Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

Times (Unicode) font

 

Ba Mươi Ngày Thiền Quán 
Kim Chỉ Nam Thiền Vipassana 

Nguyên tác: The Experience of Insight,
Joseph Goldstein, 1976
Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên, 1992


[03]

Buổi sáng thứ mười một 
TRÒ CHƠI ÐỊNH TÂM

Sáng hôm nay chúng ta sẽ chơi một trò chơi. Nó gọi là trò chơi định tâm. Luật chơi như sau: trong vòng một tiếng đồng hồ sắp tới, mỗi hơi thở ra, bạn đếm một. Hơi thở kế bạn đếm hai, cho đến mười. Không được thiếu một hơi thở nào. Mỗi khi bạn thở ra, hay bụng xẹp xuống, đếm tăng lên một số. Nếu giả sử bạn quên đếm vì bạn không nhớ là mình đang đếm tới số mấy - trở lại bắt đầu từ số một. Nếu bạn quên đếm vì đầu óc đang suy nghĩ việc gì khác, không chú ý đến hơi thở - trở lại từ số một. Chỉ chú ý đến việc đếm hơi thở, quên hết mọi chuyện khác. 

Có những chuyện có thể xảy ra. Hơi thở có thể sẽ trở nên bất thường, khi chậm, khi nhanh, khi sâu, khi cạn. Cứ việc ở với hơi thở. Tù một cho tới mười. Có lẽ sau năm phút, bạn sẽ bắt đầu có ý nghĩ: "Cái này thật là ngu, mình bỏ một tiếng đồng hồ ra ngồi đây để đến một cho tới mười làm khỉ gì đây?" Hãy cứ tiếp tục đếm. Và nếu ý nghĩ đó làm bạn quên đếm một hơi thở, trở lại từ đầu. Có thể có nhiều sự khó chịu, đau đớn nổi lên trong thân. Ðừng để ý đến chúng. Chỉ từ một cho đến mười. Ðây là một phương pháp đặc biệt dùng để kiên cố thêm tâm hành định của ta, tập cho tâm ta có thể ở với một đối tượng duy nhất. Nếu bạn cảm thấy trò chơi này hữu ích trong việc tu tập, thỉnh thoảng bạn có thể xen lẫn phương pháp này vào những giờ ngồi thiền của mình.   

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười hai 
Ba Trụ Pháp: BA-LA-MẬT

Thực hành và hiểu được Phật pháp là một điều hiếm có và vô cùng quí báu. Rất ít người trên thế giới có được cơ hội này. Ða số còn bị kẹt trong vòng lẩn quẩn, chạy theo lòng tham và sự si mê, không ý thức được rằng mình có khả năng thoát ra khỏi vòng luân hồi, bánh xe của ái dục và sân hận. Cơ hội tu có được là nhờ vào điều mà tiếng Pali gọi là Parami hay là Ba-la-mật. Ba-la-mật có nghĩa là sự tích lũy năng lực của một tâm trong sạch. Mỗi khi tâm ta không bị ảnh hưởng bởi tham, sân, si nó sẽ có một năng lực làm cho dòng tâm thức trở nên tinh khiết. Trên hành trình tiến hóa, chúng ta cũng chỉ tích lũy được khá nhiều năng lực trong sạch này trong tâm. 

Chữ Parami đôi khi cũng được diễn dịch một cách rộng rãi là phần thưởng, công trạng. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm chúng như là những ngôi sao vàng thưởng cho mỗi việc thiện. Thật ra, Parami có nghĩa là một năng lực trong sạch trong tâm. Khi những yếu tố vô tham, vô sân, vô si được tích lũy đầy đủ, những Parami sẽ trở thành sức mạnh và sanh ra quả hạnh phúc đủ loại, từ những thú vui sắc dục thế gian nhất cho đến sự an lạc giải thoát cao tột nhất. Không có gì trên đời này mà lại xảy ra một cách ngẩu nhiên hay là vô duyên cớ cả. 

Có hai loại Ba-la-mật: sự trong sạch của hành động và sự trong sạch của trí tuệ. Các hành động trong sạch là nhân duyên tạo nên những cảnh vật vui vẻ, hoàn toàn thuận tiện, tình thân thiết và cơ hội để nghe được Phật pháp. Thí dụ, khóa tu này không phải ngẩu nhiên mà xảy ra. Nó có được là nhờ ở sức mạnh của sự trong sạch có trong mỗi người chúng ta. 

Loại Ba la bật thứ hai là sự trong sạch của trí tuệ, khai triển được nhờ sự thực tập chánh tư duy. Ba-la-mật này giúp cho tuệ sáng suốt được tăng trưởng. Cả hai Ba-la-mật, hai năng lực trong sạch vừa kể, phải được phát triển đầy đủ thì ta mới có cơ hội để tu tập Phật pháp, cũng như có được một trí tuệ để lảnh hội. 

Có ba trụ Pháp, ba lãnh vực của hành động giúp vun trồng và củng cố cho các Ba-la-mật. 

1.- Trụ pháp thứ nhất là Bố thí. Bố thí tức là tâm hành vô tham được biểu hiện bằng ra hành động. Vô tham có nghĩa là buông bỏ, không níu kéo, không bám víu. Mỗi khi chúng ta chia xẻ một việc gì, hay cho một vật gì, nó sẽ củng cố thêm cho tâm hành thiện này, và rồi một ngày nó sẽ trở thành một năng lực dũng mạnh trong tâm. Ðức Phật dạy rằng, nếu chúng ta biết được lợi ích của sự bố thí như ngài, ta sẽ không bao giờ để một buổi ăn trôi qua mà không chia xẻ với kẻ khác. 

Quả trái của nhân bố thí là sự sung túc, đầy đủ và sự hòa hợp với những người chung quanh. Chia xẻ những gì mình có, là một lối cư xử vô cùng tốt đẹp, tình thân hữu sẽ được tăng trưởng nhờ đức tính vị tha của ta. Cao thượng hơn nữa, tâm vô tham có thể là một sức mạnh quan trọng cho sự giải thoát của mình. Chúng ta bị trói buộc là vì lòng tham và sự ái dục trong tâm. Thực hành bố thí tức là ta đang học cách tháo gở và buông bỏ những sợi dây xiềng xích này. 

Người ta thường nói có ba hạng người bố thí. Hạng thứ nhất là hạng người bố thí bần cùng. Hạng người này chỉ cho sau khi đã do dự, suy tính rất kỹ, và họ chỉ cho những gì dư thừa, cặn bả của họ. Họ nghĩ: "Mình có nên cho hay không? Có cho nhiều quá không?" Và có lẽ thì cuối cùng họ sẽ cho những gì mà họ cũng không thật sự muốn giữ. 

Hạng thứ hai là hạng người bố thí theo nhân đạo. Hạng người này cho những thứ mà họ cũng có thể cần đến, Họ chia xẻ những gì của họ, mà không tính toán nhiều với một bàn tay rộng mở. 

Hạng cao thượng nhất là hạng bố thí theo vương đạo. Hạng người này sẵn sàng dâng tặng những gì mà họ quý giá nhất. Họ chia xẻ một cách tự nhiên và tức thời, không cần sự cân nhắc. Sự bố thí đã trở thành một thói tự nhiên. Tâm vô tham của họ vững mạnh đến mức họ có thể cho những gì mà họ trân quý nhất, bằng một thái độ thoải mái, nhẹ nhàng. Ðối với một số người, bố thí thật là khó khăn; tâm tham của họ quá mạnh khiến cho họ luyến ái rất nhiều. Ðối với một số khác, chuyện bố thí đến rất dễ dàng. Nhưng vấn đề đó không quan trọng. Dù chúng ta có bắt đầu ở hạng nào đi chăng nữa, điều quan trọng là phải bắt đầu thực hành. Mỗi hành động bố thí sẽ dần dà làm tâm tham dục yếu đi. Chia xẻ rộng rải là một lối sống đẹp trên cuộc đời này. Bằng sự thực hành, tất cả chúng ta đều có thể trở thành những hạng người bố thí theo vương đạo. 

Có hai loại tâm thức hiện diện trong mỗi hành động của ta. Một loại là tâm thức có tính cách thúc đẩy: đây là tâm suy nghĩ, tính toán, đắn đo trước mỗi hành động. Loại thứ hai là tâm thức tự nhiên, không khích động, nó là một thứ trực giác. Khi một hành động nào đã được ý thức kỹ lưỡng rồi, thì không cần thiết để đắn đo nữa. Loại tâm thức này hoạt động trong giây phút hiện tại một cách thật tự nhiên. Bằng sự thực hành, chúng ta sẽ khai triển loại tâm thức, mà trong đó sự bố thí chỉ là một biểu lộ tự nhiên của tâm mình. 

Trong một tiền kiếp của đức Phật, khi còn là một vị Bồ tát, một hôm ngài đi ngang qua một vách núi nọ, thấy một con cọp mẹ với hai con cọp nhỏ mới sanh. Cọp mẹ đang bệnh, không có đủ sữa cho hai đứa con mình bú. Với lòng từ bi, ngài quên đi sinh mạng của mình, gieo mình xuống vực núi, hy sinh thân mình làm thực phẩm nuôi cọp mẹ, để nó có đủ sức khỏe lo cho hai đứa con. Ðây là một bố thí thuộc vào hạng vương đạo. 

Chắc chúng ta chưa đạt đến mức vô ngã như thế, nhưng câu chuyện chỉ cho ta một hướng đi: vun trồng tâm bố thí vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh. Trong nhiều bài pháp, đức Phật luôn khuyến khích ta hãy thực hành bố thí cho đến ngày nào nó trở thành một biểu hiện tự nhiên của sự hiểu biết. Bố thí là một đại Ba-la-mật, nó được coi như là một đức đầu tiên trong sự toàn thiện của đức Phật. Và khi được vun trồng đầy đủ nó sẽ là nhân của những hạnh phúc lớn trong cuộc sống của chúng ta. 

2.- Trụ thứ hai của giáo pháp, hay một lãnh vực hành động trong sạch, là giữ Giới luật. Ðối với bậc cư sĩ thì nó có nghĩa là giữ ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không dùng những chất say nào có thể là mê mờ tâm mình.

a. Mọi chúng sanh đều muốn được sống và được an vui. Ai cũng không muốn mình bị khổ đau. Bảo vệ sự sống bao giờ cũng đem lại cho ta một tâm nhẹ nhàng, thư thái hơn là đi hủy hoại nó. Ðem một con ruồi ở trong nhà thả ra ngoài sân, bao giờ cũng làm cho ta thoải mái hơn là giết nó. Hãy tôn trọng mọi sự sống. 

b. Không trộm cắp có nghĩa là không lấy giữ những gì không phải là của mình. 

c. Không tà dâm có thể hiểu một cách dễ dàng là đừng làm những hành động sắc dục nào có thể gây hại, hay tổn thương cho người khác, hay tạo sự bất an, phiền não cho chính mình.

d. Không vọng ngữ không phải chỉ là không nói dối mà còn có nghĩa là tránh nói những câu chuyện vô ích, nhỏ mọn. Chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ ra để bàn những lời đồn đại vô căn cứ. Chuyện đến trong đầu là ta cứ nói, mà không cần suy nghĩ xem chúng có ích lợi gì không. Kiểm soát được lời nói là một cách để giúp cho tâm mình được an vui. Ðừng nói những lời gây gổ hay chửi mắng. Lời nói của ta phải nhã nhặn, gây những hạt giống hòa ái và thân thiết giữa tất cả mọi người. 

e. Trên con đường giác ngộ, hướng về sự tự do và sáng suốt, ta nên tránh dùng những chất gì có thể làm cho tâm mình bị mê mờ và chậm lụt. Nhiều khi vì sự bất cẩn khi ta say sưa, mà mình lại vô tình phạm những giới cấm khác.

Sự quan trọng và giá trị của những giới cấm có nhiều mức độ khác nhau. Giới cấm là một bảo vệ cho ta, giúp ta tránh khỏi tạo tác những ác nghiệp. Ta sẽ tránh không hành động vì lòng thâm, sân, si, bởi chúng là nhân của các quả khổ đau trong tương lai. Khi chánh niệm vẫn còn đang phát triển, chưa được vững mạnh, sự quyết tâm giữ gìn giới luật sẽ nhắc nhở mỗi khi chúng ta sắp làm một hành động bất thiện. Thí dụ như khi bạn sắp giết một con muỗi, tay bạn dơ lên sửa soạn đập xuống, thì ngay khi ấy giới cấm sát sanh sẽ khởi lên và trở thành một nhân của chánh niệm. 

Những hành động bất thiện sẽ tạo nên một trạng thái mê mờ, hắc ám trong tâm. Còn những hành động có ý thức, tự chủ không làm các hành động bất thiện, tạo cho ta một tâm nhẹ nhàng và sáng suốt. Khi bạn cẩn thận quan sát hoạt động của tâm trong mọi hành động, bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm được rằng, những việc làm do tham, sân, si sẽ khiến cho một tâm nặng nề khởi lên. Giữ giới luật như là một cách sống giúp cho ta được an lạc, tâm ta luôn cởi mở và trong sáng. Ðây là một lối sống thật thư thái và đơn giản. Hiểu được như vầy, thì giới luật không phải là những thiên lệnh, chúng ta giữ vì chúng có ảnh hưởng đến giá trị của cuộc sống. Chúng ta không cần phải thần thánh hóa chúng, vì chúng chỉ là những biểu hiện tự nhiên của một tâm trong sáng. 

Giới luật còn có một ý nghĩa sâu xa hơn thế nữa trên con đường tu tập. Chúng giải thoát tâm ta ra khỏi mọi hối hận và lo âu. Mặc cảm tội lỗi về những chuyện quá khứ không có ích lợi gì mấy, chúng chỉ làm cho ta lo buồn thêm. Bằng cách tạo dựng một căn bản trong sạch cho hành động của mình trong giây phút hiện tại, ta có thể giúp cho tâm mình trở nên thư thái và an tĩnh một cách dễ dàng. Không có định thì sẽ không bao giờ có tuệ được. Vì thế cho nên, nền tảng giới luật là một căn bản vô cùng cần thiết trên con đường tu tập. 

3.- Lãnh vực thứ ba của hành động trong sạch là Thiền. Thiền được chia ra làm hai dòng chánh. Thứ nhất là thiền Chỉ hay định, là khả năng tập trung tâm mình vào một đối tượng duy nhất trong một thời gian, mà không hề lo ra hay lơ đãng. Khi tâm ta tập trung, nhất như, nó sẽ có một khả năng soi thấu rất mãnh liệt. Một tâm ý tán loạn không thể nào nhìn thấy được tự thể của thân và tâm. Sự khai triển trí huệ đòi hỏi tâm ta phải có một mức định tối thiểu nào đó. Nhưng định không thôi cũng chưa đủ. Sức mạnh của tâm phải được sử dụng để phục vụ cho sự hiểu biết, đó là loại thiền thứ hai: thiền quán. Quán có nghĩa là nhìn thấy rõ được chân tướng của mọi hiện tượng, tự tính của vạn pháp. Mọi vật đều vô thường và luôn luôn biến chuyển, sanh diệt trong mỗi giây phút. Tâm thức, đối tượng, các tâm hành, thân: mọi hiện tượng đều nằm trong dòng sông vô thường. Khi tâm ta sáng suốt, nó có thể kinh nghiệm được sự biến chuyển liên tục này trên một bình diện thật vi tế: trong mỗi sát na chúng ta đang chết đi và được sanh ra. Không có gì để nắm giữ, chẳng có gì để níu kéo. Không có một trạng thái nào của tâm hay thân, không có hoàn cảnh nào bên ngoài ta để bám víu, bởi vì tất cả đều thay đổi ngay trong giây phút này. Sự phát triển trí tuệ có nghĩa là kinh nghiệm được dòng vô thường nơi chính ta, để ta bắt đầu sự buông bỏ, không còn mù quáng ôm chấp vào tiến trình thân tâm. 

Kinh nghiệm được vô thường, đưa đến một hiểu biết về sự bất mãn bẩm sinh của tiến trình thân tâm: bất mãn vì nó không có khả năng đem lại cho ta một hạnh phúc nào vĩnh viễn. Nếu chúng ta cho rằng thân của mình là một nguồn gốc của một hạnh phúc, an lạc thường hằng, tức là ta chưa thấy được sự hủy hoại không thể nào tránh khỏi của nó. Khi ta trở nên già, bệnh tật, tàn hoại và chết đi, những ai quyến luyến thân này sẽ rất khổ đau. Bản chất của bất cứ một vật nào sanh lên là sẽ tàn hoại đi. Mọi yếu tố của thân, mọi yếu tố của tâm đều đang sanh lên và diệt đi trong ngay giây phút này. 

Ðặc tánh thứ ba của hiện hữu, dưới sự quán sát của trí tuệ và chánh niệm, là trong dòng hiện tượng này không có một cái gì là "Tôi", "Ngã" hay là "Của tôi" hết. Tất cả chỉ là một dòng hiện tượng vô ngã, trống rỗng. Không có một thực thể nào đứng phía sau những hiện tượng ấy để kinh nghiệm. Cá nhân, chủ thể, tự nó cũng chỉ là một phần của tiến trình. Nếu ta biệt vun trồng trí tuệ bằng chánh niệm, ba đặc tính này của hiện hữu sẽ tự nhiên hiển lộ. 

Giả sử bạn có một hồ nước, trong hồ mọc đầy cỏ dại. Giữ giới luật cũng giống như cúi xuống, lấy tay vẹt cỏ ra hai bên để lấy nước uống. Cỏ dại vẫn còn đó, và khi bạn lấy tay ra, chúng sẽ trở lại phủ đầy mặt hồ. Những khi ta giữ giới luật tâm ta trở nên trong sạch, nhưng vừa khi chúng ta quên lãng, những dơ bẩn, ô uế sẽ trở lại với ta. Nếu bạn xây một hàng rào trong bờ hồ, ngăn chận những cỏ dại rong rêu ra chung quanh, nước bên trong sẽ trong sạch và có thể dùng được, vì sự có mặt của hàng rào. Nhưng những cỏ dại vẫn còn ở đó chung quanh và nếu ta dời hàng rào đi nơi khác, chúng lại sẽ lan tràn như xưa. Nó cũng giống như định lực trong tâm. Ðịnh có khả năng đè nén những tâm hành bất thiện xuống. Còn trí tuệ cũng giống như khi ta bước xuống hồ và nhổ đi những cỏ dại, từng cái một, cho đến khi cả hồ được trong sạch. Khi ta nhổ như thế thì chúng sẽ không còn mọc trở lại nữa. Trí tuệ là một phương pháp thanh lọc: khi những sự bất thiện trong tâm được quán chiếu cặn kẻ và cuối cùng bị bứng nhổ, chúng sẽ không còn khởi lên được nữa. 

Trí tuệ là điểm cao tột nhất trên con đường tu tập. Nó được bắt đầu bằng sự thực hành bố thí, giữ giới và phát triển định lực. Từ căn bản trong sạch ấy, phát sanh một trí tuệ có khả năng soi thấu được thực chất của thân và tâm. Bằng cách giữ chánh niệm hoàn toàn trong giây phút hiện tại, những gì huân tập trong tâm ta từ bấy lâu nay sẽ bắt đầu hiển lộ. Mọi tư tưởng, mọi tà ý, tham dục, luyến ái, tình yêu, nghị lực, mọi niềm vui, tất cả những gì trong phạm vi tâm sẽ được mang lên bình diện nhận thức. Và bằng sự thực hành chánh niệm, không dính mắc, không ghét bỏ, không nhận một đối tượng nào làm mình, tâm ta sẽ trở nên thư thái và tự tại. 

Ðức Phật có nói về sức mạnh của các Ba-la-mật này. Ngài nói rằng sức mạnh của bố thí sẽ được gia tăng bằng sự trong sạch của người nhận. Và thực hành từ bi quán với một định tâm còn hùng mạnh hơn là cúng dường Phật và toàn thể tăng đoàn của ngài gấp bội lần. Nhưng dũng mãnh hơn vun trồng những tư tưởng từ bi ấy, là thấy được sự vô thường trong mọi hiện tượng, vì thấy được vô thường tức là bắt đầu của sự giải thoát. 

Hỏi: Có một lúc tôi cảm thấy mình cho nhiều quá; tôi cảm thấy như mình bị lợi dụng. Ông có thể nói thêm về bản chất của bố thí khi nó đưa đến việc mình cảm thấy bị lạm dụng không? 

Ðáp: Chúng ta đều có những trình độ khác nhau. Chúng ta không phải đang ở trình độ của một vị Bồ tát dám hy sinh thân mình để nuôi cọp mẹ và hai đứa con của nó. Có thể đôi khi ta có những thúc dục để làm những chuyện như vậy, để rồi theo sau là những hối hận. Ðó không phải là một phương pháp thiện xảo. Chúng ta phải ý thức được trong giờ phút này mình đang ở đâu và vun trồng sự bố thí sao cho thích hợp với mình. Nó sẽ phát triển. Khi chúng ta thực hành bố thí, thì dần dần nó sẽ trở nên tự nhiên. Và khi ta đạt được một sự quân bình, nó sẽ trở thành hòa hợp, không có một mảy may hối tiếc nào theo sau cả. 

Hỏi: Những giới luật có thể là sự chỉ đạo ở một trình độ nào đó, nhưng chấp cứng vào nó có nguy hiểm không? Giới cũng có thể là một trở ngại vì dù sao thì nó cũng chỉ là những ý niệm? Có những hành động có thể vì lòng từ bi nhưng lại phạm giới, như là nói dối để cứu một người nào. Khi giới luật và trực giác xung khắc với nhau thì sao? 

Ðáp: Tất cả các hành động thiện phải được hiểu theo những tâm hành mà chúng đang vun trồng, chứ không phải tự ở những hành động đó. Nếu chúng ta hành động vì lòng từ bi thì đó là hành vi thiện. Nhưng thường thì chúng ta chưa tới trình độ tỉnh thức đủ để mình có thể nhận thấy mọi yếu tố liên quan đến hành động của mình. Chừng nào ta có thể ý thức được mọi động lực khiến ta hành động, để nhận định thiện ác, các giới luật vẫn được coi như là những quy tắc rất hữu ích. Một vị sư đến than phiền với đức Phật rằng ông không thể nào nhớ hết hơn hai trăm giới luật dành cho các Tăng, chứ đừng nói gì đến việc giữ cho đừng phạm. Ðức Phật nói: "Vậy ông có thể nhớ được một giới luật thôi không?" Vị Tăng trả lời rằng ông có thể nhớ được. Ðức Phật nói tiếp: "Giữ chánh niệm!" Mọi điều khác đều đến từ chỗ chánh niệm. Nếu bạn có thể giữ chánh niệm cho tinh chuyên, tự nhiên mọi hành động sẽ trở thành chân chánh. 

Hỏi: Tôi thấy có một sự xung đột giữa việc theo con đường bố thí vương đạo và có một cuộc sống được bảo đảm. 

Ðáp: Sự vun trồng bố thí theo vương đạo không cần thiết có nghĩa là ta ra đường cho hết tài sản của mình cho kẻ khác. Nó chỉ có nghĩa là ta bố thí với một tâm đại lượng, thích hợp với hoàn cảnh. Chúng ta cũng có trách nhiệm đối với chính mình, phải biết duy trì một mức sống vừa đủ để mình có thể tu tâm và vun trống những yếu tố giác ngộ. Mức độ của sự bố thí sẽ tùy thuộc vào rất nhiều trình độ tiến hóa của tâm mình. Chúng ta không nên có một ý niệm cứng ngắc về sự bố thí rồi tự cưỡng ép, cố gắng sống theo như vậy. Chỉ cần giản dị, trong giây phút hiện tại, chụp lấy những cơ hội để vun trồng tâm hành vô thăm. Nó không phức tạp gì đâu, hãy để nó tự nhiên hiển lộ. Ðến khi nào bạn cảm thấy sẵn sàng gieo mình xuống vực thẳm để nuôi những con cọp, bạn sẽ làm chuyện ấy. 

Hỏi: Tôi cảm thấy hơi bối rối về việc nói láo. Khi ta không lên tiếng nói những gì mà ta nghĩ rằng nó chân thật và thích hợp với hoàn cảnh, như vậy có gọi là nói láo không? 

Ðáp: Có những việc có thể là sự thật, một ý niệm chân chánh, nhưng nó không có ích lợi gì cho người khác, bởi vì người ấy không ở vào một địa vị mà họ có thể nghe và hiểu được. Chúng ta chỉ nên nói sự thật khi nào nó có ích lợi. Sống với sự thinh lặng tâm ý rất là đẹp và an lạc. Nhưng điều ấy đòi hỏi nhiều chánh niệm, vì chúng ta rất dễ bị lôi cuốn để nói. Lời nói thoát ra ngay cả trước khi mình ý thức được rằng mình có điều gì muốn nói. Chúng rất là máy móc. Nhưng khi chánh niệm được giũa mài sắc bén, chúng ta sẽ bắt đầu có ý thức trước khi mình nói - tác ý muốn nói khởi lên và ta lập tức có chánh niệm về nó. Và khi ấy ta có thể nhận xét rằng chúng có thân thật và có ích lợi gì không.

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười ba 
THÁNH JOHN OF THE CROSS, 
THÁNH FRANCIS DE SALES

Một số nhà thần học Công giáo có viết những áng văn rất hay, tương tự với sự thực hành của ta ở đây. Từ Thánh John of the Cross: 

Không phải vì ý muốn mà ta đã không viết cho các ông, thật sự thì ta luôn chúc lành cho các ông; nhưng bởi vì ta thấy những gì lợi ích cho các ông ta đã nói hết rồi, và sự cần thiết (nếu thật sự có một điều gì cần thiết) không phải là sự giảng thuyết hay viết thêm - bởi ta nghĩ đã đủ lắm rồi - mà phải là thinh lặng và thực hành. Trong khi sự giảng thuyết làm cho các ông bối rối, lo ra, thì im lặng và hành động sẽ tập trung lại tâm ý ta và nâng cao linh hồn. Một khi các ông đã hiểu được những gì ta muốn dạy cho các ông là tốt, thì thôi đừng bàn luận hay tìm nghe giảng thêm làm gì nữa; hãy lo kiên trì mà thực hành những gì các ông đã học được, trong thinh lặng và chánh niệm. 

Những việc chúng ta làm ở đây không phải là dễ, sự tu tập và thanh lọc tâm. Chuyện ấy đời hỏi một sự kiên nhẫn và nghị lực rất lớn. Nó không thể nào tự một mình xảy ra được. Nhưng bằng một sự bền gan, vững chí mọi chuyện đều có thể đạt được. 

Thánh Francis de Sales có viết: 

Mỗi khi tâm ông bị lo ra hay phân tán, hãy nhẹ nhàng kéo nó trở lại với sự suy niệm... Và cho dù nếu ông có bỏ ra cả một giờ, chỉ để ngồi để cố đem tâm ý của mình trở lại, để rồi nó lại đi mất ngay sau đó, thì một giờ ấy cũng đã được sử dụng một cách rất hữu ích. 

Ðừng để bị chán nãn vì sự phân tâm hay vì những mơ mộng viễn vông của mình. Mỗi khi ý thức được tâm mình phóng đi một nơi khác, nhẹ nhàng đem nó trở về với hơi thở hoặc là cảm giác của ta. Không cần biết nó xảy ra bao nhiêu lần, nếu cứ mỗi lần tâm ta phóng đi, ta lại đem nó trở về, thì giờ ngồi thiền ấy sẽ rất có ích lợi. Hãy từ tốn với chính mình. Hãy kiên trì. Mặc dù có thể ta không nhận thấy rõ ràng, nhưng đang có một sự chuyển hóa lớn lao xảy ra nơi ta. Ðây cũng giống như trái cây đang chín trên cành. Ánh sáng mặt trờichiếu soi, quả trái chín dần, mặc dù ngày này sang ngày khác ta không nhận thức được sự biến đổi ấy. Tương tự như vậy, sự biến đổi và chín mùi trong tâm ta cũng đang tiến triển. Và như Thánh John of the Cross nói, chính trong sự thinh lặng và thực hành mà sự chuyển hóa này được hoàn tất. 

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười bốn 
TỨ DIỆU ÐẾ

Trên thế giới này đầy dẫy những khổ đau. Mỗi ngày có hằng triệu người không đủ thực phẩm để nuôi thân, phải chịu đựng những cơn đói. Có hằng triệu người không đủ quần áo, nhà cửa che thân, sống dưới những cơn mưa lạnh hoặc những ngày nắng cháy da. Lại có hằng triệu người phải gánh chịu những cơn đau gây ra do bệnh tật, mặc dù đã có phương pháp trị liệu, nhưng họ vẫn không có được một phương tiện chữa trị nào. Sự khổ đau trong việc sanh sản. Cái đau của người mẹ. Và hơn nữa, cái đau của người con khi được sanh ra, bị đẩy qua người mẹ, ra thế giới bên ngoài đầy những yếu tố va chạm, xây xát. Tấm thân nhuốm bệnh, già yếu và suy nhược, sự khổ đau của cái chết. 

Có biết bao nhiêu người trên thế giới này đang sống bất lực trong tay kẻ thù, trong tay những người muốn giết hại họ. Trong nhiều quốc gia trên thế giới ngay giờ phút này có những tù nhân đang bị tra tấn, đánh đập. Rồi còn sự tàn bạo của chiến tranh. Những con người có tình cảm giống như chúng ta, bất lực khi đối mặt khổ đau, họ không thể làm gì khác hơn được. Có biết bao nhiêu lần ta phải đối diện với những hoàn cảnh giống như thế, và trong tương lai sẽ còn biết bao nhiêu lần nữa. Chỉ cần một chuyển động nhẹ của bánh xe nghiệp quả là ta có thể trở thành những con người đó. Mang tấm thân này là ta mang trên người bao cơ hội để khổ đau. Ðã bao lần ta kinh nghiệm chúng, và sẽ còn bao nhiêu lần nữa trong tương lai? 

Những yếu tố vật chất trong thân ta được gọi là Tứ đại. Chúng được gọi là "đại", có nghĩa là lớn, vì năng lực tàn hoại của chúng. Bốn yếu tố cấu tạo nên thân ta cũng chính là bốn yếu tố cấu tạo nên quả đất này, mặt trời, các hành tinh, và những vì tinh tú trong vũ trụ. Chính bốn yếu tố này mà ta đang kinh nghiệm trong thân, chúng hoạt động theo một định luật tự nhiên, cũng là nguyên nhân tạo dựng và tan rã của những thái dương hệ hoặc các dãy ngân hà. Năng lượng của chúng rất là vĩ đại. Trong một thời gian ngắn ngủi, tứ đại hòa hợp với nhau. Sự hòa hợp tạm bợ này làm ta quên đi bản chất tàn hoại của chúng, cho đến khi chúng biến đổi theo định luật tự nhiên, trở nên mất thăng bằng và khiến sự tàn hoại, tan rã của thân thể, đau khổ và chết. Chúng ta như những đứa trẻ con vui chơi trong một căn nhà đang bị cháy. Những đứa trẻ con đang mãi mê chơi đùa, ham mê nhũng thú vui tạm bợ, hoàn toàn quên đi chung quanh mình lửa đang bừng bừng thiêu đốt. Nhưng trời đất vẫn còn lòng nhân từ, đã sai sứ giả đến báo trước những nguy hiểm, những khổ đau đang hiện diện trong mọi khía cạnh. 

- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những ông lão, bà lão 80, 90 hay 100 tuổi, yếu đuối, cong vòng như mái nhà, cúi xuống vịn người trên chiếc gậy, chập chững bước, suy nhược, tuổi trẻ đã mất lâu rồi, với răng rụng, tóc bạc thưa. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày, mình cũng sẽ bị tàn tạ như vậy? Ngay chính cả ngươi cũng sẽ không thể nào trốn tránh khỏi? 

- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn, đau khổ vì các chứng bệnh nan y, nằm trên những xú uế của chính mình, phải nhờ người này đỡ ngồi dậy, nhờ người kia đặt xuống giường. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày mình cũng sẽ bị bệnh hoạn như vậy? Ngay cả chính ngươi cũng không thể nào thoát khỏi? 

- Ngươi có bao giờ thấy trên cõi đời này, thây ma của một người, một, hai hoặc ba ngày sau khi chết, xình lên, màu bầm tím, hôi thúi. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, một ngày nào đó mình cũng sẽ bị cái chết tìm đến. Ngay cả chính ngươi cũng không thể nào thoát khỏi? 

Chúng ta cũng thế, đều bị chi phối bởi những sự ấy. Cái chết không chừa bất cứ một ai. Nó là sự chấm dứt của tất cả. Không ai có thể trốn tránh sự thật này. 

Rồi còn những nỗi đau của tâm. Buồn khổ, thất vọng, lo âu, hồi họp, tức giận, căm hờn, sợ hãi, ái dục, chán nản. Chúng ta còn phải chịu vướng trong cái bẫy xập của sanh tử luân hồi, lôi kéo bởi tham dục và si mê trong bao lâu nữa? Nỗi khổ của sự bất tận này, mỗi sáng thức dậy với những màu sắc và mùi vị, âm thanh và cảm giác, ý nghĩ lập đi lập lại vô tận. Chúng ta sống một ngày, qua một giấc ngũ, rồi lại thức dậy với cũng bấy nhiêu màu sắc, mùi vị, âm thanh, cảm giác và ý nghĩ, trở đi, trở lại không dứt. 

Cũng giống như những đứa trẻ con mê chơi trong căn nhà lửa, chúng ta không chịu mở mắt nhìn những nỗi đau trong cuộc sống của mình. Chúng ta đi nhốt những người già, người bệnh vào nhà thương, viện dưỡng lão để ta khỏi phải chứng kiến những nỗi sầu khổ của họ. Chúng ta đuổi những kẻ ăn mày ra khỏi đường phố của mình, để ta khỏi thấy những nhục nhằn của nghèo khổ. Chúng ta chưng diện cho những thây ma để che dấu đi cái chết. 

Chân lý đầu tiên của đức Phật là sự khổ. Dù chúng ta có chối bỏ đến đâu đi nữa, thân này rồi một ngày sẽ già và bệnh hoạn. Nó sẽ chết, dù ta có tìm quên lãng trong những thú vui bao nhiêu đi chăng nữa, thì sự có mặt của giận hờn, thù ghét, lo âu, bối rối và căng thẳng vẫn còn tồn tại. Chúng ta bị thiêu đốt trong ngọn lửa tham sân. Chân lý đầu tiên, sự thật của đau khổ. 

Ðức Phật không dừng lại ở đó. Sau khi chỉ cho ta thấy sự thật khổ đau, ngài giải thích cho ta nghe về nguyên nhân của chúng. Cái gì đã trói cột chúng ta vào vòng bánh xe khổ lụy này? Ðức Phật thấy rằng sự trói buộc ấy nằm ngay nơi trong tâm của mỗi người chúng ta, chúng ta bị trói buộc vì lòng ái dục. Chúng ta lăn theo bánh xe khổ đau vì ta đeo theo nó, và chúng ta bám đeo theo nó cũng chỉ vì vô minh của mình. 

Có bốn sự si mê lớn là nguyên nhân chánh hằng trói cột chúng ta vào vòng bánh xe khổ đau. Mối đam mê đầu tiên là sắc dục. Sắc dục khiến ta lúc nào cũng đi tìm những âm thanh và hình ảnh dễ chịu, những mùi vị ưa thích, những cảm giác êm ái của thân thể. Chúng ta cứ mãi mê đi tìm những thú vui tạm bợ, mỏng manh. Ta đeo đuổi chúng như là như chúng có thể giải quyết những khó khăn của mình, như là chúng có thể đem đến sự chấm dứt khổ đau. Chúng ta sống đời mình trong sự mong đợi hai tuần nghĩ hè sắp tới, một liên hệ tình cảm kế tiếp, một cái gì đó để chiếm hữu: lúc nào cũng chờ đợi ở một hạnh phúc nào đó trong tương lai, ngoài tầm tay với. 

Có một câu chuyện về Mulla Nazrudin, ông là một tu sĩ nổi danh của Hồi giáo. Một hôm ông đi xuống chợ và thấy một thúng ớt cay bán hạ giá. Ông mua hết cả thúng, đem về nhà, và bắt đầu ngồi ăn. Những đệ tử của ông nhìn thấy ông mặt mày đỏ ké, nước mắt tuôn chảy, miệng lưỡi bị nóng phỏng, bèn kêu lên: 

- Thầy ơi, tại sao khổ như thế mà thầy lại cứ ngồi ăn hoài vậy? 

Nazrudin lấy tay bốc thêm một trái ớt bỏ vào miệng rồi đáp: 

- Ta hy vọng rồi sẽ có một trái ớt ngọt! 

Mối si mê thứ hai là sự cố chấp vào ý kiến và quan điểm của mình. Chúng ta có rất nhiều ý kiến về những sự việc chung quanh, biết bao nhiêu là thành kiến. Cố chấp vào quan điểm của mình là một trở ngại rất to tát. Nó ngăn chận không cho ta nhìn thấy chân tướng của sự vật, nó như là một lăng kính màu làm sai đi sự thật qua những thành kiến cá nhân của mình. Một thiền sư Thái Lan khi được hỏi, những học trò của ông bị trở ngại nào lớn nhất, ông đáp: "Ý kiến, quan điểm, ý niệm về mọi việc. Về chính họ, về phương pháp tu tập, về giáo lý của đức Phật. Ðầu óc họ lúc nào cũng đầy dẫy những ý kiến. Họ cho mình là khôn khéo nên không thèm lắng nghe ai nữa hết. Cũng giống như một tách nước vậy. Nếu tách ấy chứa đầy nước dơ, bẩn đục thì cũng chỉ là vô dụng. Chỉ khi nào đổ đi nước cũ thì ta mới có thể sử dụng tách ấy lại được. Các ông phải bỏ qua một bên những ý kiến của mình chừng đó mới có thể thấy được". 

Vị tổ thiền tông thứ ba ở Trung Hoa là Tăng Xáng, có viết: "Ðừng đi tìm kiếm chân lý. Hãy thôi nâng niu những ý kiến của mình". Nếu chúng ta dẹp được mối si mê này, cà giáo pháp sẽ phô bày. Mọi hiện hữu sẽ có mặt. Chúng ta cần phải buông bỏ những thành kiến có sẵn của mình về bản chất của sự vật, và những mơ ước của mình về chúng. Buông bỏ mọi cố chấp vào những ý kiến đáng yêu của mình. Ðây chính là mối ràng buộc lớn thứ hai, đã giữ chúng ta trong vòng bánh xe luân hồi, bánh xe của khổ đau. 

Sự si mê thứ ba là cố chấp vào các lễ nghi và hình thức: cho rằng chỉ cần thắp một nén nhang hay đốt một ngọn nến đặt trên bàn thờ là mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ. Những phưong pháp tu tập, các nghi lễ đều được thức hành với hy vọng rằng đốt một nén hương, một ngọn nến, đọc một bài kinh, một câu thần chú sẽ có khả năng làm chấm dứt được khổ đau này. Ngay chính việc cố chấp vào những pháp tu, cố gắng trở nên đạo đức, hay bất cứ một hình thức tâm linh duy vật nào cũng đều là những sợi dây xích trói ta. 

Si mê thứ tư và cũng rất kín đáo và sâu xa là sự chấp ngã, chấp có một cái ta riêng biệt cùng những sở hữu của nó. Tin tưởng rằng có một tự thể thường hằng trong thân tâm để kinh nghiệm những gì đang xảy ra, Cũng bởi vì tin tưởng này, mà chúng ta đã lao đầu vào những hành động bất thiện, đủ mọi tham, sân, si chỉ để cố thỏa mãn cái ta này, một cái ta mà không hề có thật. Cái chấp ngã này rất là sâu đậm, mọi hành động của ta đều xoay vần chung quanh nó, càng lúc càng buộc chặt ta vào một khối khổ đau. 

Chân lý thứ hai của đức Phật là nguyên nhân của khổ đau: lòng ái dục. Ðam mê sắc dục, cố chấp vào quan điểm và ý kiến của mình, mê tín tin rằng những lễ nghi, hình thức bên ngoài có khả năng diệt được khổ đau, và nhất là cố chấp vào một cái tôi thường hằng, bất biến. Không một ai bắt ta phải cố chấp. Không có một quyền lực nào bên ngoài chúng ta giữ ta trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có mỗi sự cố chấp, luyến ái trong tâm mình là có thể làm được chuyện đó mà thôi. 

Ở Á Châu người ta có một cái bẫy dùng để bắt khỉ, rất là đặc biệt. Một trái dừa được khoét rỗng ở bên trong, cột vào một sợi dây hay là cắm vào một cái cây cột đóng trên mặt đất. Phía dưới trái dừa, người ta đục một lỗ nhỏ và bỏ vào phía trong một thứ đồ ăn có chất ngọt. Cái lỗ ấy được khoét rộng vừa đủ để cho con khỉ có thể đút tay vào nếu bàn tay mó mở, nhưng nếu nó nắm tay lại, bàn tay sẽ không thể nào qua lọt. Con khỉ đánh hơi được mùi ngọt sẽ tìm tới, nó sẽ đút tay vào để bốc thức ăn rồi không lấy tay ra được. Bàn tay nắm chặt sẽ không thoát qua khỏi lỗ hổng ấy. Khi người thợ săn đến, con khỉ sẽ trở nên quýnh quáng nhưng không cách nào chạy đi đâu được. Nhưng không có ai bắt giữ nó ở đó, ngoại trừ lòng tham dục của chính nó. Muốn thoát đi nó chỉ cần giản dị mở rộng bàn tay ra. Nhưng vì lòng tham dục quá mạnh, nên hiếm khi có một con khỉ nào có thể thoát đi được. Chính vì lòng tham dục và quyến luyến trong tâm đã giữ chúng ta trong bẫy sanh tử này. Chúng ta chỉ cần mở bàn tay mình ra, buông bỏ những cố chấp, những tham muốn là có thể bước đi trong tự do. 

Chân lý thứ ba của đức Phật là sự chấm dứt của khổ đau. Niết bàn là một trạng thái thoát ra ngoài tiến trình thân tâm, không còn bị chi phối, ảnh hưởng bởi bản chất khổ đau của chúng. Tự tại, an lạc, thanh tịnh, tươi mát, buông xả. Như là bỏ xuống một gánh nặng trên vai. 

Niết bàn có hai loại: Loại thứ nhất là Niết bàn nhất thời, tức là sự tự tại của một tâm thức không bị chi phối bởi tham, sân, si trong từng giây, từng phút. Mỗi giây phút không bị ảnh hưởng bởi những sự bất thiện là một giây phút của tươi mát và an lạc. Còn loại Niết bàn thứ nhì là một trạng thái thoát ra ngoài mọi tiến trình, sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, dập tắt hẳn đi ngọn lửa đang thiêu đốt. 

Thí dụ như có những người đang sống trên một vùng sa mạc khô cằn. Nước rất hiếm, thực phẩm không có đủ, và không có gì để bảo vệ họ khỏi ánh nắng thiêu đốt của mặt trời. Nhưng những người ấy đã quen sống trong hoàn cảnh ấy từ thuở nhỏ, cha ông của họ cũng đều như vậy, nên họ cho đó là tự nhiên và lấy đó làm hài lòng. Cho đến một ngày kia, có một người trong bọn họ đi đến một nơi có thời tiết mát mẻ, thực phẩm đầy đủ, đến chứng ấy anh ta mới ý thức đến những điều kiện và hoàn cảnh bất lợi, cực khổ mà anh đã từng phải chịu đựng. So với sự an lạc, tươi mát và thinh lặng của Niết bàn thì những tiến trình dài vô tận của thân tâm, sự sanh diệt không ngừng là một gánh nặng to lớn, một khổ đau vĩ đại. Chân lý thứ ba là sự an lạc mà đức Phật đã nói rằng trên đời này không còn gì là hạnh phúc hơn. 

Ðức Phật cũng đã chỉ cho chúng ta con đường để đi đến sự an lạc này. Ðây không phải là một giáo lý bí mật chỉ để dành cho một số người. Chân lý thứ tư là Bát chánh đạo, một phương pháp để cởi bỏ gánh nặng của mình. 

Ðây không phải là con đường quá khích. Nó không đòi hỏi ta phải hành hạ thân tâm mình. Nó không bắt ta phải đi tìm đến một hang động hẻo lánh nào. Nó không phải là con đường khổ hạnh, cũng không phải là con đường của sự xoa đọa trong sắc dục. Ðây chính là con đường trung đạo. Còn đường của sự tỉnh thức. Có chánh niệm về những gì đang xảy ra chung quanh mình. Có một ý thức rõ ràng, không quyến luyến, không ghét bỏ. Không nhận lầm những hiện tượng là Tôi, là Ngã. Giải thoát tâm mình ra khỏi những điều bất thiện trong mỗi giây phút. 

Sự thật về khổ đau phải được ý thức. Sự thật về nguyên nhân của khổ đau phải được hiểu rõ. Chân lý về sự chấm dứt khổ đau phải được kinh nghiệm. Và con đường để chấm dứt khổ đau ấy phải được bước đi bởi mỗi người trong chúng ta. Sự giác ngộ của đức Phật giải quyết những vấn đề cho ngài, chứ không giải quyết những khổ đau của ta được, ngoại trừ chỉ cho ta thấy một con đường để đi tới. Không có một công thức huyền bí nào có thể đem ta ra khỏi những khổ đau này. Mỗi người chúng ta phải tự thanh lọc tâm mình, bởi vì chỉ có những ái dục trong tâm mới có khả năng trói buộc được ta mà thôi. 

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười lăm 
SỰ CƯƠNG QUYẾT NỬA VỜI

Trong khi ngồi thiền, giữ cho thân được an tịnh có một ảnh hưởng rất lớn đến sự an tịnh của tâm. Một phương cách để gia tăng định lực là trước mỗi giờ ngồi thiền, bạn nên nhất quyết rằng mình sẽ không thay đổi thế ngồi trong suốt một giờ đó. Những lần đầu có thể rất là khó khăn, nhưng nếu bạn có một nghị lực vững mạnh, bạn có thể ngồi và quan sát bất cứ chuyện gì xay ra. Cho dù bạn có cảm thấy tâm mình trở nên bất an, bồn chồn, căng thẳng hay là đang đương đầu với cái đau, điều trọng yếu là khi đã quyết định một cái gì rồi bạn hãy giữ nó cho đến cùng. Ðịnh lực và sự tinh tấn của bạn sẽ được tăng trưởng mãnh liệt và sau vài lần ngồi như vậy, bạn sẽ cảm thấy việc ngồi yên trở nên dễ dàng hơn. 

Hãy giữ cho tâm bạn luôn ở trong một trạng thái bất bạo động, khi quán chiếu bất cứ một đối tượng nào. Ðược như vậy thì sẽ không có gì lại là một chướng ngại hay khó khăn cả. Mọi đối tượng của thân hay tâm, nội hay ngoại, đều đi ngang qua trong một không gian chánh niệm. Ðừng vận dụng tâm để chạy theo hay là trốn tránh bất cứ một đối tượng nào: một sự bất động của tâm ý. Khi ấy tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng và quân bình, nhờ đó ta có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, trong mỗi giây phút, sự sanh diệt của từng hơi thở, từng cảm thọ, tư tưởng, cảm giác, âm thanh, mùi vị và hình ảnh. 

Hãy ý thức được dòng vô thường. Không có gì để cho ta nắm bắt, không có gì để quyến luyến cả. Trong đoạn cuối của Mount Analogue, có ví dụ cho ta thấy sức mạnh của sự vô thường và một thái độ thích hợp cho ta: 

Ðừng bao giờ dừng lại trên một triền núi cao. Cho dù anh có nghĩ rằng bàn chân mình đang đứng vững vàng, vì khi anh dừng lại để thở và nhìn trời cao, thì đất dưới chân cũng đang bắt đầu lún xuống vì sức nặng của anh. Những viên đá sỏi sẽ rơi ra từ từ và rồi đột nhiên tất cả sẽ sụp đổ dưới chân anh và phóng anh đi như một chiếc tàu hạ thủy. Ngọn núi lúc nào cũng chờ đợi một cơ hội để hất ngả anh. 

Không có thì giờ để cho ta ngừng nghỉ, cho dù trong một chốc, để ta nắm bắt. Mỗi khi ta cố gắng níu kéo một cái gì, ta sẽ bị lôi cuốn, kéo trôi lăn theo những ý nghĩ, ý niệm và sự tưởng tượng về nó. 

Khóa tu này cũng đã kéo dài gần phân nửa rồi. Thường thì vào khoảng nửa chương trình, không cần biết khóa tu học dài bao lâu, tâm ta thường đâm ra chán nản. Nó trở nên hơi lười biếng, dễ duôi và bồn chồn một chút. Ta tự nghĩ rằng, mình đã cố gắng tinh tấn từ lúc mới bắt đầu đến giờ, lúc này mình có thể nghỉ ngơi một chút được. 

Hãy có chánh niệm về việc này. Ðây là lúc để ta gia tăng nghị lực, chứ không phải là lúc để giải đãi. Hãy nghĩ lại công lao tu tập của bạn trong hai tuần vừa qua. Nhớ lại giai đoạn mới bắt đầu, ngồi yên trong một tiếng đồng hồ nó khó khăn đến đâu. Bây giờ thì bạn đã khai triển được một sức mạnh trong tâm, một năng lực của định và quán. Giai đoạn đầu của khóa tu là để xây nền móng, để vượt qua những khó khăn thô lậu, những loại trở ngại không cho bạn ngồi yên trong một tiếng đồng hồ. Những khó khăn đó có lẽ cũng đã được ta vượt qua hết một phần nào rồi. Tâm ta đã tĩnh lặng xuống. Nó bắt đầu thẳm thấu, bắt đầu quán chiếu và thấy được tiến trình làm việc của thân tâm. Trí tuệ đang trưởng thành. Sự biến đổi của thân tâm rất khó có thể nhận diện được, vì nó thay đổi một cách vô tri giác trong mỗi giây phút. Nhưng sự tu tập đang dần dần trở nên thâm thúy. Trong thời gian còn lại, chúng ta hoàn tất nhiều lắm. Lúc này ta phải biết vận dụng năng lực để giữ cho tâm mình đừng rơi vào tình trạng mê ngủ, hôn trầm. 

Một lần nữa, ta hãy nhất quyết duy trì một sự thinh lặng. Thinh lặng là cội nguồn của sức mạnh. Nó tạo nên một sự trong sáng, nhờ vậy mà mọi hình trạng của tâm đều có thể được hiển bày rõ ràng. Nếu cứ mỗi lần những bồn chồn, lười biếng, uể oải trong ta khởi lên, ta lại mở miệng để nói, thì ta sẽ mất đi một dịp để quán chiếu chúng. Sự thinh lặng giúp cho ta ý thức được những gì đang xảy ra, những thăng và trầm. Mục đích của thiền quán không phải là để ngồi yên với sự an lạc trong một tháng trời. Nhưng là để kinh nghiệm được sự nhất như của thân và tâm. Kinh nghiệm một cách trọn vẹn mọi đau nhức, mọi cảm giác an lạc, tất cả những uể oải, buồn chán và những khi tâm ta đạt được một sự tập trung sắc bén. Sự thinh lặng tạo cho ta một không gian tĩnh mịch, để cho ta có thể quán sát được các hiện trạng này. Nói chuyện nhiều sẽ tạo nên một vòng xoắn ốc đi xuống. Khi ta bất an, ta bắt đầu nói chuyện, sự nói chuyện khiến cho ta mất định lực và vì vậy tâm ta lại càng thêm bất an. Tinh tấn, nghị lực và tạo một không gian tĩnh lặng chung quanh mình sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh cho sự tu tập. Ðâu ai có thể biết chắc được chừng nào ta mới lại có một dịp tu tập như thế này. Trong hoàn cảnh này chúng ta đang có những điều kiện rất là đặc biệt. Nơi đây rất là lý tưởng để ta có thể thám hiểm vào chính mình, tìm thử coi ta thật sự là ai. Ðừng lãng phí đi cơ hội quí báu này. 

Một yếu tố nữa có thể giúp ta gia tăng chánh niệm là từ tốn lại, chậm lại. Hành động một cách chậm rãi. Hãy coi mỗi hành động của ta trong ngày như là một đối tượng của thiền quán. Từ khi vừa mới thức dậy cho đến khi đi ngủ, ghi nhận mọi việc xảy ra một cách rõ ràng và sáng suốt: trong mỗi hành động khi tắm rửa, khi thay đồ, khi ăn uống. Chúng ta bấy lâu nay có thói quen làm việc gì cũng phải vội vã, đổ nhào tới giây phút tương lai, lao vào một hoạt động kế tiếp lúc nào cũng ở trong một giai đoạn chuyển dịch, nối tiếp. Hãy cố gắng an trú trong giây phút hiện tại này. Không có gì đáng để cho ta phải vội vã hết. Không có một nơi chốn nào để đi đến cả. Mục đích của chúng ta ở đây là để vun xới khả năng ghi nhận những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Ðừng ép buộc, cũng đừng nỗ lực quá. Hãy an trú trong giây phút này, đừng toan tính hay dự liệu một cái gì trong tương lai. Giữ tâm mình cho được thoải mái, nhưng với một chánh niệm sâu sắc. Tâm ta sẽ dần dà thâm nhập vào những trình độ sâu thẳm hơn. Sự thinh lặng và thái độ từ tốn không những chỉ giúp ích cho chính mình, mà còn cho những người chung quanh ta nữa. Khi chúng ta thấy một người nào đó đang vội vã, nó sẽ khơi dậy tính hấp tấp trong ta. Và khi ta thấy một người hành động khoan thai, có chánh niệm, tự nhiên ta cũng sẽ giữ chánh niệm. Hãy ý thức được giá trị và ích lợi của mình đối với những người khác. Khóa tu là một sự quân bình thật đẹp: tự tu trong thinh lặng và tĩnh mịch, nhưng cũng vừa tạo một môi trường giúp đở cho cả nhóm.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01| 02 | 03 | 04 | 05

 

Source: Thư viện Hoa Sen, http://www.thuvienhoasen.org

[Trở về trang Thư Mục]
last updated:
15-12-2003

Nguyen Duy Nhien - 30 ngay Thien Quan - 03
Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

Times (Unicode) font

 

Ba Mươi Ngày Thiền Quán 
Kim Chỉ Nam Thiền Vipassana 

Nguyên tác: The Experience of Insight,
Joseph Goldstein, 1976
Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên, 1992


[03]

Buổi sáng thứ mười một 
TRÒ CHƠI ÐỊNH TÂM

Sáng hôm nay chúng ta sẽ chơi một trò chơi. Nó gọi là trò chơi định tâm. Luật chơi như sau: trong vòng một tiếng đồng hồ sắp tới, mỗi hơi thở ra, bạn đếm một. Hơi thở kế bạn đếm hai, cho đến mười. Không được thiếu một hơi thở nào. Mỗi khi bạn thở ra, hay bụng xẹp xuống, đếm tăng lên một số. Nếu giả sử bạn quên đếm vì bạn không nhớ là mình đang đếm tới số mấy - trở lại bắt đầu từ số một. Nếu bạn quên đếm vì đầu óc đang suy nghĩ việc gì khác, không chú ý đến hơi thở - trở lại từ số một. Chỉ chú ý đến việc đếm hơi thở, quên hết mọi chuyện khác. 

Có những chuyện có thể xảy ra. Hơi thở có thể sẽ trở nên bất thường, khi chậm, khi nhanh, khi sâu, khi cạn. Cứ việc ở với hơi thở. Tù một cho tới mười. Có lẽ sau năm phút, bạn sẽ bắt đầu có ý nghĩ: "Cái này thật là ngu, mình bỏ một tiếng đồng hồ ra ngồi đây để đến một cho tới mười làm khỉ gì đây?" Hãy cứ tiếp tục đếm. Và nếu ý nghĩ đó làm bạn quên đếm một hơi thở, trở lại từ đầu. Có thể có nhiều sự khó chịu, đau đớn nổi lên trong thân. Ðừng để ý đến chúng. Chỉ từ một cho đến mười. Ðây là một phương pháp đặc biệt dùng để kiên cố thêm tâm hành định của ta, tập cho tâm ta có thể ở với một đối tượng duy nhất. Nếu bạn cảm thấy trò chơi này hữu ích trong việc tu tập, thỉnh thoảng bạn có thể xen lẫn phương pháp này vào những giờ ngồi thiền của mình.   

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười hai 
Ba Trụ Pháp: BA-LA-MẬT

Thực hành và hiểu được Phật pháp là một điều hiếm có và vô cùng quí báu. Rất ít người trên thế giới có được cơ hội này. Ða số còn bị kẹt trong vòng lẩn quẩn, chạy theo lòng tham và sự si mê, không ý thức được rằng mình có khả năng thoát ra khỏi vòng luân hồi, bánh xe của ái dục và sân hận. Cơ hội tu có được là nhờ vào điều mà tiếng Pali gọi là Parami hay là Ba-la-mật. Ba-la-mật có nghĩa là sự tích lũy năng lực của một tâm trong sạch. Mỗi khi tâm ta không bị ảnh hưởng bởi tham, sân, si nó sẽ có một năng lực làm cho dòng tâm thức trở nên tinh khiết. Trên hành trình tiến hóa, chúng ta cũng chỉ tích lũy được khá nhiều năng lực trong sạch này trong tâm. 

Chữ Parami đôi khi cũng được diễn dịch một cách rộng rãi là phần thưởng, công trạng. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm chúng như là những ngôi sao vàng thưởng cho mỗi việc thiện. Thật ra, Parami có nghĩa là một năng lực trong sạch trong tâm. Khi những yếu tố vô tham, vô sân, vô si được tích lũy đầy đủ, những Parami sẽ trở thành sức mạnh và sanh ra quả hạnh phúc đủ loại, từ những thú vui sắc dục thế gian nhất cho đến sự an lạc giải thoát cao tột nhất. Không có gì trên đời này mà lại xảy ra một cách ngẩu nhiên hay là vô duyên cớ cả. 

Có hai loại Ba-la-mật: sự trong sạch của hành động và sự trong sạch của trí tuệ. Các hành động trong sạch là nhân duyên tạo nên những cảnh vật vui vẻ, hoàn toàn thuận tiện, tình thân thiết và cơ hội để nghe được Phật pháp. Thí dụ, khóa tu này không phải ngẩu nhiên mà xảy ra. Nó có được là nhờ ở sức mạnh của sự trong sạch có trong mỗi người chúng ta. 

Loại Ba la bật thứ hai là sự trong sạch của trí tuệ, khai triển được nhờ sự thực tập chánh tư duy. Ba-la-mật này giúp cho tuệ sáng suốt được tăng trưởng. Cả hai Ba-la-mật, hai năng lực trong sạch vừa kể, phải được phát triển đầy đủ thì ta mới có cơ hội để tu tập Phật pháp, cũng như có được một trí tuệ để lảnh hội. 

Có ba trụ Pháp, ba lãnh vực của hành động giúp vun trồng và củng cố cho các Ba-la-mật. 

1.- Trụ pháp thứ nhất là Bố thí. Bố thí tức là tâm hành vô tham được biểu hiện bằng ra hành động. Vô tham có nghĩa là buông bỏ, không níu kéo, không bám víu. Mỗi khi chúng ta chia xẻ một việc gì, hay cho một vật gì, nó sẽ củng cố thêm cho tâm hành thiện này, và rồi một ngày nó sẽ trở thành một năng lực dũng mạnh trong tâm. Ðức Phật dạy rằng, nếu chúng ta biết được lợi ích của sự bố thí như ngài, ta sẽ không bao giờ để một buổi ăn trôi qua mà không chia xẻ với kẻ khác. 

Quả trái của nhân bố thí là sự sung túc, đầy đủ và sự hòa hợp với những người chung quanh. Chia xẻ những gì mình có, là một lối cư xử vô cùng tốt đẹp, tình thân hữu sẽ được tăng trưởng nhờ đức tính vị tha của ta. Cao thượng hơn nữa, tâm vô tham có thể là một sức mạnh quan trọng cho sự giải thoát của mình. Chúng ta bị trói buộc là vì lòng tham và sự ái dục trong tâm. Thực hành bố thí tức là ta đang học cách tháo gở và buông bỏ những sợi dây xiềng xích này. 

Người ta thường nói có ba hạng người bố thí. Hạng thứ nhất là hạng người bố thí bần cùng. Hạng người này chỉ cho sau khi đã do dự, suy tính rất kỹ, và họ chỉ cho những gì dư thừa, cặn bả của họ. Họ nghĩ: "Mình có nên cho hay không? Có cho nhiều quá không?" Và có lẽ thì cuối cùng họ sẽ cho những gì mà họ cũng không thật sự muốn giữ. 

Hạng thứ hai là hạng người bố thí theo nhân đạo. Hạng người này cho những thứ mà họ cũng có thể cần đến, Họ chia xẻ những gì của họ, mà không tính toán nhiều với một bàn tay rộng mở. 

Hạng cao thượng nhất là hạng bố thí theo vương đạo. Hạng người này sẵn sàng dâng tặng những gì mà họ quý giá nhất. Họ chia xẻ một cách tự nhiên và tức thời, không cần sự cân nhắc. Sự bố thí đã trở thành một thói tự nhiên. Tâm vô tham của họ vững mạnh đến mức họ có thể cho những gì mà họ trân quý nhất, bằng một thái độ thoải mái, nhẹ nhàng. Ðối với một số người, bố thí thật là khó khăn; tâm tham của họ quá mạnh khiến cho họ luyến ái rất nhiều. Ðối với một số khác, chuyện bố thí đến rất dễ dàng. Nhưng vấn đề đó không quan trọng. Dù chúng ta có bắt đầu ở hạng nào đi chăng nữa, điều quan trọng là phải bắt đầu thực hành. Mỗi hành động bố thí sẽ dần dà làm tâm tham dục yếu đi. Chia xẻ rộng rải là một lối sống đẹp trên cuộc đời này. Bằng sự thực hành, tất cả chúng ta đều có thể trở thành những hạng người bố thí theo vương đạo. 

Có hai loại tâm thức hiện diện trong mỗi hành động của ta. Một loại là tâm thức có tính cách thúc đẩy: đây là tâm suy nghĩ, tính toán, đắn đo trước mỗi hành động. Loại thứ hai là tâm thức tự nhiên, không khích động, nó là một thứ trực giác. Khi một hành động nào đã được ý thức kỹ lưỡng rồi, thì không cần thiết để đắn đo nữa. Loại tâm thức này hoạt động trong giây phút hiện tại một cách thật tự nhiên. Bằng sự thực hành, chúng ta sẽ khai triển loại tâm thức, mà trong đó sự bố thí chỉ là một biểu lộ tự nhiên của tâm mình. 

Trong một tiền kiếp của đức Phật, khi còn là một vị Bồ tát, một hôm ngài đi ngang qua một vách núi nọ, thấy một con cọp mẹ với hai con cọp nhỏ mới sanh. Cọp mẹ đang bệnh, không có đủ sữa cho hai đứa con mình bú. Với lòng từ bi, ngài quên đi sinh mạng của mình, gieo mình xuống vực núi, hy sinh thân mình làm thực phẩm nuôi cọp mẹ, để nó có đủ sức khỏe lo cho hai đứa con. Ðây là một bố thí thuộc vào hạng vương đạo. 

Chắc chúng ta chưa đạt đến mức vô ngã như thế, nhưng câu chuyện chỉ cho ta một hướng đi: vun trồng tâm bố thí vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh. Trong nhiều bài pháp, đức Phật luôn khuyến khích ta hãy thực hành bố thí cho đến ngày nào nó trở thành một biểu hiện tự nhiên của sự hiểu biết. Bố thí là một đại Ba-la-mật, nó được coi như là một đức đầu tiên trong sự toàn thiện của đức Phật. Và khi được vun trồng đầy đủ nó sẽ là nhân của những hạnh phúc lớn trong cuộc sống của chúng ta. 

2.- Trụ thứ hai của giáo pháp, hay một lãnh vực hành động trong sạch, là giữ Giới luật. Ðối với bậc cư sĩ thì nó có nghĩa là giữ ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không dùng những chất say nào có thể là mê mờ tâm mình.

a. Mọi chúng sanh đều muốn được sống và được an vui. Ai cũng không muốn mình bị khổ đau. Bảo vệ sự sống bao giờ cũng đem lại cho ta một tâm nhẹ nhàng, thư thái hơn là đi hủy hoại nó. Ðem một con ruồi ở trong nhà thả ra ngoài sân, bao giờ cũng làm cho ta thoải mái hơn là giết nó. Hãy tôn trọng mọi sự sống. 

b. Không trộm cắp có nghĩa là không lấy giữ những gì không phải là của mình. 

c. Không tà dâm có thể hiểu một cách dễ dàng là đừng làm những hành động sắc dục nào có thể gây hại, hay tổn thương cho người khác, hay tạo sự bất an, phiền não cho chính mình.

d. Không vọng ngữ không phải chỉ là không nói dối mà còn có nghĩa là tránh nói những câu chuyện vô ích, nhỏ mọn. Chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ ra để bàn những lời đồn đại vô căn cứ. Chuyện đến trong đầu là ta cứ nói, mà không cần suy nghĩ xem chúng có ích lợi gì không. Kiểm soát được lời nói là một cách để giúp cho tâm mình được an vui. Ðừng nói những lời gây gổ hay chửi mắng. Lời nói của ta phải nhã nhặn, gây những hạt giống hòa ái và thân thiết giữa tất cả mọi người. 

e. Trên con đường giác ngộ, hướng về sự tự do và sáng suốt, ta nên tránh dùng những chất gì có thể làm cho tâm mình bị mê mờ và chậm lụt. Nhiều khi vì sự bất cẩn khi ta say sưa, mà mình lại vô tình phạm những giới cấm khác.

Sự quan trọng và giá trị của những giới cấm có nhiều mức độ khác nhau. Giới cấm là một bảo vệ cho ta, giúp ta tránh khỏi tạo tác những ác nghiệp. Ta sẽ tránh không hành động vì lòng thâm, sân, si, bởi chúng là nhân của các quả khổ đau trong tương lai. Khi chánh niệm vẫn còn đang phát triển, chưa được vững mạnh, sự quyết tâm giữ gìn giới luật sẽ nhắc nhở mỗi khi chúng ta sắp làm một hành động bất thiện. Thí dụ như khi bạn sắp giết một con muỗi, tay bạn dơ lên sửa soạn đập xuống, thì ngay khi ấy giới cấm sát sanh sẽ khởi lên và trở thành một nhân của chánh niệm. 

Những hành động bất thiện sẽ tạo nên một trạng thái mê mờ, hắc ám trong tâm. Còn những hành động có ý thức, tự chủ không làm các hành động bất thiện, tạo cho ta một tâm nhẹ nhàng và sáng suốt. Khi bạn cẩn thận quan sát hoạt động của tâm trong mọi hành động, bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm được rằng, những việc làm do tham, sân, si sẽ khiến cho một tâm nặng nề khởi lên. Giữ giới luật như là một cách sống giúp cho ta được an lạc, tâm ta luôn cởi mở và trong sáng. Ðây là một lối sống thật thư thái và đơn giản. Hiểu được như vầy, thì giới luật không phải là những thiên lệnh, chúng ta giữ vì chúng có ảnh hưởng đến giá trị của cuộc sống. Chúng ta không cần phải thần thánh hóa chúng, vì chúng chỉ là những biểu hiện tự nhiên của một tâm trong sáng. 

Giới luật còn có một ý nghĩa sâu xa hơn thế nữa trên con đường tu tập. Chúng giải thoát tâm ta ra khỏi mọi hối hận và lo âu. Mặc cảm tội lỗi về những chuyện quá khứ không có ích lợi gì mấy, chúng chỉ làm cho ta lo buồn thêm. Bằng cách tạo dựng một căn bản trong sạch cho hành động của mình trong giây phút hiện tại, ta có thể giúp cho tâm mình trở nên thư thái và an tĩnh một cách dễ dàng. Không có định thì sẽ không bao giờ có tuệ được. Vì thế cho nên, nền tảng giới luật là một căn bản vô cùng cần thiết trên con đường tu tập. 

3.- Lãnh vực thứ ba của hành động trong sạch là Thiền. Thiền được chia ra làm hai dòng chánh. Thứ nhất là thiền Chỉ hay định, là khả năng tập trung tâm mình vào một đối tượng duy nhất trong một thời gian, mà không hề lo ra hay lơ đãng. Khi tâm ta tập trung, nhất như, nó sẽ có một khả năng soi thấu rất mãnh liệt. Một tâm ý tán loạn không thể nào nhìn thấy được tự thể của thân và tâm. Sự khai triển trí huệ đòi hỏi tâm ta phải có một mức định tối thiểu nào đó. Nhưng định không thôi cũng chưa đủ. Sức mạnh của tâm phải được sử dụng để phục vụ cho sự hiểu biết, đó là loại thiền thứ hai: thiền quán. Quán có nghĩa là nhìn thấy rõ được chân tướng của mọi hiện tượng, tự tính của vạn pháp. Mọi vật đều vô thường và luôn luôn biến chuyển, sanh diệt trong mỗi giây phút. Tâm thức, đối tượng, các tâm hành, thân: mọi hiện tượng đều nằm trong dòng sông vô thường. Khi tâm ta sáng suốt, nó có thể kinh nghiệm được sự biến chuyển liên tục này trên một bình diện thật vi tế: trong mỗi sát na chúng ta đang chết đi và được sanh ra. Không có gì để nắm giữ, chẳng có gì để níu kéo. Không có một trạng thái nào của tâm hay thân, không có hoàn cảnh nào bên ngoài ta để bám víu, bởi vì tất cả đều thay đổi ngay trong giây phút này. Sự phát triển trí tuệ có nghĩa là kinh nghiệm được dòng vô thường nơi chính ta, để ta bắt đầu sự buông bỏ, không còn mù quáng ôm chấp vào tiến trình thân tâm. 

Kinh nghiệm được vô thường, đưa đến một hiểu biết về sự bất mãn bẩm sinh của tiến trình thân tâm: bất mãn vì nó không có khả năng đem lại cho ta một hạnh phúc nào vĩnh viễn. Nếu chúng ta cho rằng thân của mình là một nguồn gốc của một hạnh phúc, an lạc thường hằng, tức là ta chưa thấy được sự hủy hoại không thể nào tránh khỏi của nó. Khi ta trở nên già, bệnh tật, tàn hoại và chết đi, những ai quyến luyến thân này sẽ rất khổ đau. Bản chất của bất cứ một vật nào sanh lên là sẽ tàn hoại đi. Mọi yếu tố của thân, mọi yếu tố của tâm đều đang sanh lên và diệt đi trong ngay giây phút này. 

Ðặc tánh thứ ba của hiện hữu, dưới sự quán sát của trí tuệ và chánh niệm, là trong dòng hiện tượng này không có một cái gì là "Tôi", "Ngã" hay là "Của tôi" hết. Tất cả chỉ là một dòng hiện tượng vô ngã, trống rỗng. Không có một thực thể nào đứng phía sau những hiện tượng ấy để kinh nghiệm. Cá nhân, chủ thể, tự nó cũng chỉ là một phần của tiến trình. Nếu ta biệt vun trồng trí tuệ bằng chánh niệm, ba đặc tính này của hiện hữu sẽ tự nhiên hiển lộ. 

Giả sử bạn có một hồ nước, trong hồ mọc đầy cỏ dại. Giữ giới luật cũng giống như cúi xuống, lấy tay vẹt cỏ ra hai bên để lấy nước uống. Cỏ dại vẫn còn đó, và khi bạn lấy tay ra, chúng sẽ trở lại phủ đầy mặt hồ. Những khi ta giữ giới luật tâm ta trở nên trong sạch, nhưng vừa khi chúng ta quên lãng, những dơ bẩn, ô uế sẽ trở lại với ta. Nếu bạn xây một hàng rào trong bờ hồ, ngăn chận những cỏ dại rong rêu ra chung quanh, nước bên trong sẽ trong sạch và có thể dùng được, vì sự có mặt của hàng rào. Nhưng những cỏ dại vẫn còn ở đó chung quanh và nếu ta dời hàng rào đi nơi khác, chúng lại sẽ lan tràn như xưa. Nó cũng giống như định lực trong tâm. Ðịnh có khả năng đè nén những tâm hành bất thiện xuống. Còn trí tuệ cũng giống như khi ta bước xuống hồ và nhổ đi những cỏ dại, từng cái một, cho đến khi cả hồ được trong sạch. Khi ta nhổ như thế thì chúng sẽ không còn mọc trở lại nữa. Trí tuệ là một phương pháp thanh lọc: khi những sự bất thiện trong tâm được quán chiếu cặn kẻ và cuối cùng bị bứng nhổ, chúng sẽ không còn khởi lên được nữa. 

Trí tuệ là điểm cao tột nhất trên con đường tu tập. Nó được bắt đầu bằng sự thực hành bố thí, giữ giới và phát triển định lực. Từ căn bản trong sạch ấy, phát sanh một trí tuệ có khả năng soi thấu được thực chất của thân và tâm. Bằng cách giữ chánh niệm hoàn toàn trong giây phút hiện tại, những gì huân tập trong tâm ta từ bấy lâu nay sẽ bắt đầu hiển lộ. Mọi tư tưởng, mọi tà ý, tham dục, luyến ái, tình yêu, nghị lực, mọi niềm vui, tất cả những gì trong phạm vi tâm sẽ được mang lên bình diện nhận thức. Và bằng sự thực hành chánh niệm, không dính mắc, không ghét bỏ, không nhận một đối tượng nào làm mình, tâm ta sẽ trở nên thư thái và tự tại. 

Ðức Phật có nói về sức mạnh của các Ba-la-mật này. Ngài nói rằng sức mạnh của bố thí sẽ được gia tăng bằng sự trong sạch của người nhận. Và thực hành từ bi quán với một định tâm còn hùng mạnh hơn là cúng dường Phật và toàn thể tăng đoàn của ngài gấp bội lần. Nhưng dũng mãnh hơn vun trồng những tư tưởng từ bi ấy, là thấy được sự vô thường trong mọi hiện tượng, vì thấy được vô thường tức là bắt đầu của sự giải thoát. 

Hỏi: Có một lúc tôi cảm thấy mình cho nhiều quá; tôi cảm thấy như mình bị lợi dụng. Ông có thể nói thêm về bản chất của bố thí khi nó đưa đến việc mình cảm thấy bị lạm dụng không? 

Ðáp: Chúng ta đều có những trình độ khác nhau. Chúng ta không phải đang ở trình độ của một vị Bồ tát dám hy sinh thân mình để nuôi cọp mẹ và hai đứa con của nó. Có thể đôi khi ta có những thúc dục để làm những chuyện như vậy, để rồi theo sau là những hối hận. Ðó không phải là một phương pháp thiện xảo. Chúng ta phải ý thức được trong giờ phút này mình đang ở đâu và vun trồng sự bố thí sao cho thích hợp với mình. Nó sẽ phát triển. Khi chúng ta thực hành bố thí, thì dần dần nó sẽ trở nên tự nhiên. Và khi ta đạt được một sự quân bình, nó sẽ trở thành hòa hợp, không có một mảy may hối tiếc nào theo sau cả. 

Hỏi: Những giới luật có thể là sự chỉ đạo ở một trình độ nào đó, nhưng chấp cứng vào nó có nguy hiểm không? Giới cũng có thể là một trở ngại vì dù sao thì nó cũng chỉ là những ý niệm? Có những hành động có thể vì lòng từ bi nhưng lại phạm giới, như là nói dối để cứu một người nào. Khi giới luật và trực giác xung khắc với nhau thì sao? 

Ðáp: Tất cả các hành động thiện phải được hiểu theo những tâm hành mà chúng đang vun trồng, chứ không phải tự ở những hành động đó. Nếu chúng ta hành động vì lòng từ bi thì đó là hành vi thiện. Nhưng thường thì chúng ta chưa tới trình độ tỉnh thức đủ để mình có thể nhận thấy mọi yếu tố liên quan đến hành động của mình. Chừng nào ta có thể ý thức được mọi động lực khiến ta hành động, để nhận định thiện ác, các giới luật vẫn được coi như là những quy tắc rất hữu ích. Một vị sư đến than phiền với đức Phật rằng ông không thể nào nhớ hết hơn hai trăm giới luật dành cho các Tăng, chứ đừng nói gì đến việc giữ cho đừng phạm. Ðức Phật nói: "Vậy ông có thể nhớ được một giới luật thôi không?" Vị Tăng trả lời rằng ông có thể nhớ được. Ðức Phật nói tiếp: "Giữ chánh niệm!" Mọi điều khác đều đến từ chỗ chánh niệm. Nếu bạn có thể giữ chánh niệm cho tinh chuyên, tự nhiên mọi hành động sẽ trở thành chân chánh. 

Hỏi: Tôi thấy có một sự xung đột giữa việc theo con đường bố thí vương đạo và có một cuộc sống được bảo đảm. 

Ðáp: Sự vun trồng bố thí theo vương đạo không cần thiết có nghĩa là ta ra đường cho hết tài sản của mình cho kẻ khác. Nó chỉ có nghĩa là ta bố thí với một tâm đại lượng, thích hợp với hoàn cảnh. Chúng ta cũng có trách nhiệm đối với chính mình, phải biết duy trì một mức sống vừa đủ để mình có thể tu tâm và vun trống những yếu tố giác ngộ. Mức độ của sự bố thí sẽ tùy thuộc vào rất nhiều trình độ tiến hóa của tâm mình. Chúng ta không nên có một ý niệm cứng ngắc về sự bố thí rồi tự cưỡng ép, cố gắng sống theo như vậy. Chỉ cần giản dị, trong giây phút hiện tại, chụp lấy những cơ hội để vun trồng tâm hành vô thăm. Nó không phức tạp gì đâu, hãy để nó tự nhiên hiển lộ. Ðến khi nào bạn cảm thấy sẵn sàng gieo mình xuống vực thẳm để nuôi những con cọp, bạn sẽ làm chuyện ấy. 

Hỏi: Tôi cảm thấy hơi bối rối về việc nói láo. Khi ta không lên tiếng nói những gì mà ta nghĩ rằng nó chân thật và thích hợp với hoàn cảnh, như vậy có gọi là nói láo không? 

Ðáp: Có những việc có thể là sự thật, một ý niệm chân chánh, nhưng nó không có ích lợi gì cho người khác, bởi vì người ấy không ở vào một địa vị mà họ có thể nghe và hiểu được. Chúng ta chỉ nên nói sự thật khi nào nó có ích lợi. Sống với sự thinh lặng tâm ý rất là đẹp và an lạc. Nhưng điều ấy đòi hỏi nhiều chánh niệm, vì chúng ta rất dễ bị lôi cuốn để nói. Lời nói thoát ra ngay cả trước khi mình ý thức được rằng mình có điều gì muốn nói. Chúng rất là máy móc. Nhưng khi chánh niệm được giũa mài sắc bén, chúng ta sẽ bắt đầu có ý thức trước khi mình nói - tác ý muốn nói khởi lên và ta lập tức có chánh niệm về nó. Và khi ấy ta có thể nhận xét rằng chúng có thân thật và có ích lợi gì không.

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười ba 
THÁNH JOHN OF THE CROSS, 
THÁNH FRANCIS DE SALES

Một số nhà thần học Công giáo có viết những áng văn rất hay, tương tự với sự thực hành của ta ở đây. Từ Thánh John of the Cross: 

Không phải vì ý muốn mà ta đã không viết cho các ông, thật sự thì ta luôn chúc lành cho các ông; nhưng bởi vì ta thấy những gì lợi ích cho các ông ta đã nói hết rồi, và sự cần thiết (nếu thật sự có một điều gì cần thiết) không phải là sự giảng thuyết hay viết thêm - bởi ta nghĩ đã đủ lắm rồi - mà phải là thinh lặng và thực hành. Trong khi sự giảng thuyết làm cho các ông bối rối, lo ra, thì im lặng và hành động sẽ tập trung lại tâm ý ta và nâng cao linh hồn. Một khi các ông đã hiểu được những gì ta muốn dạy cho các ông là tốt, thì thôi đừng bàn luận hay tìm nghe giảng thêm làm gì nữa; hãy lo kiên trì mà thực hành những gì các ông đã học được, trong thinh lặng và chánh niệm. 

Những việc chúng ta làm ở đây không phải là dễ, sự tu tập và thanh lọc tâm. Chuyện ấy đời hỏi một sự kiên nhẫn và nghị lực rất lớn. Nó không thể nào tự một mình xảy ra được. Nhưng bằng một sự bền gan, vững chí mọi chuyện đều có thể đạt được. 

Thánh Francis de Sales có viết: 

Mỗi khi tâm ông bị lo ra hay phân tán, hãy nhẹ nhàng kéo nó trở lại với sự suy niệm... Và cho dù nếu ông có bỏ ra cả một giờ, chỉ để ngồi để cố đem tâm ý của mình trở lại, để rồi nó lại đi mất ngay sau đó, thì một giờ ấy cũng đã được sử dụng một cách rất hữu ích. 

Ðừng để bị chán nãn vì sự phân tâm hay vì những mơ mộng viễn vông của mình. Mỗi khi ý thức được tâm mình phóng đi một nơi khác, nhẹ nhàng đem nó trở về với hơi thở hoặc là cảm giác của ta. Không cần biết nó xảy ra bao nhiêu lần, nếu cứ mỗi lần tâm ta phóng đi, ta lại đem nó trở về, thì giờ ngồi thiền ấy sẽ rất có ích lợi. Hãy từ tốn với chính mình. Hãy kiên trì. Mặc dù có thể ta không nhận thấy rõ ràng, nhưng đang có một sự chuyển hóa lớn lao xảy ra nơi ta. Ðây cũng giống như trái cây đang chín trên cành. Ánh sáng mặt trờichiếu soi, quả trái chín dần, mặc dù ngày này sang ngày khác ta không nhận thức được sự biến đổi ấy. Tương tự như vậy, sự biến đổi và chín mùi trong tâm ta cũng đang tiến triển. Và như Thánh John of the Cross nói, chính trong sự thinh lặng và thực hành mà sự chuyển hóa này được hoàn tất. 

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười bốn 
TỨ DIỆU ÐẾ

Trên thế giới này đầy dẫy những khổ đau. Mỗi ngày có hằng triệu người không đủ thực phẩm để nuôi thân, phải chịu đựng những cơn đói. Có hằng triệu người không đủ quần áo, nhà cửa che thân, sống dưới những cơn mưa lạnh hoặc những ngày nắng cháy da. Lại có hằng triệu người phải gánh chịu những cơn đau gây ra do bệnh tật, mặc dù đã có phương pháp trị liệu, nhưng họ vẫn không có được một phương tiện chữa trị nào. Sự khổ đau trong việc sanh sản. Cái đau của người mẹ. Và hơn nữa, cái đau của người con khi được sanh ra, bị đẩy qua người mẹ, ra thế giới bên ngoài đầy những yếu tố va chạm, xây xát. Tấm thân nhuốm bệnh, già yếu và suy nhược, sự khổ đau của cái chết. 

Có biết bao nhiêu người trên thế giới này đang sống bất lực trong tay kẻ thù, trong tay những người muốn giết hại họ. Trong nhiều quốc gia trên thế giới ngay giờ phút này có những tù nhân đang bị tra tấn, đánh đập. Rồi còn sự tàn bạo của chiến tranh. Những con người có tình cảm giống như chúng ta, bất lực khi đối mặt khổ đau, họ không thể làm gì khác hơn được. Có biết bao nhiêu lần ta phải đối diện với những hoàn cảnh giống như thế, và trong tương lai sẽ còn biết bao nhiêu lần nữa. Chỉ cần một chuyển động nhẹ của bánh xe nghiệp quả là ta có thể trở thành những con người đó. Mang tấm thân này là ta mang trên người bao cơ hội để khổ đau. Ðã bao lần ta kinh nghiệm chúng, và sẽ còn bao nhiêu lần nữa trong tương lai? 

Những yếu tố vật chất trong thân ta được gọi là Tứ đại. Chúng được gọi là "đại", có nghĩa là lớn, vì năng lực tàn hoại của chúng. Bốn yếu tố cấu tạo nên thân ta cũng chính là bốn yếu tố cấu tạo nên quả đất này, mặt trời, các hành tinh, và những vì tinh tú trong vũ trụ. Chính bốn yếu tố này mà ta đang kinh nghiệm trong thân, chúng hoạt động theo một định luật tự nhiên, cũng là nguyên nhân tạo dựng và tan rã của những thái dương hệ hoặc các dãy ngân hà. Năng lượng của chúng rất là vĩ đại. Trong một thời gian ngắn ngủi, tứ đại hòa hợp với nhau. Sự hòa hợp tạm bợ này làm ta quên đi bản chất tàn hoại của chúng, cho đến khi chúng biến đổi theo định luật tự nhiên, trở nên mất thăng bằng và khiến sự tàn hoại, tan rã của thân thể, đau khổ và chết. Chúng ta như những đứa trẻ con vui chơi trong một căn nhà đang bị cháy. Những đứa trẻ con đang mãi mê chơi đùa, ham mê nhũng thú vui tạm bợ, hoàn toàn quên đi chung quanh mình lửa đang bừng bừng thiêu đốt. Nhưng trời đất vẫn còn lòng nhân từ, đã sai sứ giả đến báo trước những nguy hiểm, những khổ đau đang hiện diện trong mọi khía cạnh. 

- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những ông lão, bà lão 80, 90 hay 100 tuổi, yếu đuối, cong vòng như mái nhà, cúi xuống vịn người trên chiếc gậy, chập chững bước, suy nhược, tuổi trẻ đã mất lâu rồi, với răng rụng, tóc bạc thưa. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày, mình cũng sẽ bị tàn tạ như vậy? Ngay chính cả ngươi cũng sẽ không thể nào trốn tránh khỏi? 

- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn, đau khổ vì các chứng bệnh nan y, nằm trên những xú uế của chính mình, phải nhờ người này đỡ ngồi dậy, nhờ người kia đặt xuống giường. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày mình cũng sẽ bị bệnh hoạn như vậy? Ngay cả chính ngươi cũng không thể nào thoát khỏi? 

- Ngươi có bao giờ thấy trên cõi đời này, thây ma của một người, một, hai hoặc ba ngày sau khi chết, xình lên, màu bầm tím, hôi thúi. Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, một ngày nào đó mình cũng sẽ bị cái chết tìm đến. Ngay cả chính ngươi cũng không thể nào thoát khỏi? 

Chúng ta cũng thế, đều bị chi phối bởi những sự ấy. Cái chết không chừa bất cứ một ai. Nó là sự chấm dứt của tất cả. Không ai có thể trốn tránh sự thật này. 

Rồi còn những nỗi đau của tâm. Buồn khổ, thất vọng, lo âu, hồi họp, tức giận, căm hờn, sợ hãi, ái dục, chán nản. Chúng ta còn phải chịu vướng trong cái bẫy xập của sanh tử luân hồi, lôi kéo bởi tham dục và si mê trong bao lâu nữa? Nỗi khổ của sự bất tận này, mỗi sáng thức dậy với những màu sắc và mùi vị, âm thanh và cảm giác, ý nghĩ lập đi lập lại vô tận. Chúng ta sống một ngày, qua một giấc ngũ, rồi lại thức dậy với cũng bấy nhiêu màu sắc, mùi vị, âm thanh, cảm giác và ý nghĩ, trở đi, trở lại không dứt. 

Cũng giống như những đứa trẻ con mê chơi trong căn nhà lửa, chúng ta không chịu mở mắt nhìn những nỗi đau trong cuộc sống của mình. Chúng ta đi nhốt những người già, người bệnh vào nhà thương, viện dưỡng lão để ta khỏi phải chứng kiến những nỗi sầu khổ của họ. Chúng ta đuổi những kẻ ăn mày ra khỏi đường phố của mình, để ta khỏi thấy những nhục nhằn của nghèo khổ. Chúng ta chưng diện cho những thây ma để che dấu đi cái chết. 

Chân lý đầu tiên của đức Phật là sự khổ. Dù chúng ta có chối bỏ đến đâu đi nữa, thân này rồi một ngày sẽ già và bệnh hoạn. Nó sẽ chết, dù ta có tìm quên lãng trong những thú vui bao nhiêu đi chăng nữa, thì sự có mặt của giận hờn, thù ghét, lo âu, bối rối và căng thẳng vẫn còn tồn tại. Chúng ta bị thiêu đốt trong ngọn lửa tham sân. Chân lý đầu tiên, sự thật của đau khổ. 

Ðức Phật không dừng lại ở đó. Sau khi chỉ cho ta thấy sự thật khổ đau, ngài giải thích cho ta nghe về nguyên nhân của chúng. Cái gì đã trói cột chúng ta vào vòng bánh xe khổ lụy này? Ðức Phật thấy rằng sự trói buộc ấy nằm ngay nơi trong tâm của mỗi người chúng ta, chúng ta bị trói buộc vì lòng ái dục. Chúng ta lăn theo bánh xe khổ đau vì ta đeo theo nó, và chúng ta bám đeo theo nó cũng chỉ vì vô minh của mình. 

Có bốn sự si mê lớn là nguyên nhân chánh hằng trói cột chúng ta vào vòng bánh xe khổ đau. Mối đam mê đầu tiên là sắc dục. Sắc dục khiến ta lúc nào cũng đi tìm những âm thanh và hình ảnh dễ chịu, những mùi vị ưa thích, những cảm giác êm ái của thân thể. Chúng ta cứ mãi mê đi tìm những thú vui tạm bợ, mỏng manh. Ta đeo đuổi chúng như là như chúng có thể giải quyết những khó khăn của mình, như là chúng có thể đem đến sự chấm dứt khổ đau. Chúng ta sống đời mình trong sự mong đợi hai tuần nghĩ hè sắp tới, một liên hệ tình cảm kế tiếp, một cái gì đó để chiếm hữu: lúc nào cũng chờ đợi ở một hạnh phúc nào đó trong tương lai, ngoài tầm tay với. 

Có một câu chuyện về Mulla Nazrudin, ông là một tu sĩ nổi danh của Hồi giáo. Một hôm ông đi xuống chợ và thấy một thúng ớt cay bán hạ giá. Ông mua hết cả thúng, đem về nhà, và bắt đầu ngồi ăn. Những đệ tử của ông nhìn thấy ông mặt mày đỏ ké, nước mắt tuôn chảy, miệng lưỡi bị nóng phỏng, bèn kêu lên: 

- Thầy ơi, tại sao khổ như thế mà thầy lại cứ ngồi ăn hoài vậy? 

Nazrudin lấy tay bốc thêm một trái ớt bỏ vào miệng rồi đáp: 

- Ta hy vọng rồi sẽ có một trái ớt ngọt! 

Mối si mê thứ hai là sự cố chấp vào ý kiến và quan điểm của mình. Chúng ta có rất nhiều ý kiến về những sự việc chung quanh, biết bao nhiêu là thành kiến. Cố chấp vào quan điểm của mình là một trở ngại rất to tát. Nó ngăn chận không cho ta nhìn thấy chân tướng của sự vật, nó như là một lăng kính màu làm sai đi sự thật qua những thành kiến cá nhân của mình. Một thiền sư Thái Lan khi được hỏi, những học trò của ông bị trở ngại nào lớn nhất, ông đáp: "Ý kiến, quan điểm, ý niệm về mọi việc. Về chính họ, về phương pháp tu tập, về giáo lý của đức Phật. Ðầu óc họ lúc nào cũng đầy dẫy những ý kiến. Họ cho mình là khôn khéo nên không thèm lắng nghe ai nữa hết. Cũng giống như một tách nước vậy. Nếu tách ấy chứa đầy nước dơ, bẩn đục thì cũng chỉ là vô dụng. Chỉ khi nào đổ đi nước cũ thì ta mới có thể sử dụng tách ấy lại được. Các ông phải bỏ qua một bên những ý kiến của mình chừng đó mới có thể thấy được". 

Vị tổ thiền tông thứ ba ở Trung Hoa là Tăng Xáng, có viết: "Ðừng đi tìm kiếm chân lý. Hãy thôi nâng niu những ý kiến của mình". Nếu chúng ta dẹp được mối si mê này, cà giáo pháp sẽ phô bày. Mọi hiện hữu sẽ có mặt. Chúng ta cần phải buông bỏ những thành kiến có sẵn của mình về bản chất của sự vật, và những mơ ước của mình về chúng. Buông bỏ mọi cố chấp vào những ý kiến đáng yêu của mình. Ðây chính là mối ràng buộc lớn thứ hai, đã giữ chúng ta trong vòng bánh xe luân hồi, bánh xe của khổ đau. 

Sự si mê thứ ba là cố chấp vào các lễ nghi và hình thức: cho rằng chỉ cần thắp một nén nhang hay đốt một ngọn nến đặt trên bàn thờ là mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ. Những phưong pháp tu tập, các nghi lễ đều được thức hành với hy vọng rằng đốt một nén hương, một ngọn nến, đọc một bài kinh, một câu thần chú sẽ có khả năng làm chấm dứt được khổ đau này. Ngay chính việc cố chấp vào những pháp tu, cố gắng trở nên đạo đức, hay bất cứ một hình thức tâm linh duy vật nào cũng đều là những sợi dây xích trói ta. 

Si mê thứ tư và cũng rất kín đáo và sâu xa là sự chấp ngã, chấp có một cái ta riêng biệt cùng những sở hữu của nó. Tin tưởng rằng có một tự thể thường hằng trong thân tâm để kinh nghiệm những gì đang xảy ra, Cũng bởi vì tin tưởng này, mà chúng ta đã lao đầu vào những hành động bất thiện, đủ mọi tham, sân, si chỉ để cố thỏa mãn cái ta này, một cái ta mà không hề có thật. Cái chấp ngã này rất là sâu đậm, mọi hành động của ta đều xoay vần chung quanh nó, càng lúc càng buộc chặt ta vào một khối khổ đau. 

Chân lý thứ hai của đức Phật là nguyên nhân của khổ đau: lòng ái dục. Ðam mê sắc dục, cố chấp vào quan điểm và ý kiến của mình, mê tín tin rằng những lễ nghi, hình thức bên ngoài có khả năng diệt được khổ đau, và nhất là cố chấp vào một cái tôi thường hằng, bất biến. Không một ai bắt ta phải cố chấp. Không có một quyền lực nào bên ngoài chúng ta giữ ta trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có mỗi sự cố chấp, luyến ái trong tâm mình là có thể làm được chuyện đó mà thôi. 

Ở Á Châu người ta có một cái bẫy dùng để bắt khỉ, rất là đặc biệt. Một trái dừa được khoét rỗng ở bên trong, cột vào một sợi dây hay là cắm vào một cái cây cột đóng trên mặt đất. Phía dưới trái dừa, người ta đục một lỗ nhỏ và bỏ vào phía trong một thứ đồ ăn có chất ngọt. Cái lỗ ấy được khoét rộng vừa đủ để cho con khỉ có thể đút tay vào nếu bàn tay mó mở, nhưng nếu nó nắm tay lại, bàn tay sẽ không thể nào qua lọt. Con khỉ đánh hơi được mùi ngọt sẽ tìm tới, nó sẽ đút tay vào để bốc thức ăn rồi không lấy tay ra được. Bàn tay nắm chặt sẽ không thoát qua khỏi lỗ hổng ấy. Khi người thợ săn đến, con khỉ sẽ trở nên quýnh quáng nhưng không cách nào chạy đi đâu được. Nhưng không có ai bắt giữ nó ở đó, ngoại trừ lòng tham dục của chính nó. Muốn thoát đi nó chỉ cần giản dị mở rộng bàn tay ra. Nhưng vì lòng tham dục quá mạnh, nên hiếm khi có một con khỉ nào có thể thoát đi được. Chính vì lòng tham dục và quyến luyến trong tâm đã giữ chúng ta trong bẫy sanh tử này. Chúng ta chỉ cần mở bàn tay mình ra, buông bỏ những cố chấp, những tham muốn là có thể bước đi trong tự do. 

Chân lý thứ ba của đức Phật là sự chấm dứt của khổ đau. Niết bàn là một trạng thái thoát ra ngoài tiến trình thân tâm, không còn bị chi phối, ảnh hưởng bởi bản chất khổ đau của chúng. Tự tại, an lạc, thanh tịnh, tươi mát, buông xả. Như là bỏ xuống một gánh nặng trên vai. 

Niết bàn có hai loại: Loại thứ nhất là Niết bàn nhất thời, tức là sự tự tại của một tâm thức không bị chi phối bởi tham, sân, si trong từng giây, từng phút. Mỗi giây phút không bị ảnh hưởng bởi những sự bất thiện là một giây phút của tươi mát và an lạc. Còn loại Niết bàn thứ nhì là một trạng thái thoát ra ngoài mọi tiến trình, sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, dập tắt hẳn đi ngọn lửa đang thiêu đốt. 

Thí dụ như có những người đang sống trên một vùng sa mạc khô cằn. Nước rất hiếm, thực phẩm không có đủ, và không có gì để bảo vệ họ khỏi ánh nắng thiêu đốt của mặt trời. Nhưng những người ấy đã quen sống trong hoàn cảnh ấy từ thuở nhỏ, cha ông của họ cũng đều như vậy, nên họ cho đó là tự nhiên và lấy đó làm hài lòng. Cho đến một ngày kia, có một người trong bọn họ đi đến một nơi có thời tiết mát mẻ, thực phẩm đầy đủ, đến chứng ấy anh ta mới ý thức đến những điều kiện và hoàn cảnh bất lợi, cực khổ mà anh đã từng phải chịu đựng. So với sự an lạc, tươi mát và thinh lặng của Niết bàn thì những tiến trình dài vô tận của thân tâm, sự sanh diệt không ngừng là một gánh nặng to lớn, một khổ đau vĩ đại. Chân lý thứ ba là sự an lạc mà đức Phật đã nói rằng trên đời này không còn gì là hạnh phúc hơn. 

Ðức Phật cũng đã chỉ cho chúng ta con đường để đi đến sự an lạc này. Ðây không phải là một giáo lý bí mật chỉ để dành cho một số người. Chân lý thứ tư là Bát chánh đạo, một phương pháp để cởi bỏ gánh nặng của mình. 

Ðây không phải là con đường quá khích. Nó không đòi hỏi ta phải hành hạ thân tâm mình. Nó không bắt ta phải đi tìm đến một hang động hẻo lánh nào. Nó không phải là con đường khổ hạnh, cũng không phải là con đường của sự xoa đọa trong sắc dục. Ðây chính là con đường trung đạo. Còn đường của sự tỉnh thức. Có chánh niệm về những gì đang xảy ra chung quanh mình. Có một ý thức rõ ràng, không quyến luyến, không ghét bỏ. Không nhận lầm những hiện tượng là Tôi, là Ngã. Giải thoát tâm mình ra khỏi những điều bất thiện trong mỗi giây phút. 

Sự thật về khổ đau phải được ý thức. Sự thật về nguyên nhân của khổ đau phải được hiểu rõ. Chân lý về sự chấm dứt khổ đau phải được kinh nghiệm. Và con đường để chấm dứt khổ đau ấy phải được bước đi bởi mỗi người trong chúng ta. Sự giác ngộ của đức Phật giải quyết những vấn đề cho ngài, chứ không giải quyết những khổ đau của ta được, ngoại trừ chỉ cho ta thấy một con đường để đi tới. Không có một công thức huyền bí nào có thể đem ta ra khỏi những khổ đau này. Mỗi người chúng ta phải tự thanh lọc tâm mình, bởi vì chỉ có những ái dục trong tâm mới có khả năng trói buộc được ta mà thôi. 

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười lăm 
SỰ CƯƠNG QUYẾT NỬA VỜI

Trong khi ngồi thiền, giữ cho thân được an tịnh có một ảnh hưởng rất lớn đến sự an tịnh của tâm. Một phương cách để gia tăng định lực là trước mỗi giờ ngồi thiền, bạn nên nhất quyết rằng mình sẽ không thay đổi thế ngồi trong suốt một giờ đó. Những lần đầu có thể rất là khó khăn, nhưng nếu bạn có một nghị lực vững mạnh, bạn có thể ngồi và quan sát bất cứ chuyện gì xay ra. Cho dù bạn có cảm thấy tâm mình trở nên bất an, bồn chồn, căng thẳng hay là đang đương đầu với cái đau, điều trọng yếu là khi đã quyết định một cái gì rồi bạn hãy giữ nó cho đến cùng. Ðịnh lực và sự tinh tấn của bạn sẽ được tăng trưởng mãnh liệt và sau vài lần ngồi như vậy, bạn sẽ cảm thấy việc ngồi yên trở nên dễ dàng hơn. 

Hãy giữ cho tâm bạn luôn ở trong một trạng thái bất bạo động, khi quán chiếu bất cứ một đối tượng nào. Ðược như vậy thì sẽ không có gì lại là một chướng ngại hay khó khăn cả. Mọi đối tượng của thân hay tâm, nội hay ngoại, đều đi ngang qua trong một không gian chánh niệm. Ðừng vận dụng tâm để chạy theo hay là trốn tránh bất cứ một đối tượng nào: một sự bất động của tâm ý. Khi ấy tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng và quân bình, nhờ đó ta có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, trong mỗi giây phút, sự sanh diệt của từng hơi thở, từng cảm thọ, tư tưởng, cảm giác, âm thanh, mùi vị và hình ảnh. 

Hãy ý thức được dòng vô thường. Không có gì để cho ta nắm bắt, không có gì để quyến luyến cả. Trong đoạn cuối của Mount Analogue, có ví dụ cho ta thấy sức mạnh của sự vô thường và một thái độ thích hợp cho ta: 

Ðừng bao giờ dừng lại trên một triền núi cao. Cho dù anh có nghĩ rằng bàn chân mình đang đứng vững vàng, vì khi anh dừng lại để thở và nhìn trời cao, thì đất dưới chân cũng đang bắt đầu lún xuống vì sức nặng của anh. Những viên đá sỏi sẽ rơi ra từ từ và rồi đột nhiên tất cả sẽ sụp đổ dưới chân anh và phóng anh đi như một chiếc tàu hạ thủy. Ngọn núi lúc nào cũng chờ đợi một cơ hội để hất ngả anh. 

Không có thì giờ để cho ta ngừng nghỉ, cho dù trong một chốc, để ta nắm bắt. Mỗi khi ta cố gắng níu kéo một cái gì, ta sẽ bị lôi cuốn, kéo trôi lăn theo những ý nghĩ, ý niệm và sự tưởng tượng về nó. 

Khóa tu này cũng đã kéo dài gần phân nửa rồi. Thường thì vào khoảng nửa chương trình, không cần biết khóa tu học dài bao lâu, tâm ta thường đâm ra chán nản. Nó trở nên hơi lười biếng, dễ duôi và bồn chồn một chút. Ta tự nghĩ rằng, mình đã cố gắng tinh tấn từ lúc mới bắt đầu đến giờ, lúc này mình có thể nghỉ ngơi một chút được. 

Hãy có chánh niệm về việc này. Ðây là lúc để ta gia tăng nghị lực, chứ không phải là lúc để giải đãi. Hãy nghĩ lại công lao tu tập của bạn trong hai tuần vừa qua. Nhớ lại giai đoạn mới bắt đầu, ngồi yên trong một tiếng đồng hồ nó khó khăn đến đâu. Bây giờ thì bạn đã khai triển được một sức mạnh trong tâm, một năng lực của định và quán. Giai đoạn đầu của khóa tu là để xây nền móng, để vượt qua những khó khăn thô lậu, những loại trở ngại không cho bạn ngồi yên trong một tiếng đồng hồ. Những khó khăn đó có lẽ cũng đã được ta vượt qua hết một phần nào rồi. Tâm ta đã tĩnh lặng xuống. Nó bắt đầu thẳm thấu, bắt đầu quán chiếu và thấy được tiến trình làm việc của thân tâm. Trí tuệ đang trưởng thành. Sự biến đổi của thân tâm rất khó có thể nhận diện được, vì nó thay đổi một cách vô tri giác trong mỗi giây phút. Nhưng sự tu tập đang dần dần trở nên thâm thúy. Trong thời gian còn lại, chúng ta hoàn tất nhiều lắm. Lúc này ta phải biết vận dụng năng lực để giữ cho tâm mình đừng rơi vào tình trạng mê ngủ, hôn trầm. 

Một lần nữa, ta hãy nhất quyết duy trì một sự thinh lặng. Thinh lặng là cội nguồn của sức mạnh. Nó tạo nên một sự trong sáng, nhờ vậy mà mọi hình trạng của tâm đều có thể được hiển bày rõ ràng. Nếu cứ mỗi lần những bồn chồn, lười biếng, uể oải trong ta khởi lên, ta lại mở miệng để nói, thì ta sẽ mất đi một dịp để quán chiếu chúng. Sự thinh lặng giúp cho ta ý thức được những gì đang xảy ra, những thăng và trầm. Mục đích của thiền quán không phải là để ngồi yên với sự an lạc trong một tháng trời. Nhưng là để kinh nghiệm được sự nhất như của thân và tâm. Kinh nghiệm một cách trọn vẹn mọi đau nhức, mọi cảm giác an lạc, tất cả những uể oải, buồn chán và những khi tâm ta đạt được một sự tập trung sắc bén. Sự thinh lặng tạo cho ta một không gian tĩnh mịch, để cho ta có thể quán sát được các hiện trạng này. Nói chuyện nhiều sẽ tạo nên một vòng xoắn ốc đi xuống. Khi ta bất an, ta bắt đầu nói chuyện, sự nói chuyện khiến cho ta mất định lực và vì vậy tâm ta lại càng thêm bất an. Tinh tấn, nghị lực và tạo một không gian tĩnh lặng chung quanh mình sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh cho sự tu tập. Ðâu ai có thể biết chắc được chừng nào ta mới lại có một dịp tu tập như thế này. Trong hoàn cảnh này chúng ta đang có những điều kiện rất là đặc biệt. Nơi đây rất là lý tưởng để ta có thể thám hiểm vào chính mình, tìm thử coi ta thật sự là ai. Ðừng lãng phí đi cơ hội quí báu này. 

Một yếu tố nữa có thể giúp ta gia tăng chánh niệm là từ tốn lại, chậm lại. Hành động một cách chậm rãi. Hãy coi mỗi hành động của ta trong ngày như là một đối tượng của thiền quán. Từ khi vừa mới thức dậy cho đến khi đi ngủ, ghi nhận mọi việc xảy ra một cách rõ ràng và sáng suốt: trong mỗi hành động khi tắm rửa, khi thay đồ, khi ăn uống. Chúng ta bấy lâu nay có thói quen làm việc gì cũng phải vội vã, đổ nhào tới giây phút tương lai, lao vào một hoạt động kế tiếp lúc nào cũng ở trong một giai đoạn chuyển dịch, nối tiếp. Hãy cố gắng an trú trong giây phút hiện tại này. Không có gì đáng để cho ta phải vội vã hết. Không có một nơi chốn nào để đi đến cả. Mục đích của chúng ta ở đây là để vun xới khả năng ghi nhận những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Ðừng ép buộc, cũng đừng nỗ lực quá. Hãy an trú trong giây phút này, đừng toan tính hay dự liệu một cái gì trong tương lai. Giữ tâm mình cho được thoải mái, nhưng với một chánh niệm sâu sắc. Tâm ta sẽ dần dà thâm nhập vào những trình độ sâu thẳm hơn. Sự thinh lặng và thái độ từ tốn không những chỉ giúp ích cho chính mình, mà còn cho những người chung quanh ta nữa. Khi chúng ta thấy một người nào đó đang vội vã, nó sẽ khơi dậy tính hấp tấp trong ta. Và khi ta thấy một người hành động khoan thai, có chánh niệm, tự nhiên ta cũng sẽ giữ chánh niệm. Hãy ý thức được giá trị và ích lợi của mình đối với những người khác. Khóa tu là một sự quân bình thật đẹp: tự tu trong thinh lặng và tĩnh mịch, nhưng cũng vừa tạo một môi trường giúp đở cho cả nhóm.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01| 02 | 03 | 04 | 05

 

Source: Thư viện Hoa Sen, http://www.thuvienhoasen.org

[Trở về trang Thư Mục]
last updated:
15-12-2003