| 
         THIÊN THỨ 
        BA 
        ÐỘ BA 
        VỊ ÐẠO SĨ TÊN URUVELAKASSAPA  
        Ở URUVELAPADESA
        -ooOoo- 
        Riêng 
        đức Thế Tôn mang y bát đi đến Uruvekapadesa một mình, khi 
        Ngài ngự đến gần rẫy trồng bông vải, Ngài mới ngự dưới 
        cội cây to bên vệ đường. 
        Ðồng thời có ba chục 
        vị Thái tử con vua Mahakosala trị vì tại xứ Savatthi (Thất 
        La Phiệt), ba mươi vị nầy cùng một cha khác mẹ với đức 
        vua Ba Tư Nặc. Ba chục vị nầy thường gọi tên chung là 
        BHADDAVAGGIYA (vì ba chục vị đều thật đẹp trai và ăn mặc 
        lịch sự). 
        Ngày ấy ba mươi vị cùng 
        dẫn vợ con đi chơi trong rừng, nhưng trong ba chục vị ấy 
        có một vị không có vợ nên ông mới vào thành chọn một 
        cô kỹ nữ thật đẹp đem theo cho có bạn. Thừa dịp đang 
        vui chơi, cô ấy trộm lấy đồ trang điểm của vị Thái tử 
        và trốn đi mất. Sau khi cuộc chơi ấy tan, ba mươi vị Thái 
        tử trở lại mới biết đồ trang sức của vị Thái tử 
        ấy mất. 
        Cả ba mươi vị đồng 
        cùng nhau chia ra đi kiếm cô ấy, vị Thái tử bị mất đồ 
        lại đi ngay đến nơi Phật ngự và hỏi rằng: Thưa Ngài, 
        Ngài có trông thấy một cô gái đi ngang qua đây không? 
        Ðức Phật đáp: Tại 
        sao ông tìm một người phụ nữ, vậy người phụ nữ ấy 
        có giá trị cao quí hơn bản thân ông chăng? Tại sao chính 
        ông không tìm thấy bản thân của ông? 
        Vị Thái tử ấy nghe 
        qua lấy làm lạ và hình như ông đang mới tỉnh lại giấc 
        mộng dài. Ông liền nói rằng: 
        - Bạch Ngài, nếu có 
        thể tìm thấy cái gì cao quí trong thân nầy, tôi xin tìm lấy 
        vật ấy. 
        - Nầy Thái tử người 
        hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ thuyết pháp độ người. 
        Khi ấy hai mươi chín vị 
        kia cũng vừa đến và đồng cùng nhau ngồi xuống để nghe 
        pháp. 
        Ðức Thế Tôn thuyết 
        năm pháp tuần tự như thuyết cho ngài Yassa nghe và thuyết 
        thêm Tứ Diệu Ðế. Ba mươi vị ấy đều đắc được Pháp 
        nhãn. Vị lớn nhứt đắc quả A na hàm quả, vị nhỏ nhứt 
        đắc Tu-đà-hườn quả còn những vị ở khoảng giữa đắc 
        Tư đà hàm quả. Cả ba mươi vị đồng xin xuất gia theo chánh 
        pháp. Ðức Thế Tôn cho xuất gia và cả ba mươi vị đều 
        đắc A-la-hán quả sau khi xuất gia xong. Xong đức Thế Tôn 
        cho các Ngài đi thuyết pháp độ đời. Ba mươi vị ấy đi 
        đến xứ Pàvàya là một xứ nhỏ như thuộc địa của Sàvatthì 
        là xứ của Phụ vương quí ngài. Vì vậy nên ba mươi vị 
        ấy gọi là Tỳ Khưu PAVÀYA . 
        Còn đức Thế Tôn thì 
        ngự đi đến Uruvela thuộc về đất của vua Bình Sa Vương 
        xứ Ràjagaha (Vương Xá). Trong khi ấy có ba anh em họ KASSAPA 
        xuất gia theo lối đạo sĩ Phạm Ngã gọi là Jatila , người 
        anh cả ở tại rừng Uruvela nên có tên là Uruvelakassapa. Còn 
        người em thứ nhì ở theo sông Nàdì nên gọi là 
        Nàdìkassapa. Còn người em út ở theo sông Gayà nên có tên 
        là Gàyàkassapa. Người anh cả có năm trăm đệ tử, người 
        em thứ nhì có ba trăm đệ tử, người em út có hai trăm đệ 
        tử. 
        Ðức Thế Tôn ngự đến 
        gần tịnh thất của ông đạo sĩ Uruvelakassapa và nói với 
        ông rằng: Nầy ông đạo sĩ Kassapa nếu không phải là điều 
        làm phiền ông, Như Lai xin ông cho Như Lai tạm ở trong đền 
        thờ thần Lửa mà ông đang bỏ không ấy một đêm có được 
        không? 
        - Thầy đại Sa môn, với 
        tôi thì không có chi trở ngại về việc tạm ở của ông 
        chỉ trong một đêm, nhưng đều đáng lo ngại cho ông là có 
        một con Long vương rất hung ác khác thường cũng ở trong 
        ấy. Xin ông đừng để Long vương ấy làm hại ông là được. 
        - Long vương ấy không 
        làm gì được Như Lai đâu ông an lòng, miễn là ông vui 
        lòng cho Như Lai tạm ở thôi. Ðức Thế Tôn lặp đi lặp lại 
        câu nầy hai ba lần. 
        Ông Uruvelakassapa mới 
        nói rằng: Vậy xin cầu chúc ông được bình an trong đêm 
        nay. 
        Khi đức Thế Tôn ngự 
        vào đến đền thần Lửa liền trải tọa cụ ra ngồi tham 
        thiền. Long vương trông thấy lấy làm tức giận nó mới 
        hóa khói và lửa mịt mù để thiêu đức Thế Tôn. Ðức Thế 
        Tôn nghĩ: Cũng nên dùng chút thần thông để độ Long 
        vương hung hăng này, ta nên làm khói lửa ấy trở lại đốt 
        Long vương cho nó kinh sợ. 
        Long vương thấy khói lửa 
        của mình trở lại nên lấy làm tức giận càng làm cho 
        khói lửa tăng gia bội phần, khói lửa của Long vuơng gặp 
        thần thông của Phật càng làm cho cháy sáng rực cả một 
        góc trời. Các vị đạo sĩ thấy lửa cháy rất mạnh lật 
        đật lấy đồ múc nước đến chữa lửa, nhưng không dám 
        đến gần, mới bảo nhau rằng: Các bạn ơi, ông đại Sa Môn 
        ấy thật là đẹp người, tốt tướng nhưng thật đáng tiếc 
        là ông ấy lại bị chết dưới oai lực của Long vương 
        hung ác nầy. 
        Cũng trong đêm ấy đức 
        Thế Tôn thâu phục được Long vương biến thành con rồng 
        nhỏ nằm khoanh trong bát của đức Thế Tôn. Sáng ngày, 
        Ngài ngự đi khất thực: Các ông đạo sĩ đến vấn an Ngài, 
        Ngài liền giở nắp bát đưa ra cho các ông đạo sĩ coi và 
        bảo rằng: Long vương đã phục tòng Như Lai rồi. 
        Ông đạo sĩ 
        Uruvelakassapa mới nghĩ rằng: Ông đại Sa môn nầy thật là 
        người có thần thông cao thượng, chinh phục được Long 
        vương hung ác phi thường. Dầu vậy cũng chưa đắc đươc 
        A-la-hán quả như ta. Mặc dầu, nghĩ thế nhưng ông vẫn 
        trong sạch với đức Phật và nói với Phật rằng: Tôi xin 
        thỉnh ông đại Sa môn đến tư thất tôi và tôi xin cúng dường 
        cho ông vật thực hằng ngày. 
        Ðức Thế Tôn nhận lời 
        ở một nơi trong rừng ấy gần tư thất của ông đạo sĩ 
        Uruvelakassapa. Ðến đêm lại Tứ Ðại Thiên Vương đến hầu 
        đức Thế Tôn để thỉnh pháp, bốn vị đứng bốn phía 
        hào quang của quí vị làm cho sáng ngời rực rỡ, vị đạo 
        sĩ nào cũng thấy. Sáng ngày, ông Uruvelakassapa mới đến hỏi 
        đức Thế Tôn rằng: Xin mời ông đại Sa môn đến thọ thực, 
        tôi đã sửa soạn xong rồi. Ðêm hôm nầy tôi trông thấy 
        hào quang sáng ngời cả khu rừng. Ai đến hầu Ngài mà cho bốn 
        phương sáng ngời như thế. 
        - Nầy thầy Kassapa , bốn 
        vị ấy là Tứ Ðại Thiên Vương hằng đến hầu Như Lai 
        như vậy. 
        Ông đạo sĩ mới nghĩ 
        rằng: Thật ông đại Sa môn nầy là người có oai đức lớn 
        thần thông cao đến đổi Tứ Ðại Thiên Vương còn phải 
        đến hầu ông ấy. Mặc dầu vậy nhưng cũng chưa cao thượng 
        bằng ta. 
        Sau khi thọ thực xong 
        đức Thế Tôn ngự về chỗ cư ngự. Ðêm lại đức Thiên 
        Vương Ðế Thích vào hầu đức Thế Tôn, làm lễ đức Thế 
        Tôn xong đứng hầu nơi phải lẽ, hào quang của đức Ðế 
        Thích còn sáng hơn cả Tứ Ðại Thiên Vương bội phần nên 
        làm cho sáng ngời một góc trời. Ðến sáng ngày, ông đạo 
        sĩ Uruvelakassapa đến nơi cư ngụ của đức Thế Tôn mời 
        thọ thực và hỏi rằng: Ðêm hôm nầy ai đến hầu Ngài 
        làm cho hào quang sáng ngời rực rỡ cả đêm vậy? 
        Ðức Thế Tôn đáp: Người 
        đến hầu Như Lai đêm nay là Thiên Vương Ðế Thích. 
        Ông đạo sĩ 
        Uruvelakassapa cũng nghĩ như trước. Sau khi thọ thực xong đức 
        Thế Tôn mới trở về nơi cư ngụ. Ðêm hôm ấy có vị Phạm 
        Thiên tên Sahampati vào hầu Ngài đảnh lễ xong ngồi nơi phải 
        lẽ. Hào quang của một vị Phạm Thiên sáng vô lượng vô 
        biên, sánh với hai đêm qua như đom đóm với mặt trăng. 
        Sáng ngày, vị đạo 
        sĩ cũng đến thỉnh đức Thế Tôn thọ thực và cũng hỏi 
        như trước, đức Thế Tôn đáp: Ðó là vị đại Phạm Thiên 
        tên Sahampati. Ông Uruvelakassapa mới nghĩ như trước. Sau khi 
        thọ thực xong đức Thế Tôn ngự về nơi cư ngụ của Ngài. 
        Sáng ngày hôm sau là 
        ngày lễ cúng dường Thần Lửa rất trọng thể của các vị 
        đạo sĩ. Ông Uruvelakassapa mới nghĩ rằng: Sáng mai nầy là 
        ngày lễ quan trọng của chúng ta, tín đồ sẽ đem cúng dường 
        trọng thể đến cúng dường cho chúng ta. Nếu ông đại Sa 
        môn nầy dùng thần thông làm cho tín đồ đem lễ vật cúng 
        cho ông ta, thì ta bị mất hết lợi lộc. Vậy ta phải làm 
        sao ngăn không để cho ông đại Sa môn ấy đến đây? 
        Ðức Thế Tôn hiểu sự 
        toan tính của thầy đạo sĩ ấy bằng Tha tâm thông. Sáng 
        ngày, đức Thế Tôn ngự đi khất thực ở Bắc Cu Lư châu, 
        đây là một châu khác ngoài vũ trụ nầy. Sau khi thọ thực 
        xong đức Thế Tôn ngự nghỉ trưa tại ao Anotà đến xế 
        chiều mới về chỗ cư ngụ. 
        Sáng ngày sau ông đạo 
        sĩ Uruvelakassapa đến thỉnh đức Thế Tôn đi thọ thực và 
        hỏi rằng: Hôm qua thầy đi khất thực ở đâu, không thấy 
        đến thọ thực ở tư thất của tôi? Tôi đợi thầy rất 
        lâu. 
        Ðức Thế Tôn mới bảo 
        cho ông ta biết rằng: Ý của ông ta không muốn cho đức Thế 
        Tôn đến vì sợ đức Thế Tôn dùng thần thông thâu phục 
        tính đồ đến dâng cúng cho Ngài. 
        Ông đạo sĩ nghe đức 
        Thế Tôn nói như thế lấy làm kinh sợ vì những đều chỉ 
        nghĩ thoáng qua trong tâm mình thôi mà đức Phật biết rõ rệt 
        như thấy trước mắt. Nên ông nghĩ rằng: Thật ông đại 
        Sa môn nầy là người có thần thông quảng đại; nhưng 
        cũng chưa bằng ta đã đắc A-la-hán quả. 
        Khi ấy đức Thế Tôn 
        lại đi luợm vải gói tử thi của một người tớ gái tên 
        Punna ở bãi tha ma về làm y. Khi xưa người chết thường gói 
        vải rồi đem bỏ trong rừng già thanh vắng; chớ ít khi hỏa 
        táng như thời bấy giờ, vì vậy đức Thế Tôn mới đi lượm 
        vải ấy đem về làm y bận. Quí vị nên biết thêm rằng vải 
        gói tử thi đem bỏ là thứ vải rất là rẻ tiền mà người 
        chết nầy lại là một cô đầy tớ thì vải ấy chắc chắn 
        rằng: Thật là rẻ tiền. Nhưng đức Thế Tôn vẫn lượm lấy 
        làm y mặc. Ðời đức Phật chỉ có một lần nầy thôi. Ðức 
        Phật không biết giặt miếng vải hôi thúi ấy ở nơi nào. 
        Khi ấy đức Ðế Thích biết đức Thế Tôn đang tìm một 
        chỗ giặt miếng vải hôi thúi ấy. Ngài đến và biến ra một 
        cái ao rồi thỉnh đức Thế Tôn giặt vải ấy ở ao đó. 
        Sau khi giặt xong, Ngài mới nghĩ làm sao cho hết mùi hôi 
        thúi nầy. Ðức Ðế Thích lại dùng một tảng đá màu xanh 
        trong như ngọc thật đẹp thành một cái chậu có nước 
        thơm và thỉnh Ngài xả lại một lần nữa, khi xả xong hết 
        mùi. 
        Ðức Thế Tôn lại nghĩ: 
        Bây giờ phơi đâu đây? Chư Thọ Thần lấy làm hoan hỉ và 
        được dịp cúng dường quí báu, nên bao nhiêu cây trong rừng 
        đều hình như biết ý Ngài những nhánh dưới thấp đều từ 
        từ hạ xuống thấp để Ngài phơi tấm vải ấy. 
        Trong khi đức Thế Tôn 
        lượm và giặt phơi tấm vải ấy quả địa cầu rung chuyển 
        ba lần là do nơi oai đức của đức Thế Tôn. 
        Ngày hôm sau ông đạo 
        si Uruvelakassapa đến thỉnh đức Thế Tôn đi thọ thực tại 
        tư thất của ông, ông mới hỏi: Tại sao hôm qua quả cầu 
        lại rung động đến ba lần. Ðức Thế Tôn dạy tự sự. 
        Ông lấy làm kinh sợ oai đức của đức Phật, nhưng cũng vẫn 
        đinh ninh là ông cao thượng hơn vì ông đã đắc A-la-hán quả. 
        Sáng ngày hôm sau, ông 
        đạo sĩ lại đến thỉnh đức Thế Tôn đến tư thất ông 
        thọ thực. Ðức Thế Tôn dạy rằng: "Thầy hãy về trước 
        đi Như Lai sẽ đến". Sau khi Ngài đưa vị đạo sĩ ấy 
        ra khỏi tư thất, Ngày mang bát dùng thần thông bay đi khất 
        thực, Ngày ngự lên trên núi Hy Mã Lạp Sơn lượm lấy những 
        trái trâm to lớn trên núi Tuyết Lãnh, rồi Ngài lại đến 
        chỗ thờ thần Lửa trước khi ông Uruvelakassapa về tới. 
        Ông Uruvelakassapa lấy 
        làm lạ mới hỏi: Thưa ông đại Sa môn ông đi ngã nào lại 
        đến trước tôi như vậy? 
        Ngài mới nói tự sự 
        và nói rằng: Nầy ông Uruvelakassapa , đây là trái trâm quý 
        trên Tuyết Lãnh sơn, vị nó rất ngon ngọt, và rất hiếm 
        có ở các nơi, nếu thầy có muốn dùng thì cầm lấy mà 
        dùng Như Lai cho thầy đây. 
        Vị đạo sĩ ấy càng 
        kinh sợ hơn, nhưng chứng nào tật ấy. Ông cũng tự cho mình 
        cao thượng hơn và đã đắc A-la-hán quả rồi. Nói về thần 
        thông mà đức Phật dùng một lúc đến bốn điều là: Ðưa 
        vị đạo sĩ ấy ra về. Sau lại lượm lấy trái trâm trên 
        Tuyết Lãnh. Trở lên khất thực ở cõi trời Ðạo Lợi, 
        và lượm lấy một trái cây trên cõi trời, rồi trở về tư 
        thất của của ông đạo sĩ mà còn trước ông ấy nữa. 
        Ngày nọ, các thấy đạo 
        sĩ muốn đốt lửa lên để tế thần Lửa. Nhưng các ông 
        không làm thế nào chẻ củi được các ông ấy mới nghĩ rằng: 
        Nguyên nhân chẻ củi không bể đây ch?c chắn là do oai lực 
        của vị đại Sa môn nầy. 
        Khi ấy đức Thế Tôn 
        mới ngự đến hỏi làm gì? Các ông đáp chẻ củi nhưng chẻ 
        không bể. Ðức Thế Tôn cho phép chẻ nên củi ấy bể ra rất 
        lẹ và dễ. Ðến ngày hôm sau nhóm lửa lên để đốt đặng 
        cúng dường thần Lửa, nhưng không thế nào đốt cháy. Các 
        ông cũng nghĩ như trước. Ðức Thế Tôn lại ngự đến cho 
        phép nhóm lửa thì lửa lại cháy. 
        Ðến mùa lạnh tuyết 
        đã rơi, mà các thầy đạo sĩ phải trầm mình trong sông 
        Neranjarà (Ni Liên), đức Thế Tôn thấy thế lấy làm thương 
        hại vì sự khổ hạnh của các thầy. Ngài mới dùng thần 
        thông hóa ra năm trăm lò đầy than hồng cháy rực. Sau khi trầm 
        mình trong nước xong lên có lửa cho mỗi thầy một lò để 
        sưởi cho ấm. Năm trăm vị đạo sĩ nghĩ rằng: Ðây là cũng 
        do oai lực của vị đại Sa môn ấy. 
        Ngày nọ trời mưa thật 
        to cả ngày đêm làm cho khu rừng Uruvela bị ngập hết. Lẽ 
        cố nhiên vị Chánh đẳng Chánh giác ngự nơi nào dầu cho nước 
        lụt hay lửa cháy; chỗ cư ngụ của Ngài vẫn an nhiên vô sự. 
        Khi ấy đức Thế Tôn mới nghĩ rằng: Ta phải dùng thần 
        thông làm cho nước bao quanh chỗ ở của ta cao lên như một 
        vách tường cao, ở giữa lại có một con đường để ta 
        đi kinh hành. Xong Ngài liền dùng thần thông hiện ra như vậy. 
        Ông đạo sĩ 
        Uruvelakassapa mới nghĩ bụng rằng: Không biết vị đại Sa môn 
        ấy có bị nước lụt ngập không? Hay ông đã đi ở nơi khác 
        rồi. Ông dạy chư đệ tử đem ghe lại và đồng đi đến 
        nơi của Phật ngự. Khi đến nơi ông thấy nước bao quanh 
        chỗ đức Thế Tôn ngự như một tấm vách thành kiên cố, 
        còn đức Thế Tôn thì đi kinh hành trên một con đường khô 
        ráo như không có mưa gió gì hết. Ông lấy làm cảm phục 
        nhưng cũng vẫn đinh ninh rằng: Ta cao quí hơn vì ta đắc 
        được quả cao thượng là A-la-hán. Ông liền hỏi đức Thế 
        Tôn rằng: Ông đại Sa môn ông vẫn còn ở đây sao? 
        Ðức Thế Tôn đáp: Như 
        Lai vẫn ở đây. Rồi Ngài bay lên hư không rồi đáp xuống 
        ghe của các thầy đạo sĩ. Tất cả các vị đạo sĩ có mặt 
        tại đó nghĩ rằng: Thật thầy đại Sa môn nầy có thần 
        thông quảng đại, oai đức rộng vô lượng vô biên. 
        Thật ra từ khi đức 
        Thế Tôn ra khỏi vườn Lộc Giã là ngày mười sáu tháng mười 
        Âm lịch đến ngụ nơi rừng Uruvela hai tháng nghĩa là đến 
        rằm tháng chạp. Ngài dùng thần thông đến Ba ngàn năm 
        trăm lần. Nhưng vị đạo sĩ Uruvelakassapa vẫn ngã mạn 
        cứng đầu không chịu phục thiện vẫn cho rằng: Ta đã đắc 
        quả A-la-hán cao thượng hơn. 
        Ðức Thế Tôn nghĩ rằng: 
        Như Lai phải làm cho tâm vị đạo sĩ nầy kinh khủng mới hòng 
        phục thiện được. Nên Ngài mới dạy vị đạo sĩ ấy rằng: 
        Nầy thầy đạo sĩ, ngươi chưa phải là vị A-la-hán đâu, 
        hơn nữa người cũng không biết phương pháp hành đạo cho 
        đắc được A-la-hán quả nữa... Tại sao ngươi lại chấp 
        rằng: Ngươi là vị A-la-hán? 
        Khi nghe đức Thế Tôn 
        dạy thế, ông đạo sĩ Uruvelakassapa liền quì xuống đảnh 
        lễ và bạch rằng: Bạch đức Ðại Giác, tôi xin xuất gia 
        hành theo giáo pháp của Ngài. 
        - Ngươi là một giáo 
        chủ có đến năm trăm đệ tử, trước hết ngươi nên bảo 
        cho đệ tử ngươi biết trước đã, Như Lai mới cho ngươi 
        xuất gia. 
        Ông đạo sĩ đảnh lễ 
        Ngài xong trở về tư thất triệu tập hết năm trăm vị đệ 
        tử lại bảo cho biết rằng: Ông sẽ xuất gia theo giáo lý 
        của đức Phật. Các đệ tử ai ai cũng bằng lòng xuất gia 
        theo Phật giáo. 
        Các vị đạo sĩ tự cạo 
        đầu bỏ tất cả đồ dùng và y phục của đạo sĩ theo dòng 
        sông rồi đến hầu Phật xin xuất gia, đức Thế Tôn cho xuất 
        gia theo như chư vị Ðại Ðức khác. 
        Nói về đạo sĩ thứ 
        nhì là em của ông ở phía dưới dòng sông, khi thấy đồ dụng 
        cụ của vị đạo sĩ trôi đến. Ông mới nghĩ rằng: Chắc 
        có tai nạn gì đã xảy ra đến anh ta rồi. 
        Ông liền cho một đệ 
        tử đến chỗ anh của ông coi và hỏi vì sao lại thả đồ 
        dụng cụ của đạo sĩ trôi theo dòng sông vậy? Vị đạo 
        sĩ đệ tử về bảo cho ông đạo sĩ em là Nàdìkassapa biết 
        rằng: Ông Uruvelakassapa đã xuất gia theo Phật giáo. Ông liền 
        dẫn ba trăm đệ tử đến hầu Phật và cũng xin xuất gia 
        theo Phật. Ðức Thế Tôn nhận lời cho xuất gia. 
        Nói về người em thứ 
        ba là Gàyàkassapa thấy đồ dùng của hai người anh từ dòng 
        sông trên trôi đến, ông lấy làm lo sợ tai nạn gì đã đến 
        cho hai anh mình, ông liền dẫn hai trăm đệ tử đến chỗ 
        hai anh, khi thấy hai anh đã xuất gia theo Phật, ông cũng xin 
        xuất gia theo. Thế là ba anh em của ba vị đạo sĩ họ 
        Kassapa đều xuất gia, đức Thế Tôn lại được thêm một 
        ngàn lẻ ba vị Tỳ khưu. 
        Sau khi chư vị đạo 
        sĩ xuất gia xong đức Thế Tôn mới thuyết bài pháp gọi 
        là ADITTAPARIYÀYA, bài kinh nầy dạy về lửa. Tất cả 
        quí vị ấy đều đắc A-la-hán quả. 
        Nơi đây tôi xin nhắc 
        lại Túc Sanh Truyện của ba anh em Ngài URUVELAKASSAPA. 
        Hai mươi chín Ðại kiếp 
        trước Ðại kiếp hiện tại nầy có hai vị Chánh đẳng Chánh 
        giác sanh trong kiếp ấy là vị thứ nhứt có Hồng danh là TISSA 
        vị thứ nhì là PUSSA. 
        Nơi đây xin nói về thời 
        kỳ của đức Thế Tôn PUSSA. Sau khi đạt quả Vô thượng 
        Chánh đẳng Chánh giác, Ngài độ đời lần lần về độ 
        Phụ vương Ngài tên là Seyyasena. Ðức vua hay tin đức Phật 
        ngự về gần đến thành cho quan đại thần ra thỉnh vào 
        thành cúng dường trọng thể. Ðức vua có đức tin rất mạnh 
        nên Ngài dành phần cúng dường cho chư Tăng và Phật hằng 
        ngày, dân chúng không có dịp cúng dường cho chư Tăng và đức 
        Phật. Thậm chí đức vua cho làm hai tấm vách thành từ tư 
        thất của Phật chạy đến hoàng cung, Ngài không cho ai được 
        cúng dường, trên đường ngài trải hoa rưới nước thơm, 
        treo phướn cờ v.v.. cho đẹp mắt. 
        Ðức vua Seyyasena có ba 
        vị Thái tử, ngài cho đi trấn nhậm những nơi trọng yếu. 
        Trong khi ấy có loạn ở nơi biên cương, đức vua mới đưa 
        chiếu chỉ gọi cả ba vị Thái tử về và truyền chỉ phải 
        đi dẹp loạn. 
        Ba vị Thái tử vâng lời 
        đem binh đi dẹp loạn. Người anh cả có năm trăm tùy tướng 
        thân yêu, người thứ nhì có ba trăm tùy tướng thân yêu, 
        người thứ ba có hai trăm tùy tướng thân yêu. Ngoài ra mỗi 
        vị còn có nhiều quan quân của vua cha giao phó cho đem đi dẹp 
        loạn. Khi đến nơi ba vị Thái tử dẹp trừ được trong thời 
        gian không lâu. Khi ban sư về đức vua hay tin lấy làm hài 
        lòng, cho ba vị vào chầu và hứa cho hạnh phúc nào mà ba vị 
        mong ước. 
        Ba vị lui ra và cùng 
        nhau hội lại định coi xin những gì, cả ba vị và ngàn 
        quan hầu thân tính mới đồng lòng bảo nhau rằng: Trong thế 
        gian nầy cái gì chúng ta cũng có thể tìm được khi mà ta 
        chưa chết, mà những vật ấy không quí báu, vì chúng ta 
        không thể đem những vật ấy về vị lai được, chỉ có 
        phước báu là quí nhất mà chúng ta không thể tìm ra được, 
        mà khi chết ta còn có thể đem theo về vị lai được. Vậy 
        chúng ta nên xin đức vua cho phép chúng ta cúng dường đến 
        đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng. Tất cả ai ai cũng vui lòng 
        và cho rằng: Ðiều kiện ấy là đúng hơn hết. Nên cùng 
        nhau vào hầu vua cha. 
        Ðức vua dạy: Phụ vương 
        lấy làm hài lòng việc làm của các con, vậy các con muốn 
        được hạnh phúc gì phụ vương cũng vui lòng ban thưởng 
        cho các con. 
        Các vị Thái tử cùng 
        tâu: Tâu phụ vương, chúng con nghĩ kỹ không muốn gì hết, 
        chúng con chỉ yêu cầu phụ vương ban cho chúng con ân huệ 
        là được trai Tăng có đức Phật làm chủ tọa và chư Thánh 
        Tăng. 
        - Ðiều nầy phụ vương 
        không thể làm hài lòng các con được, sao các con không xin 
        chuyện nào ngoài trai Tăng. 
        - Tâu phụ vương, tuổi 
        thọ của con người hiện tại đây đến chín muôn tuổi, mặc 
        dầu phụ vương cho chúng con cúng dường đến đức Phật và 
        chư Tăng vĩnh viễn, cũng xin cho chúng con mỗi đứa bảy hạ 
        thôi. 
        
        - Không được bảy hạ lâu lắm. 
        
        - Vậy thì sáu hạ. 
        - Cũng vẫn còn lâu lắm. 
        Ðức vua và ba vị 
        Thái tử lại bàn nhau sụt xuống còn mỗi vị Hoàng tử có 
        quyền trai Tăng một tháng thôi, nghĩa là cả ba vị được 
        có một hạ là ba tháng. 
        Ba vị Thái tử mới thỉnh 
        Phật và chư Tăng về nơi cai trị của mình làm lễ. Ba 
        ngài làm chỗ Trai đường thật lớn, và cất chùa để đức 
        Thế Tôn và chư Tăng cư ngụ. Ba vị Thái tử mới chọn một 
        người coi về công khố còn một người coi sổ bộ phân 
        phát tiền chợ. Các Ngài nói với hai ông ấy rằng: Chúng 
        tôi phải dẹp hết công chuyện thế gian nầy vào chùa lo 
        trì giới tham thiền nên không rảnh để coi việc trai Tăng, 
        vậy chúng tôi xin giao trách nhiệm này lại hai ông, mong rằng 
        hai ông không phụ lòng phó thác của chúng tôi đã giao phó. 
        Thật là một trách nhiệm nặng nề, vì hai ông phải trông 
        xem tới tám muôn bốn ngàn người coi lo việc nấu ăn, và 
        hai muôn người lo cúng dường cho đức Thế Tôn và chư 
        Tăng. Chúng tôi tin chắc rằng hai ông sẽ hoàn thành công 
        tác nầy cho chúng tôi. 
        Ba vị Thái tử bỏ cả 
        việc thế gian vào chùa lo trì giới tham thiền với một 
        ngàn tùy tướng thân yêu. 
        Nói về con cháu của 
        những người phụ trách về nấu ăn, thấy vật thực như bánh 
        v.v.. Ngọt ngon nên thèm đòi ăn khóc lóc om sòm. Cha mẹ 
        chúng chịu không được bực mình nên cho chúng ăn cũng có, 
        hay thương con nên lén lấy cho chúng ăn cũng có. Vì những 
        người ấy không hiểu rằng: Những của cải của ba vị 
        Thái tử để ra đây tác ý là làm để cúng dường đến 
        chư Thánh nhơn nhứt là đức Phật. Nên khi ăn những của 
        ấy không khác nào ăn của chư Thánh nhơn. Nên sau khi chết 
        phải đọa vào địa ngục, sau sanh làm quỉ đói gọi là Ngạ 
        quỉ phải chịu đói khổ không biết là bao nhiêu triệu tỉ 
        năm. Ðến đại kiếp nầy có năm vị Phật, vị thứ nhất 
        là KUKKUSANDHO, vị thứ nhì là KONÀGAMANO, vị thứ 
        ba là KASSAPO. Bọn Ngạ quỉ ấy đến hầu hỏi đức 
        Phật thứ nhất, Ngài dạy hỏi đức Phật thứ nhì, hỏi 
        đức Phật thứ nhì Ngài dạy hỏi đức Phật thứ ba, hỏi 
        đức Phật thứ ba rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, đến bao 
        giờ chúng tôi mới được thoát khỏi cảnh đói khổ nầy? 
        Ðức Phật KASSAPO 
        (Ca Diếp) dạy rằng: Ðến khi hết giáo pháp của Như Lai hiện 
        tại, lâu không thể đếm năm được, nhưng có thể nói rằng: 
        Khi mặt địa cầu nầy đất mọc cao thêm lên được một 
        do tuần nữa (mười sáu cây số ngàn). Chừng ấy có một 
        đức Chánh đẳng Chánh giác sanh lên, vị ấy có hồng danh 
        là Phật Cồ Ðàm, quyến thuộc của người sẽ là vua Bình 
        Sa Vương, Ngài sẽ dâng cúng vật thực đến đức Phật và 
        chư Thánh Tăng chừng ấy Ngài sẽ hồi hướng phước báu 
        cho các người, các người sẽ được thọ thực và thoát 
        khổ nầy. 
        Mặc dù phải chịu đói 
        thêm một đời của vị Phật lâu không đếm năm được, 
        nhưng những Ngạ quỉ ấy thấy rất vui vì biết rằng: Ta sẽ 
        được ăn, như chúng ta đói mà biết người sắp dọn cơm 
        cho ăn vậy. 
        Ðến đời của đức 
        Th? Tôn chúng ta hiện tại. Vị quan coi sổ chi tiêu trong thời 
        kỳ ấy sanh làm vua tại Vương Xá thành tên là Bình Sa Vương; 
        và mười hai ngàn người lo phụ trách việc dọn vật thực 
        cúng dường kia sanh làm người trong thành Vương Xá mà toàn 
        là người giàu sang và con nhà quí phái thường đến hầu 
        vua. Còn ba vị Thái tử sanh làm ba anh em ruột họ Kassapa xuất 
        gia làm đạo sĩ cùng với một ngàn vị tùy tướng thân 
        yêu. 
        Sau khi độ được một 
        ngàn lẻ ba vị đạo sĩ, đức Thế Tôn dẫn cả thảy vào 
        Vương Xá thành. Ðức Phật định đi độ đức vua Bình Sa 
        Vương. Ðức Phật ngự vào vườn thượng uyển, người giữ 
        vườn lật đật vào cho đức vua hay. Ðức vua được tin 
        ấy lấy làm hoan hỉ lập tức dẫn mười hai ngàn người bạn 
        đến vườn thượng uyển hầu Phật. 
        Khi đến nơi Phật ngự 
        đảnh lễ Phật xong ngồi vào nơi phải lẽ. Mười hai muôn 
        người theo đức vua Bình Sa Vương là hạng quí phái Trưởng 
        giả, Bà la môn thấy đức vua đảnh lễ Phật cũng đảnh lễ. 
        Có người ngồi yên, có người hỏi thăm sức khỏe của Phật 
        theo phép xã giao. Có người lại nghĩ rằng: Ông đại Sa môn 
        nầy là thầy của ông Uruvelakassapa hay ông Uruvelakassapa là 
        thầy của ông đại Sa môn? Vậy ai là thầy, ai là trò? 
        Ðức Thế Tôn biết sự 
        suy nghĩ của các người ấy bằng Tha tâm thông, nên Ngài mới 
        phán hỏi ông Uruvelakassapa rằng: KIMEVA DISVA URUVELASI v.v.. Nầy 
        Uruvelakassapa , ông suy nghĩ thấy gì nên ông bỏ sự cúng dường 
        thần Lửa. Và Như Lai hỏi do nguyên nhân nào mà ông bỏ sự 
        thờ cúng ấy? 
        Ông Uruvelakassapa đáp rằng: 
        RÙPE CA SADDE CA ATTHORASO CA v.v.. Lẽ cố nhiên tiếng gọi là 
        tế ấy có nghĩa là mong ước muốn được Ngũ trần Sắc, 
        Thinh, Hương, Vị, Xúc. Nay đệ tử hiểu rõ rằng: Những 
        điều ấy toàn là phiền não; và cũng đã tìm thấy con đường 
        đến Niết bàn là nơi không còn luân hồi, nên không còn tầm 
        kiếm Ngũ trần, không còn sanh trong Dục giới, không còn ưa 
        mến Ngũ trần, tâm không còn ưa thích tất cả các sự việc 
        bên ngoài. Vì lẽ ấy nên đệ tử bỏ sự tế thần Lửa mà 
        khi xưa kia đệ tử đã hành. 
        Sau khi nói xong câu ấy 
        Ngài liền cúi đầu lạy sát bên chân của đức Thế Tôn 
        để cho những người có mặt tại nơi ấy biết rằng: Ngài 
        là đệ tử của đức Phật. Rồi Ngài lại nói thêm rằng: 
        Ðức Ðại Giác chính Ngài là Tôn sư của đệ tử. Tôi là 
        đệ tử của Ngài. 
        Nói xong Ngài dùng thần 
        thông bay lên hư không cao độ một cây thốt nốt rồi trở 
        xuống quì lạy y chỗ cũ, lại bay lên cao hơn lần trước một 
        cây thốt nốt rồi đáp xuống nơi cũ và cũng cúi lạy lần 
        thứ nhì, làm như thế bảy lần mỗi lần đều cao hơn một 
        cây thốt nốt. (Mỗi cây thốt nốt cao độ mười hai thước). 
        Tất cả những người 
        có mặt nơi ấy đều nghĩ rằng: Ðức Ðại Giác là thầy 
        của ba đạo sĩ họ KASSAPA . 
        Ðại đức 
        Uruvelakassapa bạch Phật: Khi xưa đệ tử cho rằng: Mình là 
        bực A-la-hán, sau nầy nhờ ơn đức Thế Tôn giáo hóa nên mới 
        diệt được tà kiến. 
        - Không phải Như Lai mới 
        độ được người trong kiếp nầy. Lúc quá khứ Như Lai 
        cũng đã độ người khỏi độc vật là tà kiến rồi. 
        Ðức Thế Tôn thuyết 
        pháp Tứ Diệu Ðế. Sau khi dứt thời pháp hai muôn người 
        theo đức Bình Sa Vương đắc Tu-đà-hườn quả, và một 
        muôn người kia được thọ Tam qui làm thiện nam trong Phật 
        giáo. 
        Ðức Bình Sa Vương mới 
        bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn trong khi tôi còn là một 
        vị hoàng tử có phát nguyện năm điều là: 
        1) Muốn được phong 
        vương trị vì thiên hạ thay phụ vương. 
        2) Khi có vị Chánh đẳng 
        Chánh giác trong cõi Diêm Phù nầy, xin hãy ngự đến xứ của 
        trẫm trước nhứt. 
        3) Xin cho tôi được vào 
        hầu Phật. 
        
        4) Xin đức Chánh đẳng Chánh giác thuyết pháp 
        độ tôi. 
        5) Xin cho tôi đắc được Thánh quả. 
        
        Hiện nay năm điều 
        nguyện vọng của trẫm đã đoạt thành. Trẫm rất hài 
        lòng đối với đời sống nầy rồi, trẫm cũng chẳng thấy 
        có gì cao cả hơn Pháp bảo. Kể từ vô thủy đến nay trẫm 
        ví như cái chén úp, hôm nay người đến lật ngửa lên; hoặc 
        cũng ví như một vật gì khác che đậy kín, nay có người 
        đến đem vật che ấy ra; hay ví như người đi lạc đường 
        có được người khác đến chỉ đường cho ra được, hoặc 
        giả như người ở nơi tăm tối lại có người đem đèn đến 
        đốt cho sáng, hay như người mù được vị lương y chữa 
        cho được sáng mắt. Tôi xin qui y Tam bảo, xin đức Thế Tôn 
        nhận biết rõ rằng: Trẫm là người Thiện nam trong Phật 
        giáo kể từ giờ phút nầy. Trẫm xin kính thỉnh đức Thế 
        Tôn và chư Tăng đến thọ thực nơi hoàng cung để trẫm 
        được vun trồng thêm phước thiện. 
        Ý nói của đức Bình 
        Sa Vương là Ngài là người mù, là cái chén úp v.v.. mà đức 
        Thế Tôn là người đến chữa cho và lật chén lên. 
        Ðức Thế Tôn nhận lời 
        bằng cách lặng thinh. Ðức vua biết rõ ý của đức Thế Tôn 
        nên đảnh lễ xong ra về. 
        -ooOoo- 
        Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế  |