiệm vụ của chúng tôi là học để trở thành như thần thánh qua kiến thức. Chúng tôi biết quá ít. Ông ở đây làm thầy tôi. Tôi phải học nhiều. Bằng kiến thức chúng ta gần Thượng Đế, và rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta trở lại dạy và giúp đỡ người khác".

Tôi không nói được lời nào. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô, từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Nguồn gốc của tài liệu này là gì? Nó không giống của Catherine chút nào. Cô không bao giờ nói như thế, dùng những lời như thế , câu cú như thế. Cả đến giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác hẳn.

Vào lúc đó tôi không hiểu được rằng mặc dù Catherine thốt ra những lời như vậy, cô đã không tạo ra những suy nghĩ ấy. Cô đang truyền điều đang được nói với cô. Sau này cô nhận diện ra là các bậc Thầy, những linh hồn tiến hóa cao không hiện diện nơi thân thể, là nguồn gốc. Họ có thể nói với tôi qua cô. Không chỉ Catherine có thể lùi về các tiền kiếp, mà bây giờ cô còn có thể truyền kiến thức từ thế giới bên kia. Kiến thức đẹp đẽ. Tôi phấn đấu để giữ tính cách khách quan.

Một phương chiều mới đã được mở ra. Catherine chưa bao giờ đọc những công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Elisabeth Kubler-Ross hay Bác Sĩ Raymond Moody, cả hai bác sĩ này đã viết về những kinh nghiệm lúc cận tử. Cô cũng chưa bao giờ nghe nói về cuốn sách của người Tây Tạng về Người Chết. Thế mà cô đang kể ra những kinh nghiệm tương tự với những kinh nghiệm được miêu tả trong những bài viết này. Âu cũng là là một bằng chứng. Giá mà có nhiều sự việc hơn, nhiều chi tiết rõ ràng hơn, tôi có thể xác minh. Sự hoài nghi của tôi thay đổi bất thường tuy vẫn còn. Có thể là cô đã đọc chuyện nghiên cứu về cận tử trong một tạp chí hay đã xem một cuộc phỏng vấn trên chương trình truyền hình. Mặc dù cô phủ nhận bất cứ một ký ức nào về bài báo hay chương trình truyền hình như thế, nhưng có lẽ cô đã giữ ký ức trong tiềm thức. Nhưng cô đã vượt qua những bài viết trước đây và truyền tin tức từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Giá mà tôi có nhiều sự việc có thật hơn.

Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ những chi tiết về tiền kiếp, vẫn như thường lệ. Tuy nhiên cô không thể nhớ những gì xẩy ra sau khi chết lúc là Elizabeth. Trong tương lai cô sẽ không bao giờ nhớ được chi tiết nào trong trạng thái nửa nọ nửa kia. Cô chỉ nhớ được những kiếp sống.

"Bằng kiến thức, chúng ta gần Thượng Đế". Chúng ta đang ở trên con đường của chúng ta.

-ooOoo-

CHƯƠNG BỐN

"Tôi nhìn thấy một ngôi nhà trắng hình vuông với một con đường cát ở mặt tiền. Những người cưỡi ngựa đi tới đi lui". Catherine đang nói vói giọng nói thì thầm mơ màng như thường lệ. " Có nhiều cây cối ... một đồn điền, một ngôi nhà lớn với một dãy nhà nhỏ, giống như nhà nô lệ. Trời rất nóng. Đó là miền Nam... Virginia?" Cô nghĩ là năm 1873. Cô là một đứa trẻ nhỏ.

"Có nhiều ngựa và nhiều vụ mùa, ... ngô, cây thuốc lá". Cô và những người hầu hạ khác ăn trong bếp của ngôi nhà lớn. Cô là người da đen và tên là Abby. Cô cảm thấy có linh tính và thân thể cô căng thẳng. Cái nhà chính đang cháy, và cô đang thấy nó cháy rụi. Tôi dịch chuyển 15 năm của cô đến năm 1888.

"Tôi mặc một bộ đồ cổ, đang lau tấm gương ở tầng thứ hai, một ngôi nhà gạch có cửa sổ ... có nhiều ô. Tấm gương bị gợn, không phẳng, và có các quả đấm ở đầu mút. Người chủ ngôi nhà này có tên là James Manson. Ông ta có một cái áo choàng ngộ nghĩnh có ba khuy và một cổ áo đen lớn. Ông có râu ... Tôi không nhận ra ông (là ai trong hiện kiếp của Catherine). Ông đối xử tốt với tôi. Tôi sống trong một ngôi thuộc cơ ngơi này. Tôi dọn dẹp phòng ốc. Có một trường học trong cơ ngơi này nhưng tôi không được phép đi học. Tôi cũng làm bơ!

Catherine nói thì thầm chậm rãi, dùng những từ đơn giản và để ý nhiều vào chi tiết. Trên năm phút tiếp theo, tôi học cách làm bơ. Hiểu biết về khuấy bơ của Abby cũng thật mới lạ với Catherine. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa.

"Tôi đang cùng ở với một người nào đó, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đã cưới nhau. Chúng tôi ngủ cùng nhau... nhưng chúng tôi không luôn luôn sống cùng nhau. Tôi cảm thấy vừa lòng với anh ta, nhưng không có gì đặc biệt cả. Tôi không thấy đứa bé nào. Có những cây táo và những con vịt. Những người khác ở cách xa. Tôi đang hái những trái táo. Có thứ gì đó làm mắt tôi cay. Catherine nhăn mặt trong khi nhắm mắt. Gió thổi phía này ... khói từ gỗ cháy. Họ đang đốt các thùng gỗ". Bây giờ cô đang bị ho. "Điều đó luôn luôn xẩy ra. Họ đang quét bên trong các thùng bằng hắc ín ... để nước không thấm vào".

Sau phần sôi nổi ở buổi thôi miên tuần trước, tôi rất mong nuốn lại tiến tới trạng thái nửa nọ nửa kia. Chúng tôi đã mất 90 phút để thăm dò kiếp sống làm người đầy tớ của cô. Tôi đã học được về cách trải giường, làm bơ và thùng; tôi mong muốn có một bài học tinh thần. Không còn kiên nhẫn, tôi bảo cô tiến tới lúc chết.

"Rất khó thở, ngực tôi đau lắm". Catherine đang thở hỗn hển, trong cơn đau đớn rõ ràng. " Tim tôi đau, nó đập nhanh. Tôi lạnh quá... thân thể tôi run lên". Catherine bắt đầu rùng mình. "Người ta ở trong phòng, cho tôi uống trà. Mùi nó là lạ. Họ đang xoa dầu trên ngực tôi. Sốt ... nhưng tôi cảm thấy rất lạnh". Cô chết lặng lẽ.

Lơ lửng trên trần nhà, cô có thể nhìn thấy xác thân trên giường, một bà già nhỏ thó héo hon vào khoảng sáu mươi tuổi. Cô vừa mới lơ lửng đang đợi chờ người nào đó đến giúp. Cô trở nên ý thức về ánh sáng, cảm thấy bị lôi cuốn đến đó. Ánh sáng trở nên rực rỡ hơn, và chói lọi hơn. Chúng tôi chờ đợi trong im lặng và giây phút từ từ qua đi. Đột nhiên cô lại ở vào một kiếp khác, hàng ngàn năm trước Abby.

Catherine đang nhẹ nhàng thì thào , "Tôi nhìn thấy rất nhiều tỏi, treo trong một cái phòng bỏ trống. Tôi ngửi thấy mùi tỏi. Người ta tin tỏi được dùng để giết ma quỷ trong máu và tẩy sạch thân thể, nhưng bạn phải dùng nó hàng ngày. Tỏi cũng có ở ngoài, ở phía trên cái vườn. Có những cây dược thảo ... cây vả, cây chà là và các cây rau dược thảo khác. Những cây này có ích cho bạn. Mẹ tôi mua tỏi và các cây dược thảo khác. Trong nhà có người bị bệnh. Đây là những rễ cây lạ. Đôi khi bạn ngậm những rễ cây ấy trong miệng, để trong tai hay những chỗ mở ra. Bạn chỉ cần giữ chúng.

"Tôi nhìn thấy một ông già có bộ râu. Ông là một trong những thầy lang trong làng. Người này nói cho bạn biết phải làm gì. Có một loại bệnh dịch gì đó đang giết dân chúng. Họ không ướp xác vì sợ bệnh này. Họ được đem chôn. Người ta không vui về việc ấy. Họ cảm thấy linh hồn không đi tiếp được bằng cách ấy (trái ngược với tường thuật sau khi chết của Catherine) . Nhưng có quá nhiều người chết. Trâu bò cũng đang chết. Nước ... lụt ... người ta bị bệnh vì lụt (Cô hiển nhiên mới nhận thức được một chút về dịch tễ học). Tôi cũng mắc một vài chứng bệnh do nước. Nó làm tôi đau dạ dày. Bệnh về ruột và dạ dày. Thân thể bạn mất nhiều nước. Tôi ở bên cạnh nước, để mang về nhiều hơn, nhưng đó là cái giết chúng tôi. Tôi mang nước trở lại. Tôi thấy mẹ tôi và các anh tôi. Cha tôi đã chết. Các anh tôi rất ốm yếu. "

Tôi tạm ngưng lại trước khi phát hiện về thời gian. Tôi say mê bởi cách có quan niệm về cái chết và kiếp sống sau thay đổi quá nhiều hết kiếp này đến kiếp khác. Tuy nhiên kinh nghiệm về chính cái chết rất đồng nhất, rất giống nhau, ở mỗi lần. Phần thức của cô rời khỏi xác vào lúc chết bay lơ lửng rồi bị cuốn vào một ánh sáng năng lượng tuyệt vời. Cô phải đợi người nào đó đến để giúp cô. Linh hồn tự động đi tiếp. Ướp xác, lễ chôn cất hay bất cứ cách thức nào khác sau khi chết không liên quan gì đến nó. Linh hồn tự động, không cần chuẩn bị, giống như đi qua cái cửa mở.

"Đất trơ trụi và khô cằn ... Tôi không thấy có núi non quanh đây, chỉ có đất, rất phẳng và khô. Một trong các anh tôi chết. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng vẫn còn đau đớn" Tuy nhiên cô không sống lâu hơn. "Tôi nằm dài trên một ổ rơm có cái gì đó bao bọc." Cô bệnh nặng và không có lượng tỏi hay dược thảo nào có thể cứu cô khỏi chết. Ngay sau khi cô bay lơ lửng trên xác, cô bị cuốn vào một ánh sáng quen thuộc. Cô đang kiên nhẫn chờ một người nào đó đến với cô.

Đầu cô bắt đầu ngó ngoáy hết bên này đến bên kia như thể cô đang lướt xem cảnh tượng nào đó. Giọng cô lại khỏe lên và rõ ràng.

"Họ nói với tôi có nhiều thượng đế, Thượng Đế ở trong mỗi chúng ta"

Tôi nhận ra giọng nói từ trạng thái ở giữa nửa nọ nửa kia bởi sự khàn khàn của nó cũng như giọng nói đầy tinh thần trong lời nhắn nhủ. Những gì cô nói khiến tôi không thể thở được, như kéo hết không khí trong buồng phổi của tôi.

"Cha ông ở đây, và con ông là một đứa bé. Cha ông nói ông sẽ biết ông ấy vì tên của ông là Avrom, và con gái của ông được đặt tên theo cha ông. Và cái chết của cha ông là do bệnh tim. Tình cảm của con ông cũng rất quan trọng, vì nó rụt rè, như con gà chết. Nó đã hy sinh mạng sống cho ông vì lòng yêu thương của nó. Linh hồn của nó rất cao cả... Nó chết để trả những nợ nần cho cha mẹ. Nó cũng muốn cho ông thấy thứ thuốc đó chỉ có thể hữu hiệu đến thế vì phạm vi của nó rất hạn chế."

Catherine ngưng nói, tôi ngồi trong sự im lặng dễ sợ và tâm trí tê cóng của tôi cố gắng lọc lõi các sự việc. Căn phòng như đông lạnh.

Catherine biết rất ít về đời tư của tôi. Trên bàn làm việc của tôi có một tấm hình nhỏ của con gái tôi, nhe răng cười với hai cái răng ở hàm dưới trong cái miệng trống rỗng. Tấm hình đứa con trai tôi ở bên cạnh. Mặt khác, Catherine không biết gì về gia đình tôi hay tiểu sử của tôi. Tôi đã được học cẩn thận về phương pháp chữa bệnh truyền thống. Bác sĩ chuyên khoa có nhiệm vụ làm cái phông trắng để người bệnh có thể chiếu lên đó tất cả những cảm nghĩ riêng tư, tư tưởng và thái độ. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phân tích chúng, mở rộng phạm vi hoạt động của tâm trí bệnh nhân. Tôi đã giữ khoảng cách chữa bệnh này với Catherine. Cô thật sự chỉ biết tôi là một bác sĩ tâm thần, không biết gì về quá khứ cũng như cuộc sống riêng tư của tôi. Thậm chí tôi cũng chưa bao giờ treo các bằng cấp của tôi ở phòng mạch.

Thảm kịch lớn nhất trong đời tôi là cái chết bất ngờ của đứa con trai đầu, Adam, nó mới sinh được 23 ngày thì chết, vào khoảng đầu năm 1971. Vào khoảng mười ngày sau, chúng tôi mang nó về nhà từ bệnh viện, nó khó thở và nôn mửa. Việc chẩn bệnh cực kỳ khó khăn. "Toàn bộ dẫn lưu tĩnh mạch phổi di tật vách ngăn tim", chúng tôi được biết là như thế. "Điều đó chỉ xẩy ra một lần trong mười triệu ca sinh đẻ". Mạch máu của phổi phải mang máu đã ô xy hóa về tim, bị chuyển sai vào tim bằng phía sai. Dường như là tim của con tôi hoạt động ngược. Cực kỳ, hy hữu hiếm xẩy ra.

Giải phẫu mở tim dị thường cũng không thể cứu nổi Adam, nó đã chết ít hôm sau. Chúng tôi đã thương tiếc nó nhiều tháng trời, hy vọng và giấc mơ của chúng tôi tiêu tan. Con chúng tôi, Jordan, sinh ra một năm sau, một niềm an ủi to lớn cho vết thương của chúng tôi.

Vào lúc Adam chết, tôi đang lưỡng lự về việc chọn lựa ban đầu của tôi về ngành tâm thần. Tôi đang là bác sĩ thực tập nội trú về nội khoa, và tôi đã được đề nghị một chức vụ nội trú nội khoa. Sau khi Adam chết, tôi quyết tâm làm nghề chữa bệnh tâm thần. Tôi đau lòng thấy y khoa hiện đại với tất cả kỹ năng và kỹ thuật tiên tiến không cứu nổi con tôi, một đứa trẻ nhỏ bé bình thường.

Cha tôi, sức khỏe rất tốt cho đến khi ông bị cơn đau tim nặng vào đầu năm 1979, vào lúc ông 61 tuổi. Ông qưa khỏi cơn đau tim đầu tiên, nhưng thành tim ông đã bị hư hại không thể phục hồi được nên ông qua đời ba ngày sau đó. Việc này xẩy ra vào khoảng chín tháng trước lần khám bệnh thứ nhất của Catherine.

Cha tôi là một người mộ đạo, nặng về nghi lễ hơn tinh thần. Tên Do Thái của ông là Avrom. thích hợp với ông hơn là tên bằng tiếng anh, Alvin. Bốn tháng sau khi ông chết, đứa con gái tôi, Amy sinh ra đời và được đặt tên theo tên ông.

Nơi đây, năm 1982, trong phòng mạch tịch mịch không mấy sáng của tôi, một dòng thác nước ầm vang về những sự thật bí mật, ẩn dấu được rót vào trong tôi. Tôi đang bơi trong một biển tinh thần, và tôi rất thích nước. Cánh tay tôi nổi gai ốc. Catherine không thể nào biết được những tin tức này. Không thể có chỗ nào để tìm ra được. Tên Do Thái của cha tôi, đứa con trai của tôi chết yểu vì dị tật ở tim với tỷ lệ một phần mười triệu, sự nghiền ngẫm của tôi về y khoa, cái chết của cha tôi, và tên đặt cho đứa con gái tôi - thật quá nhiều, quá đặc biệt, quá thực sự. Người chuyên viên phòng thí nghiệm ngay thật này là một ống dẫn đến kiến thức tiên nghiệm. Và nếu quả cô đã khám phá ra được những sự thật, phải có cái gì nữa ở đấy? Tôi cần biết nhiều hơn nữa.

"Ai", tôi lẫm bẩm, "Ai ở đấy, Ai nói với cô những sự việc này?"

"Các Bậc Thầy" , cô thì thào, "Các Bậc Thầy Thần Linh nói với tôi. Các Ngài đã nói với tôi, tôi đã có tám mươi sáu kiếp sống là con người."

Catherine hít thở nhẹ nhàng, đầu không còn trăn trở nữa. Cô đang nghỉ ngơi. Tôi muốn tiếp tục, nhưng sự gợi ý của cô về điều cô nói đang làm tôi rối trí. Có thực là cô đã có 86 tiền kiếp? Và các Bậc Thầy là gì? Cái đó là gì? Có thể nào những kiếp sống của chúng ta được hướng dẫn bởi các thần linh là người không có thân hình nhưng dường như có kiến thức lớn lao. Phải chăng có những bước đi tiến tới Thượng Đế? Điều đó có thực không? Tôi thấy khó mà nghi ngờ, vì điều mà cô vừa tiết lộ, tuy nhiên tôi vẫn phải vật lộn đề tin được. Nhiều năm tôi đã vượt qua những chương trình lựa chọn. Nhưng trong đầu, trong tâm tôi và sự quyết tâm của tôi, tôi biết cô đúng. Cô đang tiết lộ sự thật.

Về cha tôi và con tôi thì thế nào? Trong một ý nghĩa nào đó, họ vẫn còn sống, họ không bao giờ thực sự chết cả. Họ đang nói chuyện với tôi, nhiều năm sau khi được chôn cất, và chứng minh bằng cách cung cấp tin tức rất bí mật và rõ ràng. Và vì tất cả đều đúng, phải chăng con tôi đã tiến bộ về tinh thần như Catherine đã nói? Phải chăng nó đồng ý để chúng tôi sinh ra nó rồi nó chết 23 ngày sau để giúp tôi trả nợ nghiệp của chúng tôi, hơn nữa dạy tôi về y khoa và nhân loại, thúc đẩy tôi quay về với nghề nghiệp chữa bệnh tâm thần? Tôi rất phấn khởi bởi những tư tưởng ấy. Nằm dưới sự lạnh lùng, tôi cảm thấy lòng thương yêu mãnh liệt đang khuấy động, một cảm nghĩ mạnh mẽ về sự đồng nhất và liên hệ với thiên đường và trái đất. Tôi nhớ cha tôi và con tôi. Thật là tốt lại nhận được tin của họ.

Cuộc đời của tôi sẽ không bao giờ giống như thế nữa. Có một bàn tay nào đó đã tham gia và đã biến đổi không thể đảo ngược lại dòng đời của tôi. Tất cả sự hiểu biết của tôi đã được thực thi cẩn thận cùng với lối suy nghĩ có tính chất hoài nghi, bắt đầu có ý nghĩa. Những ký ức và thông điệp của Catherine đều rất đúng. Trực giác của tôi về tính đứng đắn trong các sự việc của Catherine là đúng. Tôi có những sự việc có thật. Tôi có bằng chứng.

Tuy nhiên, ngay cả trong lúc vui sướng và sự hiểu biết đó, cả lúc trải nghiệm huyền bí, phần tâm trí ngờ vực và lo gic cũ kỹ của tôi đã chứa đựng sự phản đối. Có lẽ đó là ESP (tri giác ngoại cảm) hay khả năng tâm linh nào đó. Cứ cho là như vậy, đó đúng là một khả năng, nhưng nó không chứng minh luân hồi hay các Bậc Thần Linh Bậc Thầy. Nhưng lần này tôi hiểu biết hơn. Cả ngàn trường hợp được ghi trong tài liệu khoa học, nhất là những trẻ em nói tiếng ngoại quốc mà các em chưa bao giờ ở đó, có những vết chàm ở chỗ những vết tử thương trước đây, về những trẻ em biết chỗ những đồ vật quý giá được chôn dấu ở xa hàng ngàn dậm và hàng thập kỷ hay ở thế kỷ trước đó, tất cả vang vọng trong lời truyền lại của Catherine. Tôi biết cá tính của Catherine và tâm trí cô. Tôi biết rõ cô như lòng bàn tay. Không, tâm trí tôi không thể đánh lừa tôi lúc này. Chứng cớ quá rõ ràng và tràn đầy. Đó là sự thực. Cô sẽ xác minh ngày càng nhiều khi các buổi thôi miên tiến triển.

Đôi khi trong những tuần lễ liên tiếp tôi có thể quên đi sức mạnh và tính cấp thiết của buổi thôi miên này. Đôi khi tôi rơi trở lại lối mòn của dòng đời thường nhật, lo lắng về mọi sự việc bình thường. Nghi ngờ lại nổi lên. Dường như thể tâm tôi khi không tập trung, có khuynh hướng trở về với những mô hình, niềm tin, và hoài nghi cũ. Nhưng lúc ấy tôi tự nhắc nhở - điều này đã thực sự xẩy ra ! Tôi hiểu thật khó khăn làm sao để tin vào những khái niệm ấy khi không có những kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm rất cần để thêm niềm tin tình cảm vào sự hiểu biết tinh thần. Nhưng tác động của kinh nghiệm bao giờ cũng mờ nhạt tới mức độ nào đó.

Trước nhất, tôi không ý thức được tại sao tôi thay đổi quá nhiều. Tôi biết tôi bình tĩnh và kiên nhẫn hơn, và những người khác nói trông tôi thật an bình, tôi dường như thoải mái và hạnh phúc hơn. Tôi cảm thấy hy vọng hơn, niềm vui hơn, quả quyết hơn, và thỏa mãn hơn trong cuộc sống. Tôi thấy rõ ràng là tôi không còn sợ chết. Tôi không còn sợ chết hay sự không tồn tại. Tôi ít sợ mất những người khác mặc dù chắc chắn là tôi sẽ mất họ. Sợ chết mạnh xiết bao. Người ta đã làm tất cả những gì để tránh sợ hãi : khủng hoảng giữa cuộc đời, yêu đương người trẻ tuổi, giải phẫu thẩm mỹ, tự kỷ ám thị, tích lũy của cải vật chất, sinh ra để tiếp tục có danh tiếng, tranh đấu để ngày càng trẻ và vân vân...

Chúng ta hết sức lo lắng về cái chết của chính chúng ta, đôi khi quá lo lắng đến nỗi quên cả mục đích thực sự của cuộc đời.

Tôi cũng trở nên ít bị ám ảnh hơn. Tôi không cần lúc nào cũng phải canh chừng. Mặc dầu tôi đang cố gắng trở nên ít nghiêm nghị, nhưng sự thay đổi này thật khó đối với tôi. Tôi vẫn còn phải học nhiều.

Quả thực tâm trí tôi giờ đây sẵn sàng tiếp nhận khả năng này, thâm chí khả năng xảy ra mà những lời nói của Catherine là thực. Những sự thật không thể tin được về cha tôi và con tôi, không thể nào đạt được bằng giác quan thông thường. Kiến thức và khả năng của cô chứng minh chắc chắn một khả tâm linh nổi bật. Thật khôn ngoan để tin cô, nhưng tôi vẫn giữ cẩn trọng và hoài nghi về cái tôi đọc trong tài liệu phổ cập. Ai là những người thuật lại hiện tượng tâm linh, đời sống sau khi chết, và những biến cố huyền bí lạ lùng? Họ có được huấn luyện theo phương pháp quan sát khoa học và đánh giá không? Mặc dầu có kinh nghiệm tràn đầy và tuyệt vời với Catherine, tôi biết tâm trí phê phán tự nhiên chống đối của tôi vẫn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng mỗi dữ kiện mới, từng mẩu tin tức. Tôi phải kiểm tra để xem nó có phù hợp với khuôn khổ được xây dựng với mỗi buổi thôi miên không. Tôi sẽ xem xét nó dưới một góc độ, với một kính hiển vi của nhà khoa học. Và tuy nhiên tôi không còn phủ nhận khuôn khổ làm việc đã có rồi.

-ooOoo-

Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04

Chân thành cám ơn Thượng tọa Thích Tâm Quang, chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ,
đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2006).


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 14-05-2006