THIÊN THỨ
BA
ÐỘ BA
VỊ ÐẠO SĨ TÊN URUVELAKASSAPA
Ở URUVELAPADESA
-ooOoo-
Riêng
đức Thế Tôn mang y bát đi đến Uruvekapadesa một mình, khi
Ngài ngự đến gần rẫy trồng bông vải, Ngài mới ngự dưới
cội cây to bên vệ đường.
Ðồng thời có ba chục
vị Thái tử con vua Mahakosala trị vì tại xứ Savatthi (Thất
La Phiệt), ba mươi vị nầy cùng một cha khác mẹ với đức
vua Ba Tư Nặc. Ba chục vị nầy thường gọi tên chung là
BHADDAVAGGIYA (vì ba chục vị đều thật đẹp trai và ăn mặc
lịch sự).
Ngày ấy ba mươi vị cùng
dẫn vợ con đi chơi trong rừng, nhưng trong ba chục vị ấy
có một vị không có vợ nên ông mới vào thành chọn một
cô kỹ nữ thật đẹp đem theo cho có bạn. Thừa dịp đang
vui chơi, cô ấy trộm lấy đồ trang điểm của vị Thái tử
và trốn đi mất. Sau khi cuộc chơi ấy tan, ba mươi vị Thái
tử trở lại mới biết đồ trang sức của vị Thái tử
ấy mất.
Cả ba mươi vị đồng
cùng nhau chia ra đi kiếm cô ấy, vị Thái tử bị mất đồ
lại đi ngay đến nơi Phật ngự và hỏi rằng: Thưa Ngài,
Ngài có trông thấy một cô gái đi ngang qua đây không?
Ðức Phật đáp: Tại
sao ông tìm một người phụ nữ, vậy người phụ nữ ấy
có giá trị cao quí hơn bản thân ông chăng? Tại sao chính
ông không tìm thấy bản thân của ông?
Vị Thái tử ấy nghe
qua lấy làm lạ và hình như ông đang mới tỉnh lại giấc
mộng dài. Ông liền nói rằng:
- Bạch Ngài, nếu có
thể tìm thấy cái gì cao quí trong thân nầy, tôi xin tìm lấy
vật ấy.
- Nầy Thái tử người
hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ thuyết pháp độ người.
Khi ấy hai mươi chín vị
kia cũng vừa đến và đồng cùng nhau ngồi xuống để nghe
pháp.
Ðức Thế Tôn thuyết
năm pháp tuần tự như thuyết cho ngài Yassa nghe và thuyết
thêm Tứ Diệu Ðế. Ba mươi vị ấy đều đắc được Pháp
nhãn. Vị lớn nhứt đắc quả A na hàm quả, vị nhỏ nhứt
đắc Tu-đà-hườn quả còn những vị ở khoảng giữa đắc
Tư đà hàm quả. Cả ba mươi vị đồng xin xuất gia theo chánh
pháp. Ðức Thế Tôn cho xuất gia và cả ba mươi vị đều
đắc A-la-hán quả sau khi xuất gia xong. Xong đức Thế Tôn
cho các Ngài đi thuyết pháp độ đời. Ba mươi vị ấy đi
đến xứ Pàvàya là một xứ nhỏ như thuộc địa của Sàvatthì
là xứ của Phụ vương quí ngài. Vì vậy nên ba mươi vị
ấy gọi là Tỳ Khưu PAVÀYA .
Còn đức Thế Tôn thì
ngự đi đến Uruvela thuộc về đất của vua Bình Sa Vương
xứ Ràjagaha (Vương Xá). Trong khi ấy có ba anh em họ KASSAPA
xuất gia theo lối đạo sĩ Phạm Ngã gọi là Jatila , người
anh cả ở tại rừng Uruvela nên có tên là Uruvelakassapa. Còn
người em thứ nhì ở theo sông Nàdì nên gọi là
Nàdìkassapa. Còn người em út ở theo sông Gayà nên có tên
là Gàyàkassapa. Người anh cả có năm trăm đệ tử, người
em thứ nhì có ba trăm đệ tử, người em út có hai trăm đệ
tử.
Ðức Thế Tôn ngự đến
gần tịnh thất của ông đạo sĩ Uruvelakassapa và nói với
ông rằng: Nầy ông đạo sĩ Kassapa nếu không phải là điều
làm phiền ông, Như Lai xin ông cho Như Lai tạm ở trong đền
thờ thần Lửa mà ông đang bỏ không ấy một đêm có được
không?
- Thầy đại Sa môn, với
tôi thì không có chi trở ngại về việc tạm ở của ông
chỉ trong một đêm, nhưng đều đáng lo ngại cho ông là có
một con Long vương rất hung ác khác thường cũng ở trong
ấy. Xin ông đừng để Long vương ấy làm hại ông là được.
- Long vương ấy không
làm gì được Như Lai đâu ông an lòng, miễn là ông vui
lòng cho Như Lai tạm ở thôi. Ðức Thế Tôn lặp đi lặp lại
câu nầy hai ba lần.
Ông Uruvelakassapa mới
nói rằng: Vậy xin cầu chúc ông được bình an trong đêm
nay.
Khi đức Thế Tôn ngự
vào đến đền thần Lửa liền trải tọa cụ ra ngồi tham
thiền. Long vương trông thấy lấy làm tức giận nó mới
hóa khói và lửa mịt mù để thiêu đức Thế Tôn. Ðức Thế
Tôn nghĩ: Cũng nên dùng chút thần thông để độ Long
vương hung hăng này, ta nên làm khói lửa ấy trở lại đốt
Long vương cho nó kinh sợ.
Long vương thấy khói lửa
của mình trở lại nên lấy làm tức giận càng làm cho
khói lửa tăng gia bội phần, khói lửa của Long vuơng gặp
thần thông của Phật càng làm cho cháy sáng rực cả một
góc trời. Các vị đạo sĩ thấy lửa cháy rất mạnh lật
đật lấy đồ múc nước đến chữa lửa, nhưng không dám
đến gần, mới bảo nhau rằng: Các bạn ơi, ông đại Sa Môn
ấy thật là đẹp người, tốt tướng nhưng thật đáng tiếc
là ông ấy lại bị chết dưới oai lực của Long vương
hung ác nầy.
Cũng trong đêm ấy đức
Thế Tôn thâu phục được Long vương biến thành con rồng
nhỏ nằm khoanh trong bát của đức Thế Tôn. Sáng ngày,
Ngài ngự đi khất thực: Các ông đạo sĩ đến vấn an Ngài,
Ngài liền giở nắp bát đưa ra cho các ông đạo sĩ coi và
bảo rằng: Long vương đã phục tòng Như Lai rồi.
Ông đạo sĩ
Uruvelakassapa mới nghĩ rằng: Ông đại Sa môn nầy thật là
người có thần thông cao thượng, chinh phục được Long
vương hung ác phi thường. Dầu vậy cũng chưa đắc đươc
A-la-hán quả như ta. Mặc dầu, nghĩ thế nhưng ông vẫn
trong sạch với đức Phật và nói với Phật rằng: Tôi xin
thỉnh ông đại Sa môn đến tư thất tôi và tôi xin cúng dường
cho ông vật thực hằng ngày.
Ðức Thế Tôn nhận lời
ở một nơi trong rừng ấy gần tư thất của ông đạo sĩ
Uruvelakassapa. Ðến đêm lại Tứ Ðại Thiên Vương đến hầu
đức Thế Tôn để thỉnh pháp, bốn vị đứng bốn phía
hào quang của quí vị làm cho sáng ngời rực rỡ, vị đạo
sĩ nào cũng thấy. Sáng ngày, ông Uruvelakassapa mới đến hỏi
đức Thế Tôn rằng: Xin mời ông đại Sa môn đến thọ thực,
tôi đã sửa soạn xong rồi. Ðêm hôm nầy tôi trông thấy
hào quang sáng ngời cả khu rừng. Ai đến hầu Ngài mà cho bốn
phương sáng ngời như thế.
- Nầy thầy Kassapa , bốn
vị ấy là Tứ Ðại Thiên Vương hằng đến hầu Như Lai
như vậy.
Ông đạo sĩ mới nghĩ
rằng: Thật ông đại Sa môn nầy là người có oai đức lớn
thần thông cao đến đổi Tứ Ðại Thiên Vương còn phải
đến hầu ông ấy. Mặc dầu vậy nhưng cũng chưa cao thượng
bằng ta.
Sau khi thọ thực xong
đức Thế Tôn ngự về chỗ cư ngự. Ðêm lại đức Thiên
Vương Ðế Thích vào hầu đức Thế Tôn, làm lễ đức Thế
Tôn xong đứng hầu nơi phải lẽ, hào quang của đức Ðế
Thích còn sáng hơn cả Tứ Ðại Thiên Vương bội phần nên
làm cho sáng ngời một góc trời. Ðến sáng ngày, ông đạo
sĩ Uruvelakassapa đến nơi cư ngụ của đức Thế Tôn mời
thọ thực và hỏi rằng: Ðêm hôm nầy ai đến hầu Ngài
làm cho hào quang sáng ngời rực rỡ cả đêm vậy?
Ðức Thế Tôn đáp: Người
đến hầu Như Lai đêm nay là Thiên Vương Ðế Thích.
Ông đạo sĩ
Uruvelakassapa cũng nghĩ như trước. Sau khi thọ thực xong đức
Thế Tôn mới trở về nơi cư ngụ. Ðêm hôm ấy có vị Phạm
Thiên tên Sahampati vào hầu Ngài đảnh lễ xong ngồi nơi phải
lẽ. Hào quang của một vị Phạm Thiên sáng vô lượng vô
biên, sánh với hai đêm qua như đom đóm với mặt trăng.
Sáng ngày, vị đạo
sĩ cũng đến thỉnh đức Thế Tôn thọ thực và cũng hỏi
như trước, đức Thế Tôn đáp: Ðó là vị đại Phạm Thiên
tên Sahampati. Ông Uruvelakassapa mới nghĩ như trước. Sau khi
thọ thực xong đức Thế Tôn ngự về nơi cư ngụ của Ngài.
Sáng ngày hôm sau là
ngày lễ cúng dường Thần Lửa rất trọng thể của các vị
đạo sĩ. Ông Uruvelakassapa mới nghĩ rằng: Sáng mai nầy là
ngày lễ quan trọng của chúng ta, tín đồ sẽ đem cúng dường
trọng thể đến cúng dường cho chúng ta. Nếu ông đại Sa
môn nầy dùng thần thông làm cho tín đồ đem lễ vật cúng
cho ông ta, thì ta bị mất hết lợi lộc. Vậy ta phải làm
sao ngăn không để cho ông đại Sa môn ấy đến đây?
Ðức Thế Tôn hiểu sự
toan tính của thầy đạo sĩ ấy bằng Tha tâm thông. Sáng
ngày, đức Thế Tôn ngự đi khất thực ở Bắc Cu Lư châu,
đây là một châu khác ngoài vũ trụ nầy. Sau khi thọ thực
xong đức Thế Tôn ngự nghỉ trưa tại ao Anotà đến xế
chiều mới về chỗ cư ngụ.
Sáng ngày sau ông đạo
sĩ Uruvelakassapa đến thỉnh đức Thế Tôn đi thọ thực và
hỏi rằng: Hôm qua thầy đi khất thực ở đâu, không thấy
đến thọ thực ở tư thất của tôi? Tôi đợi thầy rất
lâu.
Ðức Thế Tôn mới bảo
cho ông ta biết rằng: Ý của ông ta không muốn cho đức Thế
Tôn đến vì sợ đức Thế Tôn dùng thần thông thâu phục
tính đồ đến dâng cúng cho Ngài.
Ông đạo sĩ nghe đức
Thế Tôn nói như thế lấy làm kinh sợ vì những đều chỉ
nghĩ thoáng qua trong tâm mình thôi mà đức Phật biết rõ rệt
như thấy trước mắt. Nên ông nghĩ rằng: Thật ông đại
Sa môn nầy là người có thần thông quảng đại; nhưng
cũng chưa bằng ta đã đắc A-la-hán quả.
Khi ấy đức Thế Tôn
lại đi luợm vải gói tử thi của một người tớ gái tên
Punna ở bãi tha ma về làm y. Khi xưa người chết thường gói
vải rồi đem bỏ trong rừng già thanh vắng; chớ ít khi hỏa
táng như thời bấy giờ, vì vậy đức Thế Tôn mới đi lượm
vải ấy đem về làm y bận. Quí vị nên biết thêm rằng vải
gói tử thi đem bỏ là thứ vải rất là rẻ tiền mà người
chết nầy lại là một cô đầy tớ thì vải ấy chắc chắn
rằng: Thật là rẻ tiền. Nhưng đức Thế Tôn vẫn lượm lấy
làm y mặc. Ðời đức Phật chỉ có một lần nầy thôi. Ðức
Phật không biết giặt miếng vải hôi thúi ấy ở nơi nào.
Khi ấy đức Ðế Thích biết đức Thế Tôn đang tìm một
chỗ giặt miếng vải hôi thúi ấy. Ngài đến và biến ra một
cái ao rồi thỉnh đức Thế Tôn giặt vải ấy ở ao đó.
Sau khi giặt xong, Ngài mới nghĩ làm sao cho hết mùi hôi
thúi nầy. Ðức Ðế Thích lại dùng một tảng đá màu xanh
trong như ngọc thật đẹp thành một cái chậu có nước
thơm và thỉnh Ngài xả lại một lần nữa, khi xả xong hết
mùi.
Ðức Thế Tôn lại nghĩ:
Bây giờ phơi đâu đây? Chư Thọ Thần lấy làm hoan hỉ và
được dịp cúng dường quí báu, nên bao nhiêu cây trong rừng
đều hình như biết ý Ngài những nhánh dưới thấp đều từ
từ hạ xuống thấp để Ngài phơi tấm vải ấy.
Trong khi đức Thế Tôn
lượm và giặt phơi tấm vải ấy quả địa cầu rung chuyển
ba lần là do nơi oai đức của đức Thế Tôn.
Ngày hôm sau ông đạo
si Uruvelakassapa đến thỉnh đức Thế Tôn đi thọ thực tại
tư thất của ông, ông mới hỏi: Tại sao hôm qua quả cầu
lại rung động đến ba lần. Ðức Thế Tôn dạy tự sự.
Ông lấy làm kinh sợ oai đức của đức Phật, nhưng cũng vẫn
đinh ninh là ông cao thượng hơn vì ông đã đắc A-la-hán quả.
Sáng ngày hôm sau, ông
đạo sĩ lại đến thỉnh đức Thế Tôn đến tư thất ông
thọ thực. Ðức Thế Tôn dạy rằng: "Thầy hãy về trước
đi Như Lai sẽ đến". Sau khi Ngài đưa vị đạo sĩ ấy
ra khỏi tư thất, Ngày mang bát dùng thần thông bay đi khất
thực, Ngày ngự lên trên núi Hy Mã Lạp Sơn lượm lấy những
trái trâm to lớn trên núi Tuyết Lãnh, rồi Ngài lại đến
chỗ thờ thần Lửa trước khi ông Uruvelakassapa về tới.
Ông Uruvelakassapa lấy
làm lạ mới hỏi: Thưa ông đại Sa môn ông đi ngã nào lại
đến trước tôi như vậy?
Ngài mới nói tự sự
và nói rằng: Nầy ông Uruvelakassapa , đây là trái trâm quý
trên Tuyết Lãnh sơn, vị nó rất ngon ngọt, và rất hiếm
có ở các nơi, nếu thầy có muốn dùng thì cầm lấy mà
dùng Như Lai cho thầy đây.
Vị đạo sĩ ấy càng
kinh sợ hơn, nhưng chứng nào tật ấy. Ông cũng tự cho mình
cao thượng hơn và đã đắc A-la-hán quả rồi. Nói về thần
thông mà đức Phật dùng một lúc đến bốn điều là: Ðưa
vị đạo sĩ ấy ra về. Sau lại lượm lấy trái trâm trên
Tuyết Lãnh. Trở lên khất thực ở cõi trời Ðạo Lợi,
và lượm lấy một trái cây trên cõi trời, rồi trở về tư
thất của của ông đạo sĩ mà còn trước ông ấy nữa.
Ngày nọ, các thấy đạo
sĩ muốn đốt lửa lên để tế thần Lửa. Nhưng các ông
không làm thế nào chẻ củi được các ông ấy mới nghĩ rằng:
Nguyên nhân chẻ củi không bể đây ch?c chắn là do oai lực
của vị đại Sa môn nầy.
Khi ấy đức Thế Tôn
mới ngự đến hỏi làm gì? Các ông đáp chẻ củi nhưng chẻ
không bể. Ðức Thế Tôn cho phép chẻ nên củi ấy bể ra rất
lẹ và dễ. Ðến ngày hôm sau nhóm lửa lên để đốt đặng
cúng dường thần Lửa, nhưng không thế nào đốt cháy. Các
ông cũng nghĩ như trước. Ðức Thế Tôn lại ngự đến cho
phép nhóm lửa thì lửa lại cháy.
Ðến mùa lạnh tuyết
đã rơi, mà các thầy đạo sĩ phải trầm mình trong sông
Neranjarà (Ni Liên), đức Thế Tôn thấy thế lấy làm thương
hại vì sự khổ hạnh của các thầy. Ngài mới dùng thần
thông hóa ra năm trăm lò đầy than hồng cháy rực. Sau khi trầm
mình trong nước xong lên có lửa cho mỗi thầy một lò để
sưởi cho ấm. Năm trăm vị đạo sĩ nghĩ rằng: Ðây là cũng
do oai lực của vị đại Sa môn ấy.
Ngày nọ trời mưa thật
to cả ngày đêm làm cho khu rừng Uruvela bị ngập hết. Lẽ
cố nhiên vị Chánh đẳng Chánh giác ngự nơi nào dầu cho nước
lụt hay lửa cháy; chỗ cư ngụ của Ngài vẫn an nhiên vô sự.
Khi ấy đức Thế Tôn mới nghĩ rằng: Ta phải dùng thần
thông làm cho nước bao quanh chỗ ở của ta cao lên như một
vách tường cao, ở giữa lại có một con đường để ta
đi kinh hành. Xong Ngài liền dùng thần thông hiện ra như vậy.
Ông đạo sĩ
Uruvelakassapa mới nghĩ bụng rằng: Không biết vị đại Sa môn
ấy có bị nước lụt ngập không? Hay ông đã đi ở nơi khác
rồi. Ông dạy chư đệ tử đem ghe lại và đồng đi đến
nơi của Phật ngự. Khi đến nơi ông thấy nước bao quanh
chỗ đức Thế Tôn ngự như một tấm vách thành kiên cố,
còn đức Thế Tôn thì đi kinh hành trên một con đường khô
ráo như không có mưa gió gì hết. Ông lấy làm cảm phục
nhưng cũng vẫn đinh ninh rằng: Ta cao quí hơn vì ta đắc
được quả cao thượng là A-la-hán. Ông liền hỏi đức Thế
Tôn rằng: Ông đại Sa môn ông vẫn còn ở đây sao?
Ðức Thế Tôn đáp: Như
Lai vẫn ở đây. Rồi Ngài bay lên hư không rồi đáp xuống
ghe của các thầy đạo sĩ. Tất cả các vị đạo sĩ có mặt
tại đó nghĩ rằng: Thật thầy đại Sa môn nầy có thần
thông quảng đại, oai đức rộng vô lượng vô biên.
Thật ra từ khi đức
Thế Tôn ra khỏi vườn Lộc Giã là ngày mười sáu tháng mười
Âm lịch đến ngụ nơi rừng Uruvela hai tháng nghĩa là đến
rằm tháng chạp. Ngài dùng thần thông đến Ba ngàn năm
trăm lần. Nhưng vị đạo sĩ Uruvelakassapa vẫn ngã mạn
cứng đầu không chịu phục thiện vẫn cho rằng: Ta đã đắc
quả A-la-hán cao thượng hơn.
Ðức Thế Tôn nghĩ rằng:
Như Lai phải làm cho tâm vị đạo sĩ nầy kinh khủng mới hòng
phục thiện được. Nên Ngài mới dạy vị đạo sĩ ấy rằng:
Nầy thầy đạo sĩ, ngươi chưa phải là vị A-la-hán đâu,
hơn nữa người cũng không biết phương pháp hành đạo cho
đắc được A-la-hán quả nữa... Tại sao ngươi lại chấp
rằng: Ngươi là vị A-la-hán?
Khi nghe đức Thế Tôn
dạy thế, ông đạo sĩ Uruvelakassapa liền quì xuống đảnh
lễ và bạch rằng: Bạch đức Ðại Giác, tôi xin xuất gia
hành theo giáo pháp của Ngài.
- Ngươi là một giáo
chủ có đến năm trăm đệ tử, trước hết ngươi nên bảo
cho đệ tử ngươi biết trước đã, Như Lai mới cho ngươi
xuất gia.
Ông đạo sĩ đảnh lễ
Ngài xong trở về tư thất triệu tập hết năm trăm vị đệ
tử lại bảo cho biết rằng: Ông sẽ xuất gia theo giáo lý
của đức Phật. Các đệ tử ai ai cũng bằng lòng xuất gia
theo Phật giáo.
Các vị đạo sĩ tự cạo
đầu bỏ tất cả đồ dùng và y phục của đạo sĩ theo dòng
sông rồi đến hầu Phật xin xuất gia, đức Thế Tôn cho xuất
gia theo như chư vị Ðại Ðức khác.
Nói về đạo sĩ thứ
nhì là em của ông ở phía dưới dòng sông, khi thấy đồ dụng
cụ của vị đạo sĩ trôi đến. Ông mới nghĩ rằng: Chắc
có tai nạn gì đã xảy ra đến anh ta rồi.
Ông liền cho một đệ
tử đến chỗ anh của ông coi và hỏi vì sao lại thả đồ
dụng cụ của đạo sĩ trôi theo dòng sông vậy? Vị đạo
sĩ đệ tử về bảo cho ông đạo sĩ em là Nàdìkassapa biết
rằng: Ông Uruvelakassapa đã xuất gia theo Phật giáo. Ông liền
dẫn ba trăm đệ tử đến hầu Phật và cũng xin xuất gia
theo Phật. Ðức Thế Tôn nhận lời cho xuất gia.
Nói về người em thứ
ba là Gàyàkassapa thấy đồ dùng của hai người anh từ dòng
sông trên trôi đến, ông lấy làm lo sợ tai nạn gì đã đến
cho hai anh mình, ông liền dẫn hai trăm đệ tử đến chỗ
hai anh, khi thấy hai anh đã xuất gia theo Phật, ông cũng xin
xuất gia theo. Thế là ba anh em của ba vị đạo sĩ họ
Kassapa đều xuất gia, đức Thế Tôn lại được thêm một
ngàn lẻ ba vị Tỳ khưu.
Sau khi chư vị đạo
sĩ xuất gia xong đức Thế Tôn mới thuyết bài pháp gọi
là ADITTAPARIYÀYA, bài kinh nầy dạy về lửa. Tất cả
quí vị ấy đều đắc A-la-hán quả.
Nơi đây tôi xin nhắc
lại Túc Sanh Truyện của ba anh em Ngài URUVELAKASSAPA.
Hai mươi chín Ðại kiếp
trước Ðại kiếp hiện tại nầy có hai vị Chánh đẳng Chánh
giác sanh trong kiếp ấy là vị thứ nhứt có Hồng danh là TISSA
vị thứ nhì là PUSSA.
Nơi đây xin nói về thời
kỳ của đức Thế Tôn PUSSA. Sau khi đạt quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, Ngài độ đời lần lần về độ
Phụ vương Ngài tên là Seyyasena. Ðức vua hay tin đức Phật
ngự về gần đến thành cho quan đại thần ra thỉnh vào
thành cúng dường trọng thể. Ðức vua có đức tin rất mạnh
nên Ngài dành phần cúng dường cho chư Tăng và Phật hằng
ngày, dân chúng không có dịp cúng dường cho chư Tăng và đức
Phật. Thậm chí đức vua cho làm hai tấm vách thành từ tư
thất của Phật chạy đến hoàng cung, Ngài không cho ai được
cúng dường, trên đường ngài trải hoa rưới nước thơm,
treo phướn cờ v.v.. cho đẹp mắt.
Ðức vua Seyyasena có ba
vị Thái tử, ngài cho đi trấn nhậm những nơi trọng yếu.
Trong khi ấy có loạn ở nơi biên cương, đức vua mới đưa
chiếu chỉ gọi cả ba vị Thái tử về và truyền chỉ phải
đi dẹp loạn.
Ba vị Thái tử vâng lời
đem binh đi dẹp loạn. Người anh cả có năm trăm tùy tướng
thân yêu, người thứ nhì có ba trăm tùy tướng thân yêu,
người thứ ba có hai trăm tùy tướng thân yêu. Ngoài ra mỗi
vị còn có nhiều quan quân của vua cha giao phó cho đem đi dẹp
loạn. Khi đến nơi ba vị Thái tử dẹp trừ được trong thời
gian không lâu. Khi ban sư về đức vua hay tin lấy làm hài
lòng, cho ba vị vào chầu và hứa cho hạnh phúc nào mà ba vị
mong ước.
Ba vị lui ra và cùng
nhau hội lại định coi xin những gì, cả ba vị và ngàn
quan hầu thân tính mới đồng lòng bảo nhau rằng: Trong thế
gian nầy cái gì chúng ta cũng có thể tìm được khi mà ta
chưa chết, mà những vật ấy không quí báu, vì chúng ta
không thể đem những vật ấy về vị lai được, chỉ có
phước báu là quí nhất mà chúng ta không thể tìm ra được,
mà khi chết ta còn có thể đem theo về vị lai được. Vậy
chúng ta nên xin đức vua cho phép chúng ta cúng dường đến
đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng. Tất cả ai ai cũng vui lòng
và cho rằng: Ðiều kiện ấy là đúng hơn hết. Nên cùng
nhau vào hầu vua cha.
Ðức vua dạy: Phụ vương
lấy làm hài lòng việc làm của các con, vậy các con muốn
được hạnh phúc gì phụ vương cũng vui lòng ban thưởng
cho các con.
Các vị Thái tử cùng
tâu: Tâu phụ vương, chúng con nghĩ kỹ không muốn gì hết,
chúng con chỉ yêu cầu phụ vương ban cho chúng con ân huệ
là được trai Tăng có đức Phật làm chủ tọa và chư Thánh
Tăng.
- Ðiều nầy phụ vương
không thể làm hài lòng các con được, sao các con không xin
chuyện nào ngoài trai Tăng.
- Tâu phụ vương, tuổi
thọ của con người hiện tại đây đến chín muôn tuổi, mặc
dầu phụ vương cho chúng con cúng dường đến đức Phật và
chư Tăng vĩnh viễn, cũng xin cho chúng con mỗi đứa bảy hạ
thôi.
- Không được bảy hạ lâu lắm.
- Vậy thì sáu hạ.
- Cũng vẫn còn lâu lắm.
Ðức vua và ba vị
Thái tử lại bàn nhau sụt xuống còn mỗi vị Hoàng tử có
quyền trai Tăng một tháng thôi, nghĩa là cả ba vị được
có một hạ là ba tháng.
Ba vị Thái tử mới thỉnh
Phật và chư Tăng về nơi cai trị của mình làm lễ. Ba
ngài làm chỗ Trai đường thật lớn, và cất chùa để đức
Thế Tôn và chư Tăng cư ngụ. Ba vị Thái tử mới chọn một
người coi về công khố còn một người coi sổ bộ phân
phát tiền chợ. Các Ngài nói với hai ông ấy rằng: Chúng
tôi phải dẹp hết công chuyện thế gian nầy vào chùa lo
trì giới tham thiền nên không rảnh để coi việc trai Tăng,
vậy chúng tôi xin giao trách nhiệm này lại hai ông, mong rằng
hai ông không phụ lòng phó thác của chúng tôi đã giao phó.
Thật là một trách nhiệm nặng nề, vì hai ông phải trông
xem tới tám muôn bốn ngàn người coi lo việc nấu ăn, và
hai muôn người lo cúng dường cho đức Thế Tôn và chư
Tăng. Chúng tôi tin chắc rằng hai ông sẽ hoàn thành công
tác nầy cho chúng tôi.
Ba vị Thái tử bỏ cả
việc thế gian vào chùa lo trì giới tham thiền với một
ngàn tùy tướng thân yêu.
Nói về con cháu của
những người phụ trách về nấu ăn, thấy vật thực như bánh
v.v.. Ngọt ngon nên thèm đòi ăn khóc lóc om sòm. Cha mẹ
chúng chịu không được bực mình nên cho chúng ăn cũng có,
hay thương con nên lén lấy cho chúng ăn cũng có. Vì những
người ấy không hiểu rằng: Những của cải của ba vị
Thái tử để ra đây tác ý là làm để cúng dường đến
chư Thánh nhơn nhứt là đức Phật. Nên khi ăn những của
ấy không khác nào ăn của chư Thánh nhơn. Nên sau khi chết
phải đọa vào địa ngục, sau sanh làm quỉ đói gọi là Ngạ
quỉ phải chịu đói khổ không biết là bao nhiêu triệu tỉ
năm. Ðến đại kiếp nầy có năm vị Phật, vị thứ nhất
là KUKKUSANDHO, vị thứ nhì là KONÀGAMANO, vị thứ
ba là KASSAPO. Bọn Ngạ quỉ ấy đến hầu hỏi đức
Phật thứ nhất, Ngài dạy hỏi đức Phật thứ nhì, hỏi
đức Phật thứ nhì Ngài dạy hỏi đức Phật thứ ba, hỏi
đức Phật thứ ba rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, đến bao
giờ chúng tôi mới được thoát khỏi cảnh đói khổ nầy?
Ðức Phật KASSAPO
(Ca Diếp) dạy rằng: Ðến khi hết giáo pháp của Như Lai hiện
tại, lâu không thể đếm năm được, nhưng có thể nói rằng:
Khi mặt địa cầu nầy đất mọc cao thêm lên được một
do tuần nữa (mười sáu cây số ngàn). Chừng ấy có một
đức Chánh đẳng Chánh giác sanh lên, vị ấy có hồng danh
là Phật Cồ Ðàm, quyến thuộc của người sẽ là vua Bình
Sa Vương, Ngài sẽ dâng cúng vật thực đến đức Phật và
chư Thánh Tăng chừng ấy Ngài sẽ hồi hướng phước báu
cho các người, các người sẽ được thọ thực và thoát
khổ nầy.
Mặc dù phải chịu đói
thêm một đời của vị Phật lâu không đếm năm được,
nhưng những Ngạ quỉ ấy thấy rất vui vì biết rằng: Ta sẽ
được ăn, như chúng ta đói mà biết người sắp dọn cơm
cho ăn vậy.
Ðến đời của đức
Th? Tôn chúng ta hiện tại. Vị quan coi sổ chi tiêu trong thời
kỳ ấy sanh làm vua tại Vương Xá thành tên là Bình Sa Vương;
và mười hai ngàn người lo phụ trách việc dọn vật thực
cúng dường kia sanh làm người trong thành Vương Xá mà toàn
là người giàu sang và con nhà quí phái thường đến hầu
vua. Còn ba vị Thái tử sanh làm ba anh em ruột họ Kassapa xuất
gia làm đạo sĩ cùng với một ngàn vị tùy tướng thân
yêu.
Sau khi độ được một
ngàn lẻ ba vị đạo sĩ, đức Thế Tôn dẫn cả thảy vào
Vương Xá thành. Ðức Phật định đi độ đức vua Bình Sa
Vương. Ðức Phật ngự vào vườn thượng uyển, người giữ
vườn lật đật vào cho đức vua hay. Ðức vua được tin
ấy lấy làm hoan hỉ lập tức dẫn mười hai ngàn người bạn
đến vườn thượng uyển hầu Phật.
Khi đến nơi Phật ngự
đảnh lễ Phật xong ngồi vào nơi phải lẽ. Mười hai muôn
người theo đức vua Bình Sa Vương là hạng quí phái Trưởng
giả, Bà la môn thấy đức vua đảnh lễ Phật cũng đảnh lễ.
Có người ngồi yên, có người hỏi thăm sức khỏe của Phật
theo phép xã giao. Có người lại nghĩ rằng: Ông đại Sa môn
nầy là thầy của ông Uruvelakassapa hay ông Uruvelakassapa là
thầy của ông đại Sa môn? Vậy ai là thầy, ai là trò?
Ðức Thế Tôn biết sự
suy nghĩ của các người ấy bằng Tha tâm thông, nên Ngài mới
phán hỏi ông Uruvelakassapa rằng: KIMEVA DISVA URUVELASI v.v.. Nầy
Uruvelakassapa , ông suy nghĩ thấy gì nên ông bỏ sự cúng dường
thần Lửa. Và Như Lai hỏi do nguyên nhân nào mà ông bỏ sự
thờ cúng ấy?
Ông Uruvelakassapa đáp rằng:
RÙPE CA SADDE CA ATTHORASO CA v.v.. Lẽ cố nhiên tiếng gọi là
tế ấy có nghĩa là mong ước muốn được Ngũ trần Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc. Nay đệ tử hiểu rõ rằng: Những
điều ấy toàn là phiền não; và cũng đã tìm thấy con đường
đến Niết bàn là nơi không còn luân hồi, nên không còn tầm
kiếm Ngũ trần, không còn sanh trong Dục giới, không còn ưa
mến Ngũ trần, tâm không còn ưa thích tất cả các sự việc
bên ngoài. Vì lẽ ấy nên đệ tử bỏ sự tế thần Lửa mà
khi xưa kia đệ tử đã hành.
Sau khi nói xong câu ấy
Ngài liền cúi đầu lạy sát bên chân của đức Thế Tôn
để cho những người có mặt tại nơi ấy biết rằng: Ngài
là đệ tử của đức Phật. Rồi Ngài lại nói thêm rằng:
Ðức Ðại Giác chính Ngài là Tôn sư của đệ tử. Tôi là
đệ tử của Ngài.
Nói xong Ngài dùng thần
thông bay lên hư không cao độ một cây thốt nốt rồi trở
xuống quì lạy y chỗ cũ, lại bay lên cao hơn lần trước một
cây thốt nốt rồi đáp xuống nơi cũ và cũng cúi lạy lần
thứ nhì, làm như thế bảy lần mỗi lần đều cao hơn một
cây thốt nốt. (Mỗi cây thốt nốt cao độ mười hai thước).
Tất cả những người
có mặt nơi ấy đều nghĩ rằng: Ðức Ðại Giác là thầy
của ba đạo sĩ họ KASSAPA .
Ðại đức
Uruvelakassapa bạch Phật: Khi xưa đệ tử cho rằng: Mình là
bực A-la-hán, sau nầy nhờ ơn đức Thế Tôn giáo hóa nên mới
diệt được tà kiến.
- Không phải Như Lai mới
độ được người trong kiếp nầy. Lúc quá khứ Như Lai
cũng đã độ người khỏi độc vật là tà kiến rồi.
Ðức Thế Tôn thuyết
pháp Tứ Diệu Ðế. Sau khi dứt thời pháp hai muôn người
theo đức Bình Sa Vương đắc Tu-đà-hườn quả, và một
muôn người kia được thọ Tam qui làm thiện nam trong Phật
giáo.
Ðức Bình Sa Vương mới
bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn trong khi tôi còn là một
vị hoàng tử có phát nguyện năm điều là:
1) Muốn được phong
vương trị vì thiên hạ thay phụ vương.
2) Khi có vị Chánh đẳng
Chánh giác trong cõi Diêm Phù nầy, xin hãy ngự đến xứ của
trẫm trước nhứt.
3) Xin cho tôi được vào
hầu Phật.
4) Xin đức Chánh đẳng Chánh giác thuyết pháp
độ tôi.
5) Xin cho tôi đắc được Thánh quả.
Hiện nay năm điều
nguyện vọng của trẫm đã đoạt thành. Trẫm rất hài
lòng đối với đời sống nầy rồi, trẫm cũng chẳng thấy
có gì cao cả hơn Pháp bảo. Kể từ vô thủy đến nay trẫm
ví như cái chén úp, hôm nay người đến lật ngửa lên; hoặc
cũng ví như một vật gì khác che đậy kín, nay có người
đến đem vật che ấy ra; hay ví như người đi lạc đường
có được người khác đến chỉ đường cho ra được, hoặc
giả như người ở nơi tăm tối lại có người đem đèn đến
đốt cho sáng, hay như người mù được vị lương y chữa
cho được sáng mắt. Tôi xin qui y Tam bảo, xin đức Thế Tôn
nhận biết rõ rằng: Trẫm là người Thiện nam trong Phật
giáo kể từ giờ phút nầy. Trẫm xin kính thỉnh đức Thế
Tôn và chư Tăng đến thọ thực nơi hoàng cung để trẫm
được vun trồng thêm phước thiện.
Ý nói của đức Bình
Sa Vương là Ngài là người mù, là cái chén úp v.v.. mà đức
Thế Tôn là người đến chữa cho và lật chén lên.
Ðức Thế Tôn nhận lời
bằng cách lặng thinh. Ðức vua biết rõ ý của đức Thế Tôn
nên đảnh lễ xong ra về.
-ooOoo-
Trang
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Trang kế |