Phần II
-ooOoo-
BA MƯƠI MỐT BÀI THỰC TẬP
Thực Tập Cười Hàm Tiếu
1a/ - Cười hàm tiếu khi mới thức dậy buổi sáng:
Treo một cành lá hay bất cứ dấu hiệu nào, hoặc một chữ "Cười" trên trần
nhà hoặc trên nóc mùng để khi thức dậy buổi
mai là có thể trông thấy.
Khi trông thấy dấu hiệu đó lập tức mỉm cười,
động thời nắm lấy hơi thở, thở ra và hít vào ba hơi. Trong khi vẫn
duy trì nụ cười hàm tiếu và theo dõi hơi thở, thở ra nhẹ.
1b/ - Cười hàm tiếu trong lúc rỗi rảnh:
Trong phòng đợi, trên xe buýt hay
đứng chờ ở bưu điện. Bất cứ ngồi hay đứng, nhìn
vào một em bé, một ngọn lá, một bức tranh bất cứ một vật gì ít di
động và mỉm cười trong khi thở ra và
thở vào thật nhẹ ba lần. Duy trì nụ cười hàm tiếu trong suốt thời gian
đó và nghĩ rằng em bé, ngọn lá, bức
tranh hay vật gì mình đang nhìn chính
là bản thân mình.
1c/ - Cười hàm tiếu trong khi nghe một bản nhạc:
Nghe một bản nhạc hai hay ba phút, chú ý tới lời nhạc, tình, ý và tiết
tấu. Mỉm cười và thở ra, thở vào thật nhẹ trong suốt thời gian
đó.
1d/ - Cười hàm tiếu trong khi bực bội.
Khi ý thức được mình
đang bực bội, liền tức khắc nở ra nụ cười hàm
tiếu. Thở ra vào thật nhẹ, duy trì nụ cười suốt trong ba hơi thở ra vào.
Tập buông thả
2a/ - Tập buông thả trong thế nằm.
Nằm ngửa trên mặt phẳng không có nệm, không có gối. Duỗi hai tay theo thân
thể, duỗi hai chân. Mỉm cười hàm tiếu. Duy trì nụ cười hàm tiếu. Thở ra,
hít vào thật nhẹ, chú ý tới hơi thở. Buông thả tất cả bắp thịt trên toàn
thân thể. Tuồng như cục sáp thật mềm xuống, mềm như một tấm lụa tẩm sương.
Buông thả hoàn toàn. Chỉ duy trì hơi thở và nụ cười hàm tiếu. Nghĩ tới một
con mèo nằm xụ trong bếp, đụng tới thì
êm như một đám bông gòn. Duy trì trong
hai mươi hơi thở.
2b/ - Buông thả trong tư thế ngồi.
Ngồi kiết già, bán già, ngồi xếp bằng, ngồi trên hai bàn chân, hai gối quỳ
hoặc ngồi trên ghế dựa buông thõng hai chân. Mỉm cười hàm tiếu. Duy trì nụ
cười và buông thả như trong 2a.
Tập thở
3a/ - Thở bụng.
Nằm xuôi hai chân như trong tư thế 2a. Thở
đều và nhẹ bình thường. Chú ý đến động
tác của bụng. Bắt đầu hít vào và phình bụng lên
để đưa không khí vào
đầy phổi. Cho không khí vào phần trên
của phổi trong khi ngực lên và bụng bắt đầu
xuống. Đừng thở hơi dài quá, sẽ mệt. Tập mười hơi thở như vậy Hơi
thở ra dài hơn hoi thở vào.
3b/ - Thở trong khi đếm bước chân.
Đi bộ từng bước thong thả trong công viên,
dọc bờ sông hay trên đường làng, thở
bình thường. Đếm xem mỗi hơi thở ra và
mỗi hơi thở vào bình thường của mình lâu được
mấy bước. Thử đếm như vậy từ chín đến mười lần. Bắt đầu cho hơi thở ra dài
thêm một bước. Khi hít vào, đừng kéo dài
hơi thở, cứ để tự nhiên. Thử
đếm xem hơi thở vào có thay
đổi không? thở chừng mười hơi ra vào
như vậy. Bây giờ cho hơi thở ra dài thêm một bước nữa là hai.
Để ý xem hơi thở vào có dài thêm một
bước không... chỉ kéo dài hơi thở vào khi cảm thấy có nhu cầu phải làm như
thế. Thở mười hơi như vậy rồi trở lại thở bình thường. Năm
phút sau mới tiếp tục. Hễ khi nào thấy hơi mệt thì trở lại bình
thường. Sau một vài tuần, hơi thở ra vào có thể dài bằng nhau. nhưng mỗi
khi thở ra ngực và bụng như nhau, chỉ nên thở từ 10
đến 20 lần rồi trở lại bình thường.
3c/ - Đếm hơi thở
Ngồi trong tư thế kiết già hay bán già hay đi
bộ. Khởi sự thở vào nhè nhẹ, ý thức rằng
đây là mình
đang thở vào hơi thở thứ nhất. Từ từ
thở ra, ý thức rằng đây là mình
đang thở ra hơi thở thứ nhất, hít vào
và nhớ là nên thở bụng. (3a)
Khởi sự hít vào hơi thở thứ hai. Thở đến
hơi thở thứ mười hai thì bỏ và đếm lại
số một. Hoặc có thể đếm ngược từ 10 đến 1. Thở nửa chừng mà bị loạn
tưởng làm cho quên số thì bắt đầu trở lại.
3d/ - Theo dõi hơi thở trong khi nghe nhạc.
Nghe một bản nhạc. Thở đều, nhẹ, dài,
theo dõi hơi thở, làm chủ hơi thở. Trong khi vẫn nhận thức
được tiết tấu và tình cảm của bản
nhạc. Không bị tình tiết của bản nhạc ảnh hưởng
đến hơi thở và quyền chủ
động của mình.
3e/ - Theo dõi hơi trong khi nói chuyện.
Thở đều, nhẹ và dài, theo dõi hơi thở
trong khi nghe va tiếp chuyện một người bạn và trả lời những câu hỏi của
người ấy, làm như ở 3d.
3f/ - Theo dõi hơi thở.
Ngồi kiết già, bán già hoặc đi bộ. Khởi sự
thở vào nhè nhẹ (nhớ thở bụng) một hơi thở bình thường và quán niệm
mình đang thở vào một hơi thở bình
thường. Thở ra và quán niệm mình đang thở ra
một hơi thở bình thường. Thở ba lần như vậy. Khởi sự hít vào một
hơi thở dài hơn và quán niệm: mình đang thở vào
một hơi thở khá dài. Thở ra và quán niệm: mình
đang thở ra một hơi thở khá dài. Thở
ba lần như vậy. Bây giờ khởi sự theo dõi hơi thở của mình một cách chăm
chú, biết rõ động tác của bụng và
phổi và theo dõi sự ra của không khí. Quán niệm: mình
đang hít vào và
đang theo dõi từ
đầu tới cuối hơi thở vào. Mình
đang thở ra và
đang theo dõi từ
đầu tới cuối hơi thở ra.
Thở như vậy 20 lần, trở lại bình thường và sau năm
phút, tập lại như cú. Nhớ duy trì nụ cười trong khi thở. Khi tập
đã quen thì chuyển sang 3g.
3g/ - Thở an định thân tâm để thực hiện
hỷ lạc.
Ngồi kiết già hay bán già. Mỉm cười hàm tiếu. Theo dõi hơi thở như 3e. Khi
tâm đã yên, khởi sự thở nhẹ và quán
niệm: mình đang thở vào và làm cho hơi
thở lắng dịu, an tịnh. Mình đang thở ra và
làm cho toàn thân lắng dịu, an tịnh. Thở ba lần như vậy rồi quán niệm:
mình đang thở vào và thấy thân tâm an
lành, mình đang thở ra và thấy thân
tâm an lành. Mình đang thở vào và thấy
thân tâm thảnh thơi, an lạc, mình đang thở ra
và thấy thân tâm thành thơi, an lạc. Duy trì quán niệm từ năm
phút tới ba mươi phút hay một giờ, tùy khả năng
và công phu luyện tập. Chú ý khởi sự tập và kết thúc thực tập phải
rất thong thả nhẹ nhàng. Khi muốn kết thúc phải nhè nhẹ chuyển mình, lấy
hai tay xoa nhè nhẹ lên mặt, trên mắt, xoa bóp các bắp thịt trên chân
trước khi chuyển sang thế ngồi bình thường. Ngồi duỗi hai chân một lát rồi
mới khởi sự đứng dậy.
Quán niệm tư thế của thân thể và động tác
thân thể
4a/ - Quán niệm tư thế của thân thể.
Có thể thực hiện phép này bất cứ nơi đâu và
lúc nào. Khởi sự chú ý đến hơi thở, thở nhẹ và
sâu hơn bình thường. ý thức được tư thế của
thân thể mình: đang đứng, nằm. ngồi.
Ai ở đâu, đứng ở đâu, nằm ở đâu. ý thức luôn chủ đích hay sự không có chủ
đích của những tư thế ấy. Ví dụ mình biết mình
đang dừng trên một sườn
đồi xanh để hóng mát hoặc để thở, hoặc đứng
chỉ để là đứng không có chủ đích gì
cả.
4b/ - Quán niệm khi pha trà.
Nấu trà và pha một bình mời khách hay để mình
tự uống, cử dộng chậm rãi và ý thức không bỏ qua một chi tiết nào hay
động tác nào của mình. Biết là tay
trái cầm quai ấm, biết là tay phải đang múc
nước đổ vào ấm. Thở nhẹ, sâu hơn bình thường và nắm lấy hơi thở mỗi
khi có loạn tưởng.
4c/ - Quán niệm khi rửa bát.
Rửa bát thật thong thả, mỗi cái bát là một
đối tượng của quán niệm. Xem mỗi cái bát quan trọng như chân như, như phật
tánh. Theo dõi hơi thở để đối trị loạn
tưởng. Tuyệt đối đừng có ước muốn rửa bát cho chóng xong. Xem rửa bát là
việc quan trọng nhất trên đời. Rửa bát là
thiền quán. Nếu không rửa bát trong thiền quán thì cũng không biết thiền
quán trong lúc ngồi.
4d/ - Quán niệm khi giặt áo.
Đừng giặt một lần nhiều áo quá. Lấy độ chừng
ba bốn bộ đồ bà ba ra giặt. Tìm tư thế
đứng hay ngồi thuận lợi nhất mà không mỏi lưng. Giặt áo thong thả,
chú ý tới từng động tác của bàn tay,
cánh tay. Chú ý bọt xà phòng và nước. Giặt áo và xả nước xong thì tâm tư
cũng trong sạch nhẹ nhàng như áo. Nhớ duy trì nụ cười và nắm láy hơi thở
khi tâm bị loạn động.
4e/ - Quán niệm khi dọn nhà.
Chia công việc thành từng lớp. Thu xếp gọn đồ
dạc và sách vở, lau chùi cầu tiêu, lau chùi phòng tắm, quét nhà,
lau sạch bàn ghế và kệ tủ. Để thật nhiều thì
giờ cho mỗi thứ lớp. Động tác chậm lại, chậm
bằng ba lần thường ngày. Tập trung vào
động tác và vào đối tượng động tác. Ví
dụ sau khi sắp một cuốn sách vào chỗ của nó trong kệ sách. Nhìn
cuốn sách, biết cuốn sách là cuốn gì, biết mình
đang nhìn cuốn sách và
đang muốn sắp cuốn sách vào chỗ của
nó, biết tay mình đang đưa ra cầm cuốn sách,
biết tay mình đang đặt cuốn sách vào
chỗ của nó trên kệ sách. Tránh những động tác
mạnh và liên tục làm cho mình mệt. Duy trì ý thức nơi hơi thở, nhất
là khi tâm bị loạn động tìm về quá khứ
hoặc vị lai.
4f/ - Quán niệm khi tắm.
Để ra từ nửa giờ đến 45 phút để tắm. Đừng có
một giây nào hối hả. Từ lúc sửa soạn bồn tắm cho
đến lúc mặc xong áo quần sạch lên
mình, giữ cho động tác thật nhẹ nhàng
chậm rãi. Để ý tới mọi phần vị trên cơ
thể, không phân biệt và e ngại, chú ý tới từng gáo nước trên cơ thể. Theo
dõi hơi thở. Thấy rằng bồn tắm cũng mát và thơm như một hồ sen mùa hạ thơm
mát và tinh khiết.
4g/ - Quán niệm về hạt sỏi.
Ngồi tư thế kiết hay bán già, điều phục hơi
thở như ở bài tập 3e. Sau khi điều
phục hơi thở, khởi sự buông thư tất cả các bắp thịt và duy trì nụ
cười hàm tiếu như ở bài tập 2a. Tưởng mình là một hạt sỏi
đang rơi thật nhẹ nhàng trong một dòng
sông, không cần có chú ý tới động tác và
vẫn rơi xuống tìm chỗ an nghỉ hoàn toàn nơi
đáy sông có cát mịn. Quán tưởng như thế nào cho
đến khi thân tâm hoàn toàn an ổn như
hạt sỏi đã
đạt tới đáy sông và
đang nằm an nghỉ trên cát mịn. Duy trì
trạng thái an lạc này trong nửa giờ, trong khi vẫn không rời nụ cười và
hơi thở. Không một tư tưởng nào về quá khứ hay về tương lai lôi kéo
được mình ra khỏi sự an ổn thanh tịnh
của hiện tại. Kể cả ước muốn thành Phật hay cứu
độ chúng sanh. Vũ trụ đang tôn trọng giờ phút
hiện tại vì biết trong sự thành Phật và cứu
độ chúng sanh chỉ có thể thực hiện trên
căn bản của tâm trạng bình an, vô ưu
tư hiện tại.
4h/ - Tổ chức ngày quán niệm.
Chọn một ngày trong tuần, thứ bảy hay chủ nhật, tùy hoàn cảnh. Bỏ tất cả
mọi công việc trong tuần, không hội họp, không tiếp khách, chỉ làm mọi
việc trong nhà như dọn dẹp, nấu nướng, giặt giũ, lau chùi theo phương pháp
chỉ dẫn ở phần 4e. Tiếp theo là pha trà (4b) và uống trà. Có thể
đọc kinh, viết thư cho người thân hay đi bộ.
Sau đó tập thở (3b, 3c, 3e). Trong trường hợp đọc kinh hay viết thư hãy
nên chú ý, đừng để kinh và thư kéo
mình đi. Quán niệm để giữ chủ quyền của tâm
ý. Đọc kinh và ý thức được mình
đang đọc gì, viết thư và ý thức
được mình
đang viết gì. Cũng như trong trường hợp nghe nhạc hay tiếp chuyện
(xem 3d và 3e). Buổi chiều tự làm lấy thức án,
ăn rất nhẹ hay chỉ ăn vài trái cây
hoặc uống nước trái cây. Thiền tọa một giờ trước khi ngủ. áp dụng bài tập
4g hay 3e hoặc 3g.
Trong ngày nên đi bộ hai lần, mồi lằn từ
nửa giờ tới 45 phút. Buổi tối đừng đọc sách trước khi ngủ. Thay vì
đọc sách, tập buông thư như 2a trong 15 phút,
chú ý tới hơi thở. Thở nhẹ và đừng dài
quá. Theo dõi sự lan xuống của bụng và ngực, mắt nhắm.
Mỗi động tác trong ngày phải chậm
hơn thường nhật ít ra là hai lần.
Quán niệm về duyên khởi
5a/ - Quán niệm về ngũ uẩn.
Tìm một hình ảnh của mình hồi còn thơ ấu. Ngồi lại trong tư thế kiết già
hay bán già. Khởi sự theo dõi hơi thở theo 5c. Sau khi thở
được hai mươi lần. Khởi sự chú ý vào
tấm hình trước mặt. Sử dụng ký ức làm sống dậy những hình ảnh ngũ uẩn của
tự thân trong thời gián bé thơ, thời gian của tấm hình, những hình ảnh về
sắc thân, cảm thọ, suy tư, hà nh nghiệp và nhận thức của mình trong thời
gian đó. Tiếp tục duy trì hơi thở,
đừng để kỷ niệm lôi kéo và che lấp
chánh niệm. Duy trì quán niệm trong 15 phút, duy trì nụ cười hàm tiếu rồi
khởi sự đi vào quán niệm tự thân: ý
thức về sầc thân, cảm thọ, suy tư, hành nghiệp và nhận thức của mình trong
giai đoạn hiện tại. Thấy rõ hợp thể
ngũ uẩn của mình rồi đặt câu hỏi: Ta là
ai? vững chãi trong tự thân như vùi một hạt giống tốt trong
đất mịn có tưới tắm. Câu hỏi "Ta là
ai?" không giao cho trí năng giải đáp bằng
suy luận mà giao cho toàn thể của hợp thể ngũ uẩn ôm ấp.
Đừng thúc đẩy trí nàng
đi tìm giải
đáp suy luận. Chỉ bằng lòng với câu
hỏi thận trọng, nghiêm mật và tha thiết trong tự thân. Quán niệm trong 15
phút, duy trì hơi thở nhẹ và khá sâu để đừng
bị lôi cuốn theo suy tư triết học.
5b/ - Quán niệm về ta:
Ngồi trong đêm tối, trong phòng riêng
hay bên bờ sông, trên đồi cỏ hay bất cứ nơi nào
vắng người, khởi sự nắm lấy hơi thở theo 3e, quán niệm: "Ta sẽ dùng ngón
tay trỏ chỉ vào ta" và thay vì dùng ngón tay trỏ chỉ vào sắc thân mình thì
dùng ngón tay trỏ chỉ ra ngoài.
Quán niệm để thấy được "ta" ngoài
sắc thân ta. Quán niệm để thấy sắc thân ta có
mặt ngay phía trước mặt trong rừng cây, trong lá cỏ, nơi dòng sông.
Quán niệm để thấy được ta trong vũ trụ và
vũ trụ trong ta, có vũ trụ nên có ta, có ta nên có vũ trụ, không có sự
sanh ra cũng không có sự chết đi. Duy trì
nu cười hàm tiếu, nắm vững hơi thở. Quán niệm từ 10 - 20 phút .
5c/ - Quán niệm bộ xương của chính ta.
Nằm trên giường, trên sàn .nhà hay trên cỏ trong tư thế ưa thích,
đừng dùng gối. Khởi sự nắm lấy hơi
thở. Quán niệm sắc thân mình chỉ còn là một bộ xương trắng nằm phơi trên
mặt đất. Duy trì nụ cười hàm tiếu và
tiếp tục nắm lấy hơi thở. Quán niệm thịt da mình
đã tan rã hết, rằng sắc thân mình
đang có là sắc thân của 80 mươi năm
về sau. Dĩ nhiên là một bộ xương trắng nằm trong lòng
đất hay trên mặt
đất. Thấy rõ xương
đầu, xương vai, xương sườn. xương sống, xương
quai sanh, xương ống chân, từng đốt ngón chân, xương cánh tay, xương ngón
tay từng đốt. Duy trì nụ cười, thở thật nhẹ, tâm hồn bình tĩnh.
thấy bộ xương không phải là ta, sắc thân không phải là ta
đồng nhất với sự sống.
Sự sống vĩnh cửu nơi cỏ cây, nơi con người, nơi chim thú, nơi khí trời,
nơi sóng biển, nơi các vì sao. Bộ xương chỉ là một phần nhỏ của ta. Ta có
mặt mọi nơi và mọi lúc. Ta không phải chỉ là sắc thân, cảm thọ, suy tư,
hành nghiệp và nhận thức. Duy trì quán niệm từ 20 phút
đến nửa giờ.
5d/ - Quán niệm về người thân yêu mới chết.
Trên ghế hay trên giường, ngồi hay nằm trong tư thế ưa thích. Khởi sự nắm
lấy hơi thở theo 3c. Quán niệm về thân thể người mình thương yêu
đã chết cách
đây mấy tháng hay đã hai ba năm.
Biết rõ thịt da của chính mình đang còn.
Biết rõ nơi mình còn đủ sự hội tụ của sắc
thân, cảm thọ, tư duy, hành nghiệp và nhận thức.
Quán thông về sự liên hệ giữa mình với người ấy ngày xưa và trong giờ
phút này. Duy trì nụ cười hàm tiếu và nắm lấy hơi thở. Quán niệm trong
mười lăm phút.
5e/ - Quán niệm về "Không".
Ngồi trong tư thế kiết già hay bán già, tập thở cho
điều hòa như trong 3c và 3g. Quán niệm
về tính cách vô thường của hợp thể ngũ uẩn. Sắc thân, cảm thọ. tư duy,
hành nghiệp và nhận thức. Xét từng uẩn một, từ uẩn này sang uẩn khác. Thấy
được tất cả đều chuyển biến vô thường và
vô ngã. Sự tụ họp của ngũ uẩn cũng như sự tụ họp của mỗi hiện tượng
đều vâng theo định luật duyên khởi. Sự
họp tan cũng giống như sự họp tan của những
đám mây trên đỉnh núi. Quán niệm để
đừng bám vào hợp thể ngũ uẩn. Biết rằng yêu thích hay chán ghét
cũng là những hiện tượng thuộc hợp thể ngũ uẩn. Quán niệm
để thấy rõ ngũ uẩn là vô thường, vô
ngã và trống rỗng ("không"). Nhưng ngũ uẩn cũng rất là mầu nhiệm như bất
cứ hiện tượng nào trong vũ trụ, mầu nhiệm như sự sống có mặt khắp mọi nơi.
Quán niệm để thấy được ngũ uẩn không thực sự
sinh diệt, còn mất vì ngũ uẩn cũng là chân như.
Quán niệm để thấy vô thường là một
khái niệm, vô ngã cũng là một khái niệm. "không" cũng là một khái niệm
để không bị ràng buộc bởi vô thường,
vô ngã và "không". Quán niệm để thấy được
không, cũng để thấy được chân như của "không" cũng không khác với chân như
của ngũ uẩn. Phép quán này nên tập sau khi
đã thuần thục các phép quán 5a, 5b, 5c
và 5d. Thời gian tùy vào nhu yếu của người thực tập, có thể một giờ, có
thể 2 giờ.
6a/ Quán niệm về người mình oán ghét nhất.
Ngồi trong tư thế kiết già hay bán già. Thở và duy trì nụ cười hàm tiếu
như trong 2b. Tìm trong ký ức hình bóng của người mình thường nghĩ
đã làm mình khổ
đau nhiều nhất. Lấy hình bóng người ấy
làm đối tượng quán niệm. Quán niệm về sắc
thân, cảm thọ, tư duy, hành nghiệp và nhận thức của người ấy. Quán
từng nét sắc thân người ấy, quán niệm những nét mà mình cho là dễ ghét,
độc địa nhất. Quán về cảm thọ, quán niệm xem
người đó sung sướng thế nào và đau khổ
thế nào trong đời sống hàng
ngày. Quán về tư duy, quán niệm xem người đó
tư duy theo khuôn khổ nào. Quán về hành nghiệp, quán niệm xem những
động lực đá thúc đẩy người đó ước muốn và
hành động. Quán về nhận thức, quán niệm xem
những nhận định của người ấy có cởi mở tự do không, có bị ảnh hưởng bởi thành
kiến, sự bưng bít. sự giận hờn và tình trang mất tự chủ hay không.
Quán niệm như thế cho đến khi cảm thấy sự
thương xót nảy sinh trong tâm như một giếng nước ngọt mới đào
được và giận hờn nơi mình tan biến.
Lập lại bài tập nhiều lần.
6b/ - Quán niệm về khổ đau do vô minh
tạo ra.
Ngồi lại trong tư thế kiết già hay bán già. Khởi sự
điều hòa hơi thở theo 3e. Chọn trường
hợp của một người, một gia đình hay
một xã hội đau khổ nhất mà mình biết
để làm một
đối tượng quán niệm. Trong trường hợp lấy một
người để quán thấy nguồn gốc của tất cả những đau khổ thì có thể
bắt đầu từ những đau khổ sắc thân (bệnh tật,
nghèo khổ, đói, đau đớn xác thân) đến
những đau khổ cảm thọ (ray rứt, sợ hãi, ganh tị, căm
thù, dằn vặt), rồi những đau khổ tư
duy (bi quan, xoay quanh những đối tượng đen tối, nhỏ hẹp). Những đau khổ
hành nghiệp (thúc đẩy bởi sợ hãi,
chán nản, tuyệt vọng, căm thù) và
đau khổ nhận thức (bưng bít bởi hoàn
cảnh, bởi sự khổ đau, bởi người xung quanh,
bởi giáo dục, tuyên truyền, bởi sự thiếu tự chủ của tâm ý). Quán
niệm đến khi sự xót thương nảy sinh trong tâm
như một giếng nước ngọt, thấy rằng người ấy khổ đau vì bị hoàn cảnh
và vô minh che lấp, từ đó phát tâm giúp đỡ
người ấy thoát khỏi tâm trạng và hoàn cảnh hiện tại bằng những
phương tiện im lặng và tế nhị nhất.
Trong trường hợp lấy một gia đình
để quán thì cũng theo phương pháp
trên, nhưng quán niệm từng cá nhân một, hết cá nhân này
đến cá nhân khác. Thấy được sự đau khổ của họ
là sự đau khổ của chính mình.
Thấy rằng mình không trách móc ai trong cộng
đồng đó. Thấy rằng mình phải giúp họ thoát khỏi tình trạng bằng
những phương tiện im lặng và tế nhị nhất.
Trong trường hợp lấy xã hội để quán, ví dụ
cuộc chiến tranh Việt Nam thì quán niệm
để thấy rằng hầu hết những người Việt Nam
tham dự cuộc chiến đều là nạn nhân dù họ thuộc phía nào. Thấy
được rằng mỗi người ở cả hai phía đều sung
sướng khi thấy cuộc chiến chấm dứt. Thấy được rằng các ý thức hệ chống đối
nhau đều là sản phẩm của tư tưởng Tây Phương. Súng
đạn, vũ khí hai bên sử dụng cũng là
sản phẩm và tặng phẩm của Tây Phương. Thấy rằng chiến tranh Việt Nam là do
sự tranh chấp của các cường quốc, do kỹ nghệ vũ khí Tây Phương, do hệ
thống kinh tế đế quốc và do sự thiếu
thức tỉnh, thiếu khôn khéo của người Việt Nam mà còn tiếp diễn. Thấy rằng
quyền sống của con người là quyền căn bản, sự
giết nhau không giải quyết được gì. Kinh Duy Ma Cật nói: "Vào thời
đại đao binh - Phát khởi tâm từ bi - Giáo hóa
cho mọi người - Đừng giữ tâm thù nghịch - Khi có giao tranh lớn -
Dùng uy lực của mình - Làm sức hai bên ngang - Thuyết phục
để hòa giải".
Quán niệm cho tới khi mọi trách móc căm thù
tan biến, lòng thương phát smh như một giếng ngọt trong tâm, phát nguyện
làm công việc tỉnh thức và hòa giải đồng bào
bằng những phương tiện vô tướng và tế nhị nhất.
6c/ - Quán niệm về hành động vô tướng.
Ngồi lại trong tư thế kiết già hay bán già. Khởi sự
điều hòa hơi thở theo 3c. Chọn một dự
án phát triển nông thôn hay bất cứ dự án phụng sự nào mà mình cho là quan
trọng để làm
đối tượng quán niệm. Quán niệm về chủ đích,
phương pháp và nhân sự của công tác. Về chủ
đích, quán niệm để biết ràng công tác
là để lợi sinh, để làm bớt khổ
đau, để đáp ứng từ bi, mà không phải
là để thỏa mãn ước muốn
được ngợi khen. Về phương pháp, quán niệm để
thấy đây là sự cộng tác giữa người và người, không phải là hành
động ban bố tùy sở thích người làm. Về
nhân sự, quán sát để thấy rằng trong công
tác, nếu mình còn thấy mình là kẻ phụng sự và những người kia
được phụng sự thì mình vẫn còn là hành
động vì mình mà không thật sự vì
người. Kinh Bát Nhã nói: "Bồ Tát độ chúng
sanh mà thực ra không có chúng sanh nào
được độ cả". Đó là Phát tâm làm việc
theo tinh thần vô tướng của Bát Nhã.
6d/ - Quán niệm về hành xả:
Ngồi lại trong tư thế kiết già hay bán già. Khởi sự
điều phục hơi thở theo 3c. Hồi tưởng những thành
tích đáng kể trong đời mình, những gì
mình đã thực hiện
được và lần lượt quán niệm về từng
thành tích một. Quán niệm về tài năng mình,
về đức độ mình, về sự hội tụ những
điều kiện đã khiến mình thành công.
Quán niệm để thấy những khinh xuất, những ngã
mạn đã từng phát sinh từ ý niệm mình
có công trạng. Quán niệm duyên khởi để thấy
đó không phải là những công trình của mình mà là sự hội tụ của
nhiều nhân duyên. Quán niệm để thấy rằng mình
không tự chuyên chở được những thành
tích ấy, thành tích ấy không phải là cái ta của mình. Quán niệm
để thấy mình tự do. không bị ràng buộc
vào chúng, chỉ khi nào buông thả được chúng mình
mới thật sự thanh thoát và không còn bị chúng xoay chuyển. Hồi tưởng những
thất bại, những chua cay nhất trong đời mình
và lần lượt quán niệm về từng thất bại một. Quán niệm về tài năng
của mình, đức độ của mình, sự
thiếu thốn những điều kiện khiến mình
thất bại. Quán niệm để thấy những e ngại,
những mặc cảm đã phát smh từ ý niệm mình thua kém trong sự thực
hiện những điều đó. Quán niệm duyên
khởi để thấy đó không phải thực sự là
sự kém cỏi của mình mà là sự thiếu thốn những
điều kiện thuận lợi. Quán niệm để thấy riêng mình không chuyên chở
được nhưng thất bại ấy và những thất
bại ấy không phải là cái ta của mình. Quán niệm thấy mình tự do, không bị
ràng buộc vào chúng, rằng chỉ khi nào buông thả
được chúng, mình mới thật sự thanh
thoát và mới không còn bị chúng đè
nén.
6e/ - Quán niệm về bất xả.
Ngồi lại trong tư thế kiết già hay bán già. Khởi sự
điều phục hơi thở theo 3c. Thực tập một trong
những phép quán 5a, 5b, 5c, 5d và 5e. Quán niệm
để thấy rõ vạn vật vô thường, vô ngã,
sinh diệt biến hoại trong từng giây từng phút. Quán niệm
để thấy rằng tuy vạn vật là vô thường,
vô ngã, sinh diệt biến hoại trong từng giây từng phút, nhưng vạn vật vẫn
là mầu nhiệm, không bị ràng buộc vào hữu vi mà cũng không bị ràng buộc vào
vô vi. Quán niệm để thấy rằng Bồ Tát tuy
không vướng mắc vào ngủ uẩn và vạn pháp, nhưng cũng không trốn
tránh ngũ uẩn và vạn pháp. Tuy có thể buông thả ngũ uẩn và vạn pháp như
buông thả tro nguội, nhưng vẫn an trú được trên
ngũ uẩn và vạn pháp mà không bị chìm đắm bởi
ngũ uẩn và vạn pháp. Cũng như nước trong những làn sóng không bị
những làn sóng làm chìm đắm. Quan niệm để
thấy được rằng người giác ngộ tuy không bị nô lệ bởi công tác độ sinh
nhưng vẫn không khi nào rời công tác
độ sinh.
-ooOoo-
Ðầu trang |
Phần I | Phần II | Phần III |