(1) Giới kinh ở đây là Tỷ-kheo giới bản
và Tỷ-kheo ni giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp nữa. Có
trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng
của 7 đức Phật nói Giới kinh.
(2) Chính văn là thánh pháp tài (tài sản
chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh tài. Thánh tài có 7
thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì gọi là
thánh nhân (kinh Niết bàn).
(3) Tỷ-kheo ni giới có 7 loại: 1. khiắ,
có 8; 2. tăng tàn, có 17; 3. xả đọa, có 30; 4. đọa, có 178; 5. hối
quá, có 8; 6. học, có 100; 7. diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa
ra 3 loại, là nói tắt.
(4) Dịch đúng chính văn là nói việc ấy
cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật đều nói
Giới kinh.
(5) Giới luật của dị giáo, ngoại đạo.
(6) Ðại khái gửi lời thưa rằng mình cũng
muốn bố-tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi phạm giới nào.
(7) Chính văn là thời đáo, có nghĩa
đến lúc, đúng lúc, thì gian thích hợp.
(8) Chỉ cho 37 giác phần, đặc biệt chỉ
cho 8 chánh đạo trong đó.
(9) Chính văn là trì, có nghĩa nắm giữ
trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.
(10) Dịch nghĩa là khí (bị bỏ ra ngoài tăng
chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến thắng).
(11) Sự dâm dục, Luật gọi là phi phạn
hạnh, là bất tịnh hạnh.
(12) Không được cùng tăng chúng kiết-ma
và thuyết giới.
(13) Là hẹn chỗ để hành dâm. Chính
do sự này mà phạm trọng tội.
(14) 1. Chính văn là phạm tùy cử cố. Dịch
như đã dịch mà không tự tín chính xác. 2. Từ giới thứ 5 xuống đến
giới này có sự bất thường. Là cuối mỗi giới có thêm 1 câu. Những câu
này quả là không cần thiết, nên bản Nguyên chiếu lược bỏ.
(15) Dịch nghĩa là tăng tàn, là phạm những
tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước 40 vị
Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni, không thì cũng như phạm tội ba-la-di.
(16) Loại tăng tàn của Tỷ-kheo ni có sự
bất thường. Là trong 17 giới, 9 giới trước ghi thêm sơ pháp ưng xả, 8 giới
sau ghi thêm tam pháp ưng xả. Trùng trị cắt nghĩa sơ pháp là mới làm là
phạm (nói cách khác, mới phạm là thành tội), ưng xả là phải bỏ mà đừng
phạm; tam pháp là can gián đến lần thứ 3 mà không bỏ mới là phạm (nói
cách khác, sau 3 lần can gián mới thành tội), ưng xả cũng là phải bỏ mà
đừng phạm. Sơ pháp với tam pháp, cắt nghĩa như vậy là chính xác, còn ưng
xả thì không rõ cắt nghĩa như vậy có chính xác không. Vì 2 câu này chỉ có
Trùng trị cắt nghĩa, nên tôi dịch theo sách ấy.
(17) Chính văn là chủng tánh (dòng họ,
giai cấp, thành phần xã hội).
(18) Nhiễm thực là thức ăn xuất từ nhiễm
tâm (tâm ô nhiễm: tâm dâm dục).
(19) Ðủ thì phải nói phá hoại tăng hòa
hợp mà còn chống lại sự can gián. Tăng hòa hợp là 4 vị Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo ni sắp lên, cùng kiết-ma và cùng tụng giới.
(20) Là cùng học đức Phật bổn sư: đức
Thích-ca.
(21) Ðủ thì phải nói hỗ trợ phá tăng
hòa hợp mà còn chống lại sự can gián.
(22) Ðủ thì phải nói làm hoen ố tín đồ
mà còn chống lại sự can gián.
(23) Làm hoen ố tín đồ, chính văn là ô tha
gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thức mà đứng đầu là đem vật
của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý người nào cũng
không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn ra
từ sự ô tha gia.
(24) Hoan hỷ, chính văn là
"ma-na-đỏa", dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh
chư ni, chân thành ân hận, làm cho chư ni hoan hỷ mà mình cũng hoan
hỷ.
(25) Chính văn chỉ có Tỷ-kheo ni. Như
vậy là không chỉnh, nên phải bổ túc Tỷ-kheo.
(26) Trường hợp, chính văn là thời. Tra 4
bộ Luật khác mới biết chữ ấy, ở đây và nhiều chỗ sau đây, có
nghĩa là trường hợp.
(27) Dịch nghĩa là xả đọa, là xả thí
những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc
ác đạo.
(28) Y công đức (ca-thy-na y) là y được xét
thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7
đến 15/12) được hưởng 5 sự mà Luật đã định.
(29) Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay
và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Vạn 70/346 nói trường y là y dư thừa, hễ
vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.
(30) Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong
sạch. Tịnh thí ở đây là Tỷ-kheo ni có thừa những vật dụng (như y, bát,
v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là
đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là
triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người
mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói : Ðại tỷ đã
cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy ; đại tỷ nên cất giữ
giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.
(31) 5 y là An-đà-hội, Uất-đa-la-tăng,
Tăng-già-lê, tăng-kỳ-chi, phú-kiên ; 5 y là của Tỷ-kheo ni dùng. Cũng nên
biết chữ Y trong Luật có khi chỉ cho y, có khi chỉ cho áo, quần, khăn v/v,
có khi chỉ cho vải.
(32) Kiết-ma, dịch nghĩa là tác pháp
biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do cả tăng quyết định mới
thành tựu, đó gọi là kiết-ma. Kiết-ma có đan bạch, bạch nhị và
bạch tứ. Ðan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần
tuyên cáo (tác bạch, bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp
những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải
1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan
trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng kiết-ma có 4
loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị
hay 40 vị cho sự xử tội tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được,
thiếu đi thì không được.
(33) Ðáng lẽ phải nói 5 y có cái cũ và
hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỷ-kheo ni y Tăng già lê bị cũ và
hỏng.
(34) Lời xin tùy ý là thí chủ có lời
xin nói trước rằng người nhận lãnh muốn sao cũng được.
(35) Chính văn là khẩu khả thọ, dịch
nhận lấy bằng cách miệng nói được, là theo Danh nghĩa (Vạn 70/347).
(36) Ðáng lẽ giới này nên nói đổi chác
(mậu) thì đúng hơn, vì bán mua thì là giới thứ 11.
(37) Chính văn là muội.
(38) Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3
tháng kiết hạ an cư ; 10 ngày ấy là 6/7 đến 15/7.
(39) Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội
vàng nói trên, thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không
thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công
đức y.
(40) Giới này đến giới 23 rõ ràng có
thể làm 1 giới thôi. Phải dịch rất sát tên giới, là để thấy khác
nhau.
(41) Trường bát, có ý kiến nói là
bát dư thừa.
(42) Bịnh y ở đây là vải dùng lúc hành
kinh.
(43) Thời y và phi thời y. Y đây cũng có
thể là vải. Coi giới thứ 3 thì biết. Thời y (y đúng thời) là y có
trong thì gian 1 tháng (16/7-15/8) hoặc 5 tháng (16/7-15/12). Phi thời y (y trái
thời) là y có trong thì gian không phải thì gian của thời y.
(44) Tấm ở đây nhỏ thì rộng 2 khuỷu
tay, lớn thì bằng y ca sa (Vạn 70/348). Áo dày là áo chống lạnh.
(45) Áo mỏng cũng nên dịch áo nhẹ, là áo
chống nóng.
(46) Ba-dật-đề dịch nghĩa là đọa,
là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị
đọa lạc.
(47) Coi lại ghi chú 17.
(48) 5, 6 lời, cũng có thể dịch là pháp
số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô thường).
(49) Cây cối là chỗ ở của quỉ thần và
sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ túc.
(50) Giường giây là lòng giường đan sợi
mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.
(51) Không phải giờ ăn (phi thời) là kể
từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.
(52) Dịch rõ là thức ăn mà mình không hay
chưa nhận lời mời, hoặc thuốc cũng không hay chưa nhận lời mời, mà đã bỏ
vào miệng.
(53) Bữa ăn trước là trời sáng cho đến
giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.
(54) Nhà ăn (thực gia) và vật báu ở đây
có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông thường. Nghĩa thông
thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc nói bóng
người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà là nhà có chồng vợ, ăn là chồng
vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau (và vật báu có thể chỉ có nghĩa là
trong nhà ấy có chỗ cho chồng vợ hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như
vậy mà họ mời ăn rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất
là cho người chồng.
(55) Dịch rõ là khơi lại 4 sự tranh cãi. Sự
tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn luận giới pháp; 2,
mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi ; 3, phạm tranh, là tranh cãi
về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc
kiết-ma. Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách diệt
tránh. Khi kiết-ma diệt tránh rồi mà ai còn khêu gợi lại thì phạm
ba-dật-đề.
(56) Ðâu la là bông của mọi thứ cây
cỏ, trong đó có bông gòn, bông vải, và kén tằm hoang.
(57) Ðúng chính văn thì chỉ nói tỏi. Nhưng
thật ra là nói 5 vị tân. Nên phải dịch các thứ tỏi.
(58) Tác tịnh ở đây là làm vệ sinh bộ
phận sinh dục. Ðặt giới hạn như vậy là phòng tự kích thích, phòng thói thủ
dâm.
(59) Xin lúa, mè, gạo, đậu, v/v. Ấy là
nói sự xin xỏ không chán, không biết xấu hổ.
(60) Và các trò chơi khác. Kỷ nhạc là
diễn tấu nhạc khí, là hòa nhạc; có chỗ kỷ nhạc là diễn kịch hòa
nhạc.
(60b) Chính văn là bất sinh Phật pháp trung.
Không sinh trong Phật pháp là không sinh vào trong gia đình tin Phật, không
sống trong Phật pháp bằng cách xuất gia hay tại gia.
(61) Như trời lạnh mà chỉ có 1 chăn.
(62) Như vì việc của Tam bảo, vì
việc của Tỷ-kheo ni bịnh, thì kiết hạ an cư cũng được tác pháp
xuất giới 7 ngày.
(63) Vì tín đồ vốn chỉ xin cúng dường mùa
an cư mà thôi.
(64) 6 nạn là không có kéo, kim, chỉ, vải
không đủ, chủ y phá giới, tính mạng bị nạn.
(65) 5 ngày coi sóc 1 lần.
(66) Vì đui, điếc, còng, què, v/v.
(67) Là 10 năm sau khi xuất gia và 2 năm
Thức-xoa. Không phải 12 năm là năm sinh. (Trùng trị, Vạn 63/300A).
(68) Dâm nữ, tư thông, v/v.
(69) Là giáo pháp và cơm áo.
(70) Chính văn nói 12 năm, nhưng chính trong
Tứ phần luật thì nói 1 năm, hay nói 12 tháng. Như vậy có thể suy ra
mỗi năm độ 1 người là nhiều rồi.
(71) Dịch đủ thì còn cá và thịt. Nhưng
đó là tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy), nên ở đây phải lược.
(72) Chính văn là gia. Theo cước chú của
Vạn 64/102 thì là nhà của thí chủ. Nhưng cước chú của Tỷ-kheo ni giới
kinh thì gia ở đây đọc là cô (thái cô), nghĩa là bà thầy. Xét lý
do của giới này (Tứ phần, Chính 22/768) thì nghĩa thầy đúng hơn. Lý do
của giới này là Tỷ-kheo ni An ổn có 1 đệ tử là Tỷ-kheo ni
Ðề-xá. Hai thầy trò đến nhà thí chủ cũ. Thí chủ thấy An ổn y phục
tề chỉnh, oai nghi hoàn hảo, nên hoan hỷ cúng dường. Về chùa, An
ổn nói với Ðề-xá, rằng thí chủ này tín tâm chân thành, cúng dường
hảo ý. Ðề-xá có ý ganh ghét, nói thí chủ tín tâm chân thành,
cúng dường hảo ý, là cúng dường cho thầy!
(73) Vạn 64/102 nói mè đây là chi ma.
(74) Chính văn là chủ khỏa y, tức quần cụt,
quần đùi, quần lót, mà may lụa, độn dày, đính đồ đẹp. Mặc để làm
đẹp hạ thể. Bị cấm dùng. Nếu có bịnh thì mặc bịnh y rồi mặc quần.
(75) Nói đủ là tăng kỳ chi, là áo lót che
nách, ngực và eo.
(76) Thuật số ở đây, và ở dưới đây,
chính văn là kỹ thuật. Chữ này không chỉnh, vì ở đây là nói chú thuật,
lý số, và đó là tà mạng nên Luật cấm.
(77) Tra cứu Tứ phần (Chính 22/777) và Trùng
trị (Vạn 63/303), thì lắc mình rảo bước (dao thân xu hành) có thể
hiểu đi mà nhún nhảy. Coi phần khai của giới này thì đủ để hình
dung. Phần ấy nói hoặc vốn có bịnh như vậy, v/v, hoặc muốn làm cho y áo
tề chỉnh, nên nhìn phải nhìn trái, ngoái mình mà nhìn, không phạm.
(78) Chính văn là tác, vừa có nghĩa sử
dụng, vừa có nghĩa sắm sửa. Ở đây có cả 2 nghĩa, mà nghĩa sử dụng
nhiều hơn, còn nghĩa sắm sửa thì là giới 157.
(79) Dịch nghĩa là hướng bỉ hối, là những
giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỷ-kheo ni.
(80) Danh nghĩa (Vạn 70/273) nói từ bò mà ra
là nhủ, từ nhủ mà ra là lạc, từ lạc mà ra là sanh tô, từ sanh tô mà ra là
thục tô, từ thục tô mà ra là đề hồ. Ðó là nói về sữa bò và 4
cách chế biến về sữa ấy. Bốn cách này khó dịch và biết cho
rõ, vì xưa khác nay khác, xứ khác, tên khác. Nên ở đây tôi để nguyên
chữ tô và chữ lạc, và gọi là sữa tô, sữa lạc.
(81) Coi lại ghi chú 71. Nhưng ở đây không
thể lược bỏ.
(82) 1. Như đã nói trong lời tựa, 100 giới
này tôi không dịch tên. 2. 100 giới này hoàn toàn y như Tỷ-kheo giới, chỉ
có không hơn vài chỗ khác chữ mà cùng nghĩa.
(83) Xuống dòng như vậy là có ý sắp
loại các giới điều này.
(84) Chính văn là tôn tọa. Tôn, các bản
ghi chú đều nói là ngồi mà tiếng thông tục của ta gọi là ngồi
chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói là ngồi xoạc đùi. Tôi chọn nghĩa này.
(85) Ðể khỏi rơi đồ ăn xuống.
(86) Chính văn là canh, nhưng rõ ràng chữ
ấy ở đây là đồ ăn, chứ không phải chỉ là canh như thường nói. Do vậy
chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.
(87) Chú thích: ăn không tuần tự là ngay
trong bát mà đã lấy ăn lung tung.
(88) Dịch theo chú thích là một nửa vào
miệng, một nửa còn lại nơi tay.
(88b) Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà
thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai
cơm.
(89) Là 7 cách diệt trừ sự tranh cãi.
Bảy cách này, nếu chư ni có sự tranh cãi (coi ghi chú 55) thì phải dập
tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư ni có
lỗi, nhất là lỗi gây ra tranh cãi, thì hãy diệt tranh cãi ấy bằng
cách cho hiện diện (1), cho nhớ lại (2), cho tỉnh trí (3), cho tự xử (4),
cho tự xét (5), cho chung xét (6), cho qua loa (7). Nghĩa là bằng cách nào đó
có lý có tình mà đem lại sự phục thiện và hoan hỷ là tốt. Giới
của 7 cách này là sau khi diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì
phạm tội và bị trị.