|
(tiếp theo) II. Phần đầu Tỷ-kheo
Giới
Cúi đầu kính lạy
chư Phật, Phật pháp
và Tỷ-kheo tăng.
Nay tụng Giới kinh (1)
là để làm cho
Phật pháp thường còn.
Giới như biển cả
không có bờ mé,
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán.
Muốn giữ tài sản
của các Thánh giả (2)
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Muốn trừ bốn thứ
gọi là tội khí,
muốn diệt mười ba
tội lỗi tăng tàn,
muốn ngăn ba mươi
tội lỗi xả đọa (3),
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Ðức Tỳ-bà-thi,
cùng đức Thi-khí,
đức Tỳ-xá-phù,
đức Câu-lưu-tôn,
đức Câu-na-hàm,
cùng đức Ca-diếp
và đức Thích-ca,
chư Phật như vậy
đã thuyết Giới kinh (4) .
Nay tôi tụng lại
Giới kinh như vậy,
đại chúng cùng nghe.
Ví như có người
chân đã thương tổn
thì không thể nào
tự đi đến đâu,
người nào phá giới
thì cũng như vậy
không thể sinh trong
chư thiên nhân loại.
Muốn sinh chư thiên
hay sinh nhân loại,
thì phải giữ lấy
đôi chân giới pháp,
đừng để có điều
vi phạm thương tổn.
Như người đánh xe
đi vào đường hiểm
thì lo xe ấy
rơi chốt gãy trục,
người mà phá giới
thì cũng như vậy,
đối diện cái chết
lòng đầy lo sợ.
Như người soi gương
thấy đẹp thì thích
thấy xấu thì rầu,
tụng giới cũng vậy
giới toàn thì mừng
giới hỏng thì lo.
Hai quân đánh nhau
ai gan thì tiến
ai khiếp thì thoái,
tụng giới cũng vậy
trong sạch: yên tâm
dơ bẩn: lo sợ.
Trong cả mọi người
vua là hơn hết,
trong các dòng nước
biển là hơn hết,
trong các sao đêm
trăng là hơn hết,
trong các vị thánh
Phật là hơn hết,
trong các giới luật (5)
Giới kinh hơn hết,
nên đức Thế tôn
đã qui định rằng
cứ mỗi nửa tháng
phải tụng một lần.
Tăng hòa hợp (6) không? Ðáp: tăng hòa hợp.
Tăng tập hợp chưa? Ðáp: tăng tập hợp.
Người chưa thọ đại giới đã ra chưa?
Nếu có thì bảo ra và đáp: người chưa thọ đại giới đã ra; nếu
không thì đáp: trong đây không có người chưa thọ đại giới.
Các vị Tỷ-kheo không đến đây có
nói dữ dục và thanh tịnh (7) không? Nếu có thì đáp có và thưa đúng
cách, nếu không thì đáp trong đây không có người nói dữ dục và thanh
tịnh.
Chúng Tỷ-kheo ni phái ai đến? Nếu
có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây chúng
Tỷ-kheo ni không phái ai đến.
Hôm nay tăng hòa hợp để làm gì? Ðáp:
để Kiết-ma tụng giới.
Ðại đức tăng nghe cho, hôm nay là ngày 15,
ngày tăng bố-tát tụng giới, nếu tăng thấy đến lúc (8), tăng chấp
thuận, thì cử hành bố-tát tụng giới. Xin tác bạch như vậy. Tác bạch thành
không? Ðáp: thành (9) .
-oOo-
III. Tỷ-kheo Giới:
III.1 Lời Mở Ðầu
Bạch chư đại đức, nay tôi sắp tụng
Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha). Chư vị Tỷ-kheo cùng tập hợp một
chỗ. Chư vị hãy lắng nghe, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có
phạm giới thì phải tự sám hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng
mà biết chư đại đức thanh tịnh. Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như
vậy. Thế nên vị Tỷ-kheo ở trong đại chúng được hỏi đến lần
thứ 3, và nhớ nghĩ mình có tội, mà không sám hối, thì bị tội cố ý nói
dối. Mà nói dối thì Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (10) . Nếu
vị Tỷ-kheo nhớ nghĩ mình có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám
hối. Sám hối thì yên vui.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói
đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi chư đại đức, trong lời nói đầu ấy có thanh
tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong lời nói đầu ấy chư
vị thanh tịnh cả, vì chư vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (11) như
vậy.
III.2 Bốn Giới Khí
Bạch chư đại đức, 4 giới Ba-la-di - Parajika
(12) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ
trong giới kinh.
Thứ 1, giới đại dâm dục.- Nếu
Tỷ-kheo đồng giới pháp với Tỷ-kheo khác (12b), không xả giới, nhưng
giới kém mà không tự hối, phạm vào sự bất tịnh (13) cho đến cùng với
súc vật, thì phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống chung (14)
với chư tăng.
Thứ 2, giới đại trộm cắp. - Nếu
Tỷ-kheo ở trong xóm làng hay nơi vắng vẻ, lấy của người ta không cho với
ý thức ăn trộm; tùy tội lấy của không cho mà bị vua, hay đại thần của
vua, bắt, giết, trói, đuổi ra khỏi xứ, mắng rằng anh là giặc, anh ngu si,
anh không biết gì, thì phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống
chung với chư tăng.
Thứ 3, giới đại sát hại. - Nếu
Tỷ-kheo cố ý tự tay sát hại mạng người, hoặc cầm dao đưa cho người,
hoặc khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, rằng quái lạ, anh
kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà chết, đừng sống; với ý thức
như vậy mà nghĩ mọi cách để khen ngợi sự chết, khuyến khích
sự chết, thì phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống chung với
chư tăng.
Thứ 4, giới đại vọng ngữ.-
Nếu Tỷ-kheo thật không biết gì mà tự xưng tôi được pháp của
bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu việt của thánh trí, tôi
biết như vậy, tôi thấy như vậy; qua thì gian khác, hoặc được hỏi hoặc
không được hỏi, mà muốn tự thanh tịnh nên nói rằng tôi thật không thấy
không biết gì mà nói biết nói thấy, thì, trừ tăng thượng mạn (15),
phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống chung với chư tăng.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới
ba-la-di. Nếu Tỷ-kheo phạm vào mỗi một ba-la-di, thì không còn
được sống chung với chư tăng. Như khi chưa thọ đại giới, thọ đại
giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên Tỷ-kheo bị tội ba-la-di thì không
nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi chư đại đức, trong 4 giới ấy
có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 4 giới ấy các
vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như
vậy.
III.3 Mười Ba Giới
Tăng Tàn
Bạch chư đại đức, 13 giới tăng-già
bà-thi-sa - Sanghadisesa (16) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng
một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới cố làm xuất tinh.- Nếu
Tỷ-kheo cố ý lộng âm xuất tinh (17) thì, trừ chiêm bao, phạm tăng-già
bà-thi-sa.
Thứ 2, giới chạm thân nữ nhân.-
Nếu Tỷ-kheo với ý thức dâm dục mà chạm nhau với thân nữ nhân,
hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc chạm vào mỗi một thân phần, thì phạm
tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 3, giới nói năng thô tục (18) .-
Nếu Tỷ-kheo với ý thức dâm dục mà nói năng thô tục dâm đãng
với nữ nhân; nói năng thô tục dâm đãng thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 4, giới đòi hiến dâm dục (19)
.- Nếu Tỷ-kheo với ý thức dâm dục mà đối diện với nữ nhân
tự ca tụng mình, rằng cô em, tôi tu phạn hạnh, giữ giới, tinh tiến, tu các
thiện pháp; cô em hãy đem sự dâm dục mà hiến cho tôi, hiến như
vậy là hơn hết, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 5, giới làm người mai mối.-
Nếu Tỷ-kheo qua lại đôi bên để làm mai mối, đem ý người nam
nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, để làm cho
họ lấy nhau hay tư thông với nhau, thì dầu chỉ chốc lát cũng phạm
tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 6, giới làm nhà quá mức (20).-
Nếu Tỷ-kheo tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho
mình, thì phải làm đúng mức. Mức ở đây là dài bằng 12 gang tay của Phật,
rộng bằng 7 gang tay của Ngài. Lại phải thỉnh chư Tỷ-kheo chỉ định nơi
chỗ. Chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng
ngại. Nếu Tỷ-kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà tự tìm cách
làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, không thỉnh chư Tỷ-kheo
chỉ định nơi chỗ, lại làm quá mức, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 7, giới không thỉnh chỉ định (21)
.- Nếu Tỷ-kheo muốn làm nhà lớn mà có thí chủ, làm cho mình, thì
phải thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ định nơi chỗ. Chư Tỷ-kheo nên
chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỷ-kheo
nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà làm nhà lớn, có thí chủ, làm cho
mình, nhưng không thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ định nơi chỗ, thì
phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 8, giới vu khống phỉ báng (22) .-
Nếu Tỷ-kheo vì tức giận, đối với vị Tỷ-kheo không phạm tội
ba-la-di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng vị ấy phạm tội ba-la-di, phỉ báng
với ý thức muốn phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; rồi trong thì gian
khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỷ-kheo biết đó là sự phỉ
báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy.
Tỷ-kheo phỉ báng như vậy thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 9, giới xuyên tạc phỉ báng (23) .-
Nếu Tỷ-kheo vì tức giận nên lấy một cạnh khía của việc khác,
đối với vị Tỷ-kheo không phạm ba-la-di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng
rằng phạm tội ba-la-di, với ý thức phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy;
đến thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỷ-kheo ấy
biết mình lấy một cạnh khía của việc khác, tự nói vì tôi tức giận
nên phỉ báng như vậy, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 10, giới phá tăng hòa hợp (24) .-
Nếu Tỷ-kheo muốn phá hoại tăng hòa hợp (25) nên hành động mọi
cách phá hoại tăng hòa hợp, chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp
mà kiên trì không bỏ. Các vị Tỷ-kheo nên can gián Tỷ-kheo ấy, rằng
đại đức, đừng phá hoại tăng hòa hợp, đừng hành động mọi cách phá
hoại tăng hòa hợp, đừng chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà
kiên trì không bỏ. Ðại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh
chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp
sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Tỷ-kheo ấy khi được can gián như vậy
mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên can gián đến lần
thứ 3, vì để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần
thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 11, giới hỗ trợ phá tăng (26)
.- Nếu Tỷ-kheo ấy có phe cánh, một Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo, ba
Tỷ-kheo cho đến vô số Tỷ-kheo; những Tỷ-kheo phe cánh này nói
với các vị Tỷ-kheo, rằng chư đại đức, xin đừng can gián Tỷ-kheo ấy,
Tỷ-kheo ấy là Tỷ-kheo nói đúng giáo pháp, Tỷ-kheo nói đúng giới
luật, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi
chấp nhận. Các vị Tỷ-kheo trả lời: các đại đức, đừng nói như vậy,
rằng Tỷ-kheo ấy là Tỷ-kheo nói đúng giáo pháp, Tỷ-kheo nói đúng
giới luật, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỷ-kheo ấy nói chúng
tôi chấp nhận. Bởi vì Tỷ-kheo ấy không phải là Tỷ-kheo nói đúng
giáo pháp, không phải là Tỷ-kheo nói đúng giới luật. Các đại đức,
đừng có ý muốn phá hoại tăng hòa hợp; các đại đức, hãy thích thú
tăng hòa hợp. Các đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh
chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp
sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Những Tỷ-kheo ấy khi được can gián
như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên can gián
đến lần thứ 3, vì để những Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi.
Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già
bà-thi-sa.
Thứ 12, giới hoen ố tín đồ (27) .-
Nếu Tỷ-kheo sống trong xóm làng hay thành thị mà làm hoen ố tín đồ
và làm những việc xấu (28), làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm
những việc xấu ai cũng thấy nghe. Các vị Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo
ấy, rằng đại đức, đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc
xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng
thấy nghe; đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu thì
nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở đây nữa. Tỷ-kheo ấy nói
với các vị Tỷ-kheo, với lời nói như vầy: chư đại đức, các vị có tham,
có sân, có si, có sợ; có cái việc những Tỷ-kheo đồng tội mà người
bị đuổi người không bị đuổi. Các vị Tỷ-kheo can rằng, đại đức, đừng
nói như vậy, rằng chư Tỷ-kheo có tham, có sân, có si, có sợ, có cái
việc những Tỷ-kheo đồng tội mà người bị đuổi người không bị
đuổi. Bởi vì chư Tỷ-kheo không tham, không sân, không si, không sợ. Ðại
đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ
ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Tỷ-kheo ấy khi
được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo
nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy
đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già
bà-thi-sa.
Thứ 13, giới ngoan cố chống cự (29) .-
Nếu Tỷ-kheo tính tình ngoan cố, không nghe ai hết; trong giới luật,
các vị Tỷ-kheo đã can gián đúng phép mà bản thân Tỷ-kheo ấy không
chịu sự can gián ấy, bằng cách nói rằng: chư đại đức, đừng hướng về
tôi mà nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi cũng không hướng về chư đại đức
mà nói các ngài tốt hay các ngài xấu. Chư đại đức hãy thôi đi, đừng
luôn luôn can gián tôi. Các vị Tỷ-kheo can gián Tỷ-kheo ấy, rằng đại
đức, đừng nên chính mình không chịu ai can gián. Ðại đức nên chính mình
chịu can gián. Ðại đức hãy can gián chư Tỷ-kheo một cách đúng phép,
chư Tỷ-kheo cũng can gián đại đức một cách đúng phép. Làm như vậy thì
đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho nhau, chỉ dạy cho nhau,
sám hối với nhau. Tỷ-kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì
không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để
Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì
tốt, không bỏ thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 13 giới
tăng-già bà-thi-sa mà 9 giới trước thì mới phạm là thành tội, 4 giới sau
thì sau lần can gián thứ 3 mới thành tội. Nếu Tỷ-kheo phạm mỗi một
giới, biết mình phạm mà cố che giấu, thì chư tăng phải buộc Tỷ-kheo
ấy thi hành phép sống riêng (30) . Thi hành phép sống riêng rồi phải thi hành
thêm phép hoan hỷ (31) trong 6 đêm ngày. Thi hành phép hoan hỷ rồi chư
tăng giải tội cho. Phải giữa 20 vị Tỷ-kheo mà giải tội cho Tỷ-kheo ấy;
nếu thiếu 1 vị, không đủ 20 vị Tỷ-kheo, thì có giải tội đi nữa,
tội của Tỷ-kheo ấy cũng không giải được, mà chư tăng cũng đáng
khiển trách. Ðó là trường hợp (32) này. Nay xin hỏi chư đại đức, trong
13 giới tăng-già bà-thi-sa ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư
đại đức, trong 13 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng.
Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.4 Hai Giới Bất
Ðịnh
Bạch chư đại đức, 2 giới bất định - Aniyata
(33) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ
trong Giới kinh.
Thứ 1, giới ngồi ở chỗ khuất .-
Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân ngồi riêng ở chỗ khuất, chỗ che,
chỗ ngăn, chỗ có thể hành dâm, mà nói những lời phi giới pháp.
Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm (34), nói Tỷ-kheo ấy phạm 1 trong 3
tội sau đây, tội ba-la-di, tội tăng-già bà-thi-sa, tội ba-dật-đề;
Tỷ-kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1
trong 3 tội sau đây, tội ba-la-di, tội tăng-già bà-thi-sa, tội ba-dật-đề.
Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội
Tỷ-kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.
Thứ 2, giới ngồi ở chỗ trống.-
Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân ngồi ở chỗ trống, chỗ không thể
hành dâm, mà nói thô tục. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói
Tỷ-kheo ấy phạm 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng-già bà-thi-sa, tội
ba-dật-đề; Tỷ-kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì
phải trị theo 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng-già bà-thi-sa, tội
ba-dật-đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà
trị tội Tỷ-kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất
định.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 2 giới bất
định. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 2 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi
3 lần). Bạch chư đại đức, trong 2 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị
cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.5 Ba Mươi Giới
Xả Ðọa
Bạch chư đại đức, 30 giới ni-tát-kỳ
ba-dật-đề - Nissaggiya pacittiya (35) sau đây, cứ mỗi nửa tháng
thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới cất y quá hạn.- Nếu
Tỷ-kheo 3 y (36) đã hoàn chỉnh, y công đức (37) đã xả, mà cất giữ
trường y (38), thì không làm tịnh thí (39) cũng được cất giữ, nhưng quá 10
ngày thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 2, giới rời y mà ngủ.- Nếu
Tỷ-kheo 3 y hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 3 y rời 1 y ngủ khác
chỗ (39b), thì, trừ được tăng Kiết-ma (40) cho phép, phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 3, giới cất vải quá hạn.- Nếu
Tỷ-kheo 3 y hoàn chỉnh (41), y công đức đã xả, nhưng Tỷ-kheo ấy
được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau thành.
Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1
tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 4, giới lấy y không thân (42) .-
Nếu Tỷ-kheo lấy y của Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của
mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 5, giới bảo giặt y cũ (43) .-
Nếu Tỷ-kheo bảo Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình giặt
y cũ, hoặc nhuộm hoặc vỗ, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 6, giới xin người y mới (44) .-
Nếu Tỷ-kheo xin y mới nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân
quyến của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy
gọi là trường hợp khác.
Thứ 7, giới lấy vải quá phận.-
Nếu Tỷ-kheo y bị mất, bị cướp, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ
hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều
vải, thì Tỷ-kheo ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu
nhận nhiều hơn thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 8, giới xin thêm tiền y (45) .-
Nếu Tỷ-kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỷ-kheo
ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho Tỷ-kheo tên
như vậy. Tỷ-kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (45b) vậy mà
vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm,
cư sĩ, hãy vì tôi mà mua sắm cái y như vậy cho tôi. Như vậy mà được y
thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 9, giới khuyên chung tiền lại
(46) .- Nếu Tỷ-kheo có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho
Tỷ-kheo ấy, nói rằng mua y như vậy để cúng cho Tỷ-kheo tên như
vậy. Tỷ-kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn
được y tốt nên đến 2 nhà cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm
tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y
thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 10, giới đòi y quá hạn.- Nếu
Tỷ-kheo có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người
đưa số tiền sắm y đến cho Tỷ-kheo ấy, nói rằng hãy cầm tiền
sắm y này đến đưa cho vị Tỷ-kheo tên như vậy. Người được phái
đến chỗ Tỷ-kheo ấy, nói với Tỷ-kheo ấy, rằng bạch đại đức,
nay con đem tiền sắm y đến cho ngài, xin ngài nhận lấy. Tỷ-kheo ấy
nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số
tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng và thanh tịnh mới
nhận được. Người được phái nói với Tỷ-kheo ấy, rằng bạch đại đức,
ngài có người giúp việc không? Tỷ-kheo ấy nói có; có người ở trong
chùa kia, có người nam cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của
các Tỷ-kheo, thường giúp việc cho các ngài. Bấy giờ người được
phái đi đến nơi người giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở
lại chỗ Tỷ-kheo ấy, nói như vầy: bạch đại đức, người giúp việc
tên như vậy, mà ngài đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y.
Khi nào đại đức thấy đúng lúc thì xin ngài đến người ấy, sẽ sắm
được y. Tỷ-kheo ấy khi cần y thì nên đến người giúp việc mà,
lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi
cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy nhớ mà được y
thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu,
hãy yên lặng đứng trước người ấy; nếu lần thứ tư, lần thứ năm, lần
thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu không
được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái
người đi, đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây
người phái người đem tiền sắm y đến cho tôi, Tỷ-kheo tên như
vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng
để mất đi. Ðó là trường hợp có thể làm.
Thứ 11, giới ngọa cụ tơ tằm.-
Nếu Tỷ-kheo kiếm tơ tằm xen với tơ lụa mà làm ngọa cụ mới,
thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 12, giới ngọa cụ lông đen.-
Nếu Tỷ-kheo lấy lông dê mới và toàn đen mà làm ngọa cụ mới, thì
phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 13, giới ngọa cụ lông trắng.-
Nếu Tỷ-kheo làm ngọa cụ mới thì nên dùng lông dê mà 2 phần màu
đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn; nếu Tỷ-kheo ấy không
dùng 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn (46b) mà làm
ngọa cụ mới, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 14, giới ngọa cụ còn mới (47)
.- Nếu Tỷ-kheo thì làm ngọa cụ mới, phải dùng đến 6 năm.
Nếu dưới 6 năm, không xả bỏ cái cũ mà thay vào đó làm cái mới, thì,
trừ tăng Kiết-ma cho phép, phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 15, giới tọa cụ toàn mới (48)
.- Nếu Tỷ-kheo làm tọa cụ mới thì phải lấy 1 miếng tọa cụ
cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho
hỏng màu sắc đi. Nếu làm tọa cụ mới mà không lấy 1 miếng tọa
cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho
hỏng màu sắc đi, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 16, giới cầm lông quá hạn (49) .-
Nếu Tỷ-kheo đi đường được lông dê, không có ai cầm giúp, thì mình
được phép cầm lấy, nhưng cầm đi cho đến 3 do tuần mà thôi. Nếu
không có ai cầm giúp, mình tự cầm lấy mà đi quá 3 do tuần, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 17, giới nhờ giặt lông dê (50) .-
Nếu Tỷ-kheo bảo Tỷ-kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm và
vỗ giúp lông dê, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 18, giới cầm lấy tiền của (51)
.- Nếu Tỷ-kheo tự tay cầm lấy tiền, cầm lấy bạc vàng, hoặc bảo
người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách bảo để xuống mặt đất, thì
phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 19, giới đổi chác tiền của
(52) .- Nếu Tỷ-kheo mà đổi chác (53) các thứ tiền và của báu, thì
phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 20, giới buôn bán các thứ.-
Nếu Tỷ-kheo mà mua rẻ bán đắt mọi thứ, thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 21, giới cất bát quá hạn.-
Nếu Tỷ-kheo cất giữ trường bát (53b) mà không tịnh thí, thì chỉ
được phép cất giữ 10 ngày. Quá thì hạn ấy thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 22, giới kiếm bát quá phận.-
Nếu Tỷ-kheo dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng
chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Tỷ-kheo ấy nên đến giữa chư tăng mà xả bỏ
bát mới ấy, và chư tăng tuần tự lấy cái bát của người thấp nhất (53c)
đưa cho Tỷ-kheo ấy dùng, và dùng cho đến bể. Ðó là đúng
trường hợp.
Thứ 23, giới kiếm chỉ dệt y
(54) .- Nếu Tỷ-kheo tự xin chỉ dệt, bảo thợ dệt không phải thân
quyến của mình dệt y giúp, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 24, giới bảo thợ dệt thêm (55)
.- Nếu Tỷ-kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho
Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi
đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh
dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều ít
gì tôi cũng sẽ trả cho anh. Tỷ-kheo ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng
giá một bữa ăn mà được y, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 25, giới đoạt lấy y lại.- Nếu
Tỷ-kheo trước cho y Tỷ-kheo khác, sau vì tức giận nên tự đoạt lại,
hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa.
Tỷ-kheo kia trả y, mà Tỷ-kheo ấy lấy y, thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 26, giới cất thuốc quá hạn (56) .-
Nếu Tỷ-kheo có bịnh, thì thuốc dư như sữa tô, dầu, sữa tô tươi,
mật ong, đường phèn, được dùng trong thì hạn 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà
còn dùng thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 27, giới khăn tắm trước hạn (57)
.- Nếu Tỷ-kheo thì mùa xuân còn 1 tháng nên kiếm khăn tắm mưa,
còn nửa tháng nên dùng mà tắm. Nếu Tỷ-kheo mà trước kiết hạ hơn
1 tháng đã kiếm khăn tắm mưa, trước kiết hạ hơn nửa tháng đã dùng
mà tắm (58), thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 28, giới cất y cúng gấp (59) .-
Nếu Tỷ-kheo còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (60), chư
Tỷ-kheo được phép nhận y cúng vội vàng. Tỷ-kheo ấy biết là y
cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy
(61) . Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 29, giới rời y quá hạn (62) .-
Nếu Tỷ-kheo kiết hạ 3 tháng đã xong, sau đó 1 tháng ca-đề (63)
cũng hết, đến ở chỗ a-lan-nhã (64), mà là chỗ có sự nghi
ngại, khiếp sợ. Tỷ-kheo ấy ở chỗ như vậy, thì trong 3 y, muốn thì
gửi để 1 y trong nhà thôn xóm. Tỷ-kheo ấy có lý do như vậy thì
được phép rời y mà ngủ đến 6 đêm. Rời quá thì hạn ấy thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 30, giới xoay vật chư tăng (65) .-
Nếu Tỷ-kheo biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho chư
tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 30 giới
ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 30 giới ấy có thanh
tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 30 giới ấy các vị thanh
tịnh cả, vì các vị im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.6 Chín Mươi
Giới Ðọa
Bạch chư đại đức, 90 giới ba-dật-đề -
Pacittiya (66) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và
được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới cố ý nói dối.-
Nếu Tỷ-kheo biết (67) mà nói dối, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 2, giới chưởi mắng thành phần
(68) .- Nếu Tỷ-kheo đem thành phần xã hội ra mà chưởi mắng, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 3, giới nói để ly gián (69) .-
Nếu Tỷ-kheo nói ly gián thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 4, giới ngủ cùng một nhà (70) .-
Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân ngủ một nhà thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 5, giới ngủ quá thì hạn (71) .-
Nếu Tỷ-kheo cùng ngủ với người chưa thọ đại giới mà quá 2 đêm,
đến đêm thứ 3 thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 6, giới đọc tụng ồn náo (72)
.- Nếu Tỷ-kheo cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng
kinh pháp một cách ồn náo thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 7, giới nói tội lỗi nặng.-
Nếu Tỷ-kheo biết người có tội lỗi nặng mà đem nói với người
chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng Kiết-ma sai bảo, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 8, giới nói thật đắc đạo (73) .-
Nếu Tỷ-kheo nói với người chưa thọ đại giới, rằng tôi được
cái pháp hơn người, tôi thấy như vậy, tôi biết như vậy; nói thật như
vậy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 9, giới một mình thuyết pháp
(74) .- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp cho nữ nhân mà quá năm sáu lời
(75), thì, trừ sự có mặt của nam tử trí thức, phạm ba-dật-đề.
Thứ 10, giới đào cuốc đất đai.-
Nếu Tỷ-kheo tự tay đào đất hay bảo người đào đất thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 11, giới chặt phá cây sống.-
Nếu Tỷ-kheo chặt phá cây cối, có nghĩa phá hủy chỗ ở của quỉ
thần và sinh vật (76), thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 12, giới nói làm bực mình.-
Nếu Tỷ-kheo bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 13, giới ghét mắng tri sự.-
Nếu Tỷ-kheo ghét mắng chức sự của chư tăng thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 14, giới trải đồ đất trống (77)
.- Nếu Tỷ-kheo đem đồ của chư tăng như giường giây (78), giường
cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra trên mặt đất trống, hay bảo người
sắp ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai
xếp cất, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 15, giới trải đồ chỗ che (79)
.- Nếu Tỷ-kheo sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình
sắp ra hay bảo người sắp ra, rồi hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng khi đi thì không
tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 16, giới cưỡng chiếm chỗ nằm
(80) .- Nếu Tỷ-kheo biết chỗ của Tỷ-kheo ở trước, mình
đến sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra ngủ nghỉ, với ý
nghĩ rằng nếu Tỷ-kheo ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự tránh
mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ không có lý do gì khác.
Phi uy nghi như vậy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 17, giới lôi ra khỏi phòng.-
Nếu Tỷ-kheo tức giận, không ưa Tỷ-kheo khác, nên trong phòng hay
trong nhà của chư tăng mà tự mình lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 18, giới ngồi giường sút chân.-
Nếu Tỷ-kheo ở trong phòng hay trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường
giây hay giường cây sút chân, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 19, giới dùng nước có trùng.-
Nếu Tỷ-kheo biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất trên cỏ,
hay bảo người dội, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 20, giới lợp nhà quá mức.-
Nếu Tỷ-kheo làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ
trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 21, giới tự đi dạy ni.- Nếu
Tỷ-kheo chư tăng không sai phái mà tự đi giáo thọ cho Tỷ-kheo ni,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 22, giới thuyết pháp đến tối
(81) .- Nếu Tỷ-kheo được chư tăng sai phái đi giáo thọ cho
Tỷ-kheo ni, mà đi đến trời tối thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 23, giới phỉ báng giáo thọ.-
Nếu Tỷ-kheo nói với các Tỷ-kheo khác bằng lời nói như vầy: các
Tỷ-kheo chỉ vì sự ăn uống mà đi giáo thọ cho Tỷ-kheo ni, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 24, giới đem y cho ni (82) .-
Nếu Tỷ-kheo đem y cho Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình,
thì, trừ sự trao đổi, phạm ba-dật-đề.
Thứ 25, giới may y cho ni (83) .- Nếu
Tỷ-kheo may y cho Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 26, giới cùng ngồi với ni.-
Nếu Tỷ-kheo cùng với Tỷ-kheo ni ngồi ở chỗ khuất, ngăn, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 27, giới hẹn ni cùng đi.- Nếu
Tỷ-kheo hẹn với Tỷ-kheo ni đi chung một đường, thì dầu chỉ từ một
xóm đến một xóm, cũng vẫn, trừ trường hợp khác, phạm ba-dật-đề.
Trường hợp khác là đi với người đi buôn, hoặc đi mà có sự nghi ngại sợ
hãi, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 28, giới cùng ni đi thuyền.-
Nếu Tỷ-kheo cùng Tỷ-kheo ni hẹn nhau đi chung một thuyền ngược
dòng hay xuôi dòng thì, trừ trường hợp đi đò ngang qua sông, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 29, giới ăn của ni khuyên.-
Nếu Tỷ-kheo biết đồ ăn do Tỷ-kheo ni ca tụng khuyến hóa mà
có, mà vẫn ăn, thì, trừ trường hợp thí chủ có ý thỉnh trước, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 30, giới đi với nữ nhân.- Nếu
Tỷ-kheo cùng nữ nhân hẹn nhau đi một đường, thì dầu chỉ đi đến
một xóm cũng vẫn phạm ba-dật-đề.
Thứ 31, giới ăn quá một bữa.- Nếu
Tỷ-kheo có thí chủ chỉ cúng một bữa ăn, Tỷ-kheo ấy không bịnh thì
nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 32, giới ăn nhiều lần ăn.-
Nếu Tỷ-kheo ăn nhiều lần thì, trừ trường hợp khác, phạm
ba-dật-đề. Trường hợp khác là khi mình bị bịnh, khi có người dâng y,
đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 33, giới ăn riêng tăng chúng.-
Nếu Tỷ-kheo ăn riêng tăng chúng thì, trừ các trường hợp khác, phạm
ba-dật-đề. Các trường hợp khác là khi bịnh, khi may y gấp, khi có người
dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi sa môn
của ngoại đạo mời ăn, đó gọi là các trường hợp khác.
Thứ 34, giới nhận quá giới hạn (84) .-
Nếu Tỷ-kheo đến nhà cư sĩ có ý thỉnh Tỷ-kheo để cúng
bánh, miến và cơm, Tỷ-kheo ấy nếu cần thì nhận vài ba bát, đem
về trong chùa nên chia cho các Tỷ-kheo khác cùng ăn. Nếu Tỷ-kheo
ấy không bịnh mà nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa cũng không chia
cho các Tỷ-kheo khác cùng ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 35, giới muốn ăn cho đủ.- Nếu
Tỷ-kheo ăn xong rồi, mà có khi nhận lời mời ăn nữa, nếu không làm
phép ăn thừa (85) mà ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 36, giới ép phạm ăn nữa.- Nếu
Tỷ-kheo biết Tỷ-kheo khác ăn đủ rồi, mình có nhận lời mời ăn
nữa mà không làm phép ăn thừa, lại ân cần mời Tỷ-kheo khác ấy cùng ăn
với mình, và Tỷ-kheo khác ấy cùng ăn. Tỷ-kheo ấy chỉ vì lý do
muốn làm cho Tỷ-kheo khác ấy phạm giới, chứ không có lý do gì khác
nữa, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 37, giới ăn lúc phi thời.- Nếu
Tỷ-kheo ăn lúc không phải giờ ăn (86), ăn như vậy thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 38, giới ăn đồ cách đêm.-
Nếu Tỷ-kheo đồ ăn để cách đêm mà ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 39, giới ăn đồ không nhận (87) .-
Nếu Tỷ-kheo đối với thức ăn hay thuốc mình không nhận lời mời mà
đã bỏ vào miệng (88) thì, trừ nước và tăm, phạm ba-dật-đề.
Thứ 40, giới đòi đồ ăn ngon.-
Nếu Tỷ-kheo được có những thức ăn ngon như sữa, sữa lạc (89);
Tỷ-kheo ấy có những thức ăn ngon ấy mà vốn không bịnh, chỉ tự đòi cho
mình, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 41, giới cho ngoại đạo ăn.-
Nếu Tỷ-kheo đối với ngoại đạo nam hay ngoại đạo nữ, mà mình tự tay
cho họ thức ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 42, giới đi mà không nói (90) .-
Nếu Tỷ-kheo trước đã nhận lời mời về bữa ăn trước hay bữa ăn
sau, rồi đi đến nhà khác mà không dặn lại cho các Tỷ-kheo, thì, trừ
trường hợp khác, phạm ba-dật-đề. Trường hợp khác là bịnh, may y, cho y,
đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 43, giới nhà ăn ngồi dai (91) .-
Nếu Tỷ-kheo tại nhà ăn có vật báu (92) mà mình miễn cưỡng ngồi dai
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 44, giới nhà ăn ngồi khuất (93) .-
Nếu Tỷ-kheo tại nhà ăn có vật báu mà mình ngồi chỗ khuất, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 45, giới ngồi với nữ nhân (94) .-
Nếu Tỷ-kheo ngồi một mình với nữ nhân ở chỗ đất trống, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 46, giới đuổi người đi đi.-
Nếu Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo khác như vầy, đại đức, đi với tôi
đến xóm làng, sẽ có thức ăn cho đại đức. Nhưng đến rồi,
Tỷ-kheo ấy đã không khuyên cúng thức ăn cho Tỷ-kheo khác này, mà lại
bảo đại đức đi đi, tôi cùng đại đức ngồi hay nói với nhau một chỗ
thì tôi không ưa, tôi ngồi một mình nói một mình thì thích hơn. Chỉ vì
lý do như vậy, chứ không vì lý do gì khác hơn mà tìm cách xua đuổi
người khác đi đi, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 47, giới nhận thuốc quá hạn.-
Nếu Tỷ-kheo được hứa cho thuốc 4 tháng, Tỷ-kheo ấy không bịnh
cũng nên nhận. Nhưng nếu nhận quá thì hạn ấy, thì, trừ người ta xin cho
luôn, xin cho thêm, xin chia mà cho, xin cho suốt đời, phạm ba-dật-đề.
Thứ 48, giới đi coi quân trận.-
Nếu Tỷ-kheo đi coi quân trận thì, trừ trường hợp có lý do, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 49, giới trong quân quá hạn (95) .-
Nếu Tỷ-kheo có lý do thì được phép đến trong quân đội tá
túc 2 đêm 3 đêm, quá thì hạn ấy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 50, giới coi quân diễn tập.-
Nếu Tỷ-kheo được phép tá túc trong quân đội vài ba đêm mà hoặc coi
quân đội dàn trận, hoặc coi lực lượng tượng binh kỳ binh diễn tập, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 51, giới uống các thứ rượu.-
Nếu Tỷ-kheo uống các thứ rượu thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 52, giới đùa giỡn dưới nước.-
Nếu Tỷ-kheo đùa giỡn dưới nước thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 53, giới thọc léc người khác.-
Nếu Tỷ-kheo lấy ngón tay ngón chân thọc léc lẫn nhau thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 54, giới không nhận khuyên can.-
Nếu Tỷ-kheo không chấp nhận mọi sự khuyên can thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 55, giới dọa cho người sợ.-
Nếu Tỷ-kheo dọa cho Tỷ-kheo khác sợ thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 56, giới tắm dưới nửa tháng.-
Nếu Tỷ-kheo thì nửa tháng tắm rửa. Tỷ-kheo không bịnh thì nên
chấp nhận như vậy, không được nhiều hơn, vì trừ trường hợp khác thì
phạm ba-dật-đề. Trường hợp khác là khi nóng, khi bịnh, khi làm việc,
khi bị gió mưa, khi đi đường, đó gọi là những trường hợp khác.
Thứ 57, giới đốt lửa đất trống.-
Nếu Tỷ-kheo không bịnh, mà chỉ vì sưởi ấm nên tự đốt lửa giữa
đất trống hay bảo người đốt, thì, trừ trường hợp có lý do, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 58, giới cất giấu vật dụng.-
Nếu Tỷ-kheo cất giấu vật dụng của Tỷ-kheo khác như y, bát, đồ
ngồi, ống kim, mình tự cất giấu hay bảo người cất giấu, ít nhất chỉ để
giỡn chơi thôi, cũng phạm ba-dật-đề.
Thứ 59, giới cho rồi lấy lại (96) .-
Nếu Tỷ-kheo đã đem y cho Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, thức xoa ma na,
sa-di, sa-di ni rồi, sau đó không nói với người chủ của y được cho, mà lấy
lại dùng, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 60, giới dùng y mới nguyên.-
Nếu Tỷ-kheo được có y mới nguyên, thì trong 3 màu làm hỏng nguyên
màu, tùy ý lấy 1 màu mà làm hỏng nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu
đen, màu nấu vỏ cây mộc lan. Nếu Tỷ-kheo ấy không lấy màu xanh, màu
đen, màu nấu vỏ cây mộc lan, 3 màu làm hỏng nguyên màu đi, mà dùng y mới
nguyên, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 61, giới cố hại súc sinh.- Nếu
Tỷ-kheo cố hại tính mạng súc sinh, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 62, giới uống nước có trùng.-
Nếu Tỷ-kheo biết nước có trùng mà vẫn uống vẫn dùng, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 63, giới quấy rối người khác (97)
.- Nếu Tỷ-kheo cố ý làm bực mình Tỷ-kheo khác, thì dầu làm cho
chốc lát không vui thôi cũng phạm ba-dật-đề.
Thứ 64, giới che giấu tội người.-
Nếu Tỷ-kheo biết Tỷ-kheo khác phạm tội nặng mà che giấu, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 65, giới độ người thiếu tuổi
(98) .- Tuổi đầy 20 mới nên lãnh thọ đại giới. Nếu Tỷ-kheo
biết người tuổi chưa đầy 20 mà cho lãnh thọ đại giới, thì người
ấy không được giới pháp, mà Tỷ-kheo ấy cũng đáng trách vì ngu muội,
nên phạm ba-dật-đề.
Thứ 66, giới khơi sự tranh cãi (99) .-
Nếu Tỷ-kheo biết sự tranh cãi đã sám hối đúng phép rồi, mà sau
đó mình còn khơi dậy trở lại, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 67, giới hẹn đi với giặc.-
Nếu Tỷ-kheo biết là giặc mà hẹn cùng đi một đường, thì dẫu đi
chỉ bằng đến một thôn cũng phạm ba-dật-đề.
Thứ 68, giới chống can nói càn (100) .-
Nếu Tỷ-kheo nói như vầy: theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì
hành dâm không phải là sự chướng đạo. Tỷ-kheo khác can Tỷ-kheo ấy,
rằng đại đức, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế tôn. Phỉ
báng đức Thế tôn thì không tốt. Ðức Thế tôn không nói như vậy.
Ðức Thế tôn đã dùng nhiều cách nói rằng phạm vào sự dâm dục là
điều chướng đạo. Tỷ-kheo khác can gián Tỷ-kheo ấy mà Tỷ-kheo
ấy kiên trì không bỏ, thì Tỷ-kheo khác phải can gián đến lần thứ 3
để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Nếu can gián đến lần
thứ 3 mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 69, giới theo người có lỗi
(101) .- Nếu Tỷ-kheo biết Tỷ-kheo nói "theo tôi biết giáo
pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo" đang bị cử
tội mà chưa được tác pháp giải tội, sự thấy biết sai lầm đến như
vậy cũng không chịu từ bỏ; biết như vậy mà vẫn cung cấp đồ dùng, vẫn
chung cùng Kiết-ma, vẫn cùng ngủ nghỉ cùng nói chuyện, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 70, giới dung kẻ bị đuổi (102) .-
Nếu Tỷ-kheo biết sa-di nói như vầy: tôi nghe Phật nói hành dâm
không phải là sự chướng đạo. Các vị Tỷ-kheo can gián sa-di ấy, bằng
cách nói rằng ông đừng phỉ báng đức Thế tôn, phỉ báng đức Thế
tôn thì không tốt; đức Thế tôn không dạy như ông nói. Này, sa-di, đức
Thế tôn đã dùng nhiều cách nói dâm dục là sự chướng đạo. Các vị
Tỷ-kheo can gián như vậy mà sa-di ấy kiên trì không bỏ, thì các vị
Tỷ-kheo nên can gián đến lần thứ 3 để sa-di ấy bỏ sự kiên trì
ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt. Nếu không bỏ
thì các vị Tỷ-kheo nên bảo sa-di ấy, rằng từ nay sắp đi ông không còn
được nói đức Phật là đấng Thế tôn của con, không được theo các vị
Tỷ-kheo, các sa-di khác được ngủ một phòng với Tỷ-kheo vài ba đêm
thì ông không còn được sự ấy nữa: ông hãy đi ra đi, hãy đi mất đi,
không nên ở đây nữa. Nếu Tỷ-kheo biết sa-di ấy biể chư tăng
đuổi như vậy mà dụ dỗ đem về nuôi dưỡng, cho ở chung ngủ chung, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 71, giới chống cự khuyên học.-
Nếu Tỷ-kheo khi được các Tỷ-kheo đúng phép can gián, mà nói như
vầy: tôi nay không học giới này, tôi sẽ gạn hỏi vị Tỷ-kheo trì luật
nào có trí tuệ, thì phạm ba-dật-đề. Nếu muốn học thật thì
lại cần phải gạn hỏi.
Thứ 72, giới phỉ báng giới pháp.-
Nếu Tỷ-kheo khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: đại đức cần gì
phải nói những giới điều vụn vặt như vậy. Nói những giới điều như
vậy chỉ làm người bực mình, xấu hổ, thắc mắc. Vì khinh chê giới pháp nên
phạm ba-dật-đề.
Thứ 73, giới sợ nên nói trước (103)
.- Nếu Tỷ-kheo khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: nay tôi mới
biết giới điều này được chép trong Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng
một lần, rút ra từ trong Giới kinh. Nhưng các Tỷ-kheo khác biết
Tỷ-kheo ấy đã 2 lần 3 lần ngồi nơi chỗ thuyết giới, huống chi đã
nhiều lần. Tỷ-kheo ấy nói không hiểu biết, vậy nếu phạm
tội thì phải đúng phép mà trị tội đã phạm, lại trị thêm tội không
hiểu biết; hãy bảo rằng, đại đức, ông không được lợi ích, không
khéo léo kiếm được lợi ích, ấy là khi nghe thuyết giới mà ông không
dụng tâm ghi nhớ, không nghe với một lòng và hai tai, ấy vậy, không hiểu
biết giới điều thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 74, giới Kiết-ma rồi hối (104)
.- Nếu Tỷ-kheo chung cùng Kiết-ma rồi, sau đó nói rằng các
Tỷ-kheo theo bạn thân nên lấy vật của chư tăng mà cho họ, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 75, giới không nói dữ dục.-
Nếu Tỷ-kheo, chư tăng xử việc chưa xong, mình không nói dữ dục mà
đứng dậy đi ra, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 76, giới dữ dục rồi hối.- Nếu
Tỷ-kheo dữ dục rồi sau đó hối tiếc, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 77, giới lén nghe tranh cãi (105) .-
Nếu Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tranh cãi với nhau, mình lén nghe rồi đem
lời ấy nói với người khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 78, giới đánh Tỷ-kheo khác
(106) .- Nếu Tỷ-kheo vì tức giận không vui mà đánh Tỷ-kheo khác,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 79, giới tát Tỷ-kheo khác.-
Nếu Tỷ-kheo vì tức giận không vui mà lấy tay tát Tỷ-kheo khác, thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 80, giới vu khống phạm tội (107) .-
Nếu Tỷ-kheo vì tức giận nên đem sự vô căn cứ mà phỉ báng
Tỷ-kheo khác phạm tăng-già bà-thi-sa, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 81, giới vào cửa cung vua.- Nếu
Tỷ-kheo, có vua thuộc dòng Sát-lợi, rưới nước đỉnh đầu lúc đăng
quang, vua này chưa ra khách, chưa cất bảo vật, mà mình đi vào, nếu bước
qua ngưỡng cửa cung vua, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 82, giới cầm giữ vàng ngọc.-
Nếu Tỷ-kheo đối với vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng
ngọc, mà mình tự cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì, trừ trong chùa và
chỗ ngủ nhờ, phạm ba-dật-đề. Trong chùa và chỗ ngủ nhờ mà cầm
giữ vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, tự mình cầm giữ hay
bảo người cầm giữ, thì nên nghĩ rằng để người chủ nhớ mà đến
lấy: vì ý nghĩ ấy chứ không vì gì khác.
Thứ 83, giới đi không phải lúc (108)
.- Nếu Tỷ-kheo đi vào xóm làng không phải lúc, mà không dặn lại
Tỷ-kheo khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 84, giới làm giường quá cỡ.-
Nếu Tỷ-kheo làm giường giây giường cây, thì chân chỉ cao bằng 8 ngón
tay của Phật, trừ chỗ vô mộng hớt rồi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 85, giới dồn bông độn nệm
(109) .- Nếu Tỷ-kheo dồn đâu la làm nệm lớn nệm nhỏ cho giường
giây giường cây, làm thành là phạm ba-dật-đề.
Thứ 86, giới làm ống đựng kim (110) .-
Nếu Tỷ-kheo làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng, khoét chuốt làm
thành, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 87, giới ngọa cụ quá cỡ (111)
.- Nếu Tỷ-kheo làm ni sư đàn thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là
dài bằng 2 gang tay của Phật, rộng bằng 1 gang rưỡi; cần rộng dài thêm thì
mỗi bề thêm nửa gang tay nữa. Quá cỡ ấy thì cắt thành là phạm
ba-dật-đề.
Thứ 88, giới làm khăn che ghẻ (112) .-
Nếu Tỷ-kheo làm khăn che ghẻ thì phải đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài
bằng 4 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang tay. Cắt rồi mà quá cỡ ấy thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 89, giới khăn tắm quá cỡ.-
Nếu Tỷ-kheo làm khăn tắm mưa thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là
dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang rưỡi. Quá cỡ ấy thì cắt rồi
là phạm ba-dật-đề.
Thứ 90, giới 3 y quá cỡ.- Nếu
Tỷ-kheo thì may y phải bằng cỡ y của Phật, may quá cỡ ấy thì phạm
ba-dật-đề. Ở đây cỡ y của Phật là dài bằng 9 gang tay của Ngài,
rộng bằng 6 gang tay, đó là cỡ của y Phật.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 90 giới
ba-dật-đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 90 giới ấy có thanh tịnh cả
không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 90 giới ấy các vị thanh tịnh
cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.7 Bốn Giới Hối
Quá
Bạch chư đại đức, 4 giới
ba-la-đề-xá-ni - Patidesaniya (113) sau đây, cứ mỗi nửa tháng
thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới ăn đồ ăn ni (114) .-
Nếu Tỷ-kheo vào trong làng xóm, không bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn
mà ăn của Tỷ-kheo ni không phải thân quyến, thì Tỷ-kheo ấy phải
đến Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm
vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại
đức mà hối lỗi. Ðó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 2, giới ăn đồ chỉ bảo (115) .-
Nếu Tỷ-kheo đến ăn ở nhà cư sĩ, ở đây có Tỷ-kheo ni chỉ
bảo đưa đồ ăn (116) vị này, đưa cơm vị kia, thì Tỷ-kheo ấy nên nói
với Tỷ-kheo ni, rằng xin bà chị thôi đi, để các Tỷ-kheo ăn xong
đồ ăn này đã. Nếu không có một Tỷ-kheo nào nói với Tỷ-kheo ni
ấy như vậy, rằng xin bà chị thôi đi, để các Tỷ-kheo ăn xong đồ ăn
này đã, thì Tỷ-kheo thủ chúng phải đến Tỷ-kheo khác mà hối
lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc
không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó gọi
là sự hối lỗi.
Thứ 3, giới ăn của học gia (117) .-
Nếu trước đã làm phép Kiết-ma học gia, mà nơi học gia ấy,
Tỷ-kheo không được mời trước, không bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn
của họ mà ăn, thì Tỷ-kheo ấy phải đến Tỷ-kheo khác mà hối
lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc
không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó gọi
là sự hối lỗi.
Thứ 4, giới ăn chỗ nghi sợ (118) .-
Nếu Tỷ-kheo có chỗ vắng vẻ, xa, và có sự nghi sợ; Tỷ-kheo ấy
ở chỗ vắng vẻ như vậy mà không nói trước cho thí chủ biết đường
đến chỗ ấy đáng sợ, Tỷ-kheo ấy cũng không đi nhận đồ ăn ở
ngoài chỗ ấy, Tỷ-kheo ấy chỉ ở trong chỗ ấy, và không bịnh, vậy
mà tự tay nhận lấy đồ ăn mà ăn, thì Tỷ-kheo ấy phải đến
Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự
đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà
hối lỗi. Ðó gọi là sự hối lỗi.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới
ba-la-đề-xá-ni. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh
cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh
cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.8 Một Trăm Giới
Học
Bạch chư đại đức, 100 giới phải học - Sekhiya
(119) sau đây, cứ mỗi nửa tháng phải tụng một lần, và được rút
ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 .- Nên mặc quần (119b) cho tề
chỉnh, phải học.
Thứ 2 .- Nên mặc 3 y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 3 .- Không được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 4 .- Không được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 5 .- Không được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 6 .- Không được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 7 .- Không được trùm đầu vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 8 .- Không được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ, phải học. (120)
*
Thứ 9 .- Không được vừa đi vừa nhảy vào
nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 10.- Không được vừa đi vừa nhảy ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 11 .- Không được ngồi xoạc đùi trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 12 .- Không được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 13 .- Không được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 14 .- Không được lắc mình đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 15 .- Không được lắc mình ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 16 .- Không được vung tay đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 17 .- Không được vung tay ngồi nhà cư sĩ, phải học.
*
Thứ 18 .- Khéo che mình kín đáo vào nhà cư
sĩ, phải học.
Thứ 19 .- Khéo che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 20 .- Không được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ, phải
học.
Thứ 21 .- Không được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ, phải
học.
Thứ 22 .- Yên lặng vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 23 .- Yên lặng ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 24 .- Không được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 25 .- Không được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ, phải học.
*
Thứ 26 .- Chú ý khi ăn (121), phải
học.
Thứ 27 .- Lấy cơm chỉ ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 28 .- Cả đồ ăn (122) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn, phải
học.
Thứ 29 .- Ðồ ăn và cơm phải lấy tương đương với nhau, phải học.
Thứ 30 .- Tuần tự mà ăn (123), phải học.
Thứ 31 .- Không được moi xốc giữa bát mà ăn, phải học.
Thứ 32.- Không bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình, phải
học.
Thứ 33 .- Không được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa,
phải học.
Thứ 34 .- Không được liếc xem trong bát Tỷ-kheo ngồi bên cạnh, phải
học.
Thứ 35 .- Phải để ý nơi bát mà ăn, phải học.
Thứ 36 .- Không được dồn cơm lớn miếng mà ăn, phải học.
Thứ 37 .- Không được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn, phải học.
Thứ 38 .- Không được ngậm cơm mà nói chuyện, phải học.
Thứ 39 .- Không được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng, phải học.
Thứ 40 .- Không được ăn mà còn sót lại (124), phải học.
Thứ 41 .- Không được bung má mà ăn, phải học.
Thứ 42 .- Không được nhai (124b) ra tiếng mà ăn, phải học.
Thứ 43 .- Không được hớp cơm mà ăn, phải học.
Thứ 44 .- Không được le lưỡi liếm mà ăn, phải học.
Thứ 45 .- Không được rảy tay mà ăn, phải học.
Thứ 46 .- Không được lượm cơm rơi mà ăn, phải học.
Thứ 47 .- Không được tay dơ cầm đồ đựng nước uống (125), phải học.
Thứ 48 .- Không được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ, phải học.
*
Thứ 49 .- Không được đại tiện tiểu
tiện, hỷ nhổ trên cỏ tươi, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 50 .- Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước
sạch, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 51 .- Không được đứng mà đại tiện tiểu tiện, trừ lúc có
bịnh, phải học.
*
Thứ 52 .- Không được thuyết pháp cho
người vắt áo lên vai, không cung kính, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 53 .- Không được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ lúc
họ có bịnh, phải học.
Thứ 54 .- Không được thuyết pháp cho người che đầu, trừ lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 55 .- Không được thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 56 .- Không được thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 57 .- Không được thuyết pháp cho người mang dép da, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 58.- Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ lúc
họ có bịnh, phải học.
Thứ 59 .- Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
*
Thứ 60 .- Không được ngủ nghỉ trong tháp
Phật, trừ ra để coi giữ, phải học.
Thứ 61 .- Không được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để cho
chắc chắn, phải học.
Thứ 62 .- Không được mang dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 63 .- Không được cầm dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 64 .- Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, phải học.
Thứ 65 .- Không được mang giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 66 .- Không được cầm giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 67.- Không được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và Thức ăn làm dơ
đất, phải học.
Thứ 68 .- Không được khiêng thây chết đi qua tháp Phật, phải học.
Thứ 69 .- Không được chôn thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 70 .- Không được đốt thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 71 .- Không được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết, phải
học.
Thứ 72 .- Không được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi
bay vào, phải học.
Thứ 73 .- Không được mang áo và giường người chết đi qua tháp Phật,
trừ ra đã giặt, nhuộm và xông hương, phải học.
Thứ 74 .- Không được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật, phải
học.
Thứ 75 .- Không được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu
tiện, phải học.
Thứ 76 .- Không được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật
để hơi thối bay vào, phải học.
Thứ 77 .- Không được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện
tiểu tiện, phải học.
Thứ 78 .- Không được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 79 .- Không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 80 .- Không được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 81 .- Không được nơi tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 82 .- Không được hướng về tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải
học.
Thứ 83 .- Không được bốn phía tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 84 .- Không được ngồi duỗi chân trước tháp Phật, phải học.
Thứ 85 .- Không được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng
trên, phải học.
*
Thứ 86 .- Người ngồi mà mình đứng thì
không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải
học.
Thứ 87 .- Người nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho họ,
trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 88 .- Người ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì
không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải
học.
Thứ 89 .- Người ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được
thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 90 .- Người đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp cho
họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 91 .- Người ở chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp thì
không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải
học.
Thứ 92 .- Người đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được
thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
*
Thứ 93 .- Không được dắt tay nhau mà đi
đường, phải học.
Thứ 94 .- Không được trèo cây cao quá đầu người, trừ trường hợp có
lý do, phải học,
Thứ 95.- Không được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi vác
trên vai mà đi, phải học.
*
Thứ 96 .- Người cầm gậy, không cung kính,
thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải
học.
Thứ 97 .- Người cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ, trừ
ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 98 .- Người cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 99 .- Người cầm dao thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 100.- Người che dù thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc
họ có bịnh, phải học.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói các giới
phải học. Nay xin hỏi chư đại đức, trong các giới ấy có thanh tịnh cả
không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong các giới ấy các vị thanh tịnh
cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.9 Bảy Pháp
Diệt Tránh
Bạch chư đại đức, 7 pháp diệt tránh - Adhikaranasamatha
(126) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ
trong Giới kinh. Nếu các Tỷ-kheo có sự tranh cãi nổi lên thì phải
diệt trừ liền.
Thứ 1 .- Ðáng cho hiện tiền tì ni
thì nên cho hiện tiền tì ni.
Thứ 2 .- Ðáng cho ức niệm tì ni thì nên cho ức niệm tì ni.
Thứ 3 .- Ðáng cho bất si tì ni thì nên cho bất si tì ni.
Thứ 4 .- Ðáng cho tự nói xử trị thì nên cho tự nói xử trị.
Thứ 5 .- Ðáng cho xét tìm tội tướng thì nên cho xét tìm tội tướng.
Thứ 6 .- Ðáng cho nhiều người xét tìm thì nên cho nhiều người xét
tìm.
Thứ 7 .- Ðáng cho như cỏ che đất thì nên cho như cỏ che đất.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 7 pháp
diệt tránh. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 7 pháp ấy có thanh tịnh cả
không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 7 pháp ấy các vị thanh tịnh cả,
vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.10 Lời Kết
Thúc
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói
đầu của Giới kinh, đã nói 4 giới ba-la-di, đã nói 13 giới tăng-già
bà-thi-sa, đã nói 2 giới bất định, đã nói 30 giới ni-tát-kỳ
ba-dật-đề, đã nói 90 giới ba-dật-đề, đã nói 4 giới
ba-la-đề-xá-ni, đã nói 100 giới chúng học, đã nói 7 pháp diệt
tránh. Tất cả giới điều như vậy là Giới kinh Phật dạy, cứ mỗi nửa
tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Còn những Phật
pháp khác nữa thì, với những Phật pháp ấy, hãy chung cùng hòa hợp mà
học.
-oOo-
IV. Phần Cuối
Tỷ-kheo Giới
Ðức tính nhẫn nhục
là đạo bậc nhất,
Phật nói vô vi
là pháp tối thượng;
là người xuất gia
mà bức não người,
thì không được gọi
là bậc sa môn.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Tỳ-bà-thi, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến
tri.
Ví dụ như người
có đôi mắt sáng,
mới có khả năng
tránh đường hiểm nghèo;
thế giới mà có
những người thông minh,
thì có khả năng
xa rời điều ác.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Thi-khí, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Không hề phỉ báng
cũng không ganh ghét,
và hãy kính cẩn
tuân hành giới pháp,
bằng cách ăn uống
cũng biết vừa đủ,
thường thường thích thú
ở chỗ thanh vắng,
tâm trí định tĩnh
ưa thích tinh tiến,
đó là những điều
chư Phật huấn dụ.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Tỳ-diệp-la, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh
biến tri.
Ví như loài ong
hút lấy mật hoa,
thì không thương tổn
sắc hương của hoa,
mà chỉ hút lấy
cái vị mật ngọt,
Tỷ-kheo cũng vậy,
đi vào làng xóm,
thì không can dự
công việc người khác,
không nhìn đáng làm
hay không đáng làm,
mà chỉ tự nhìn
bản thân mà đi
coi có ngay thẳng
hay không ngay thẳng.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Câu-lưu-tôn, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến
tri.
Tâm trí không nên
có sự phóng dật,
pháp của bậc thánh
phải siêng học tập,
được như thế ấy
không còn lo buồn,
tâm trí ổn định
nhập vào niết bàn.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Câu-na-hàm mâu-ni, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh
biến tri.
Tất cả điều ác
đừng có làm đến,
tất cả điều thiện
kính cẩn mà làm,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
những điều như vậy
là chư Phật dạy.
Bài tụng này là Giới kinh được thuyết
ra bởi đức Ca-diếp, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến
tri.
Khéo léo mà giữ
miệng lưỡi lời tiếng,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
và thân thể nữa
cũng đừng làm ác,
đó là đường sạch
của cả ba nghiệp;
khả năng đạt được
đường sạch như vậy,
chính là đường đi
của bậc đại tiên.
Bài tụng này là Giới kinh của đức Thích-ca
mâu-ni, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri, thuyết ra
cho chư tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm. Từ đó về sau
chỉ là phân tích phong phú Giới kinh này.
Chư vị Tỷ-kheo, những ai ưa thích giáo
pháp và ưa thích sa môn, những ai có sự hổ thẹn lấy mình và có sự hổ thẹn
với người, ưa thích học giới pháp, thì phải học các Giới kinh này.
Những người minh triết
giữ được giới pháp
thì thực hiện được
ba thứ vui thích,
một là danh thơm
hai là lợi quí
ba là chết rồi
sinh lên chư thiên.
Cần phải cứu xét
cái điều này đây,
mà người có trí
nên giữ giới pháp.
Giới mà trong sạch
lại có tuệ giác,
thì thực hiện được
cái đạo bậc nhất.
Tất cả Phật đà
trong thì quá khứ,
cùng chư Thế tôn
hiện tại vị lai,
chiến thắng lo buồn
là do cùng nhau
tôn kính giới pháp,
và chính điều này
là cái nguyên tắc
của chư Phật đà.
Nếu có người nào
biết tự vì mình
mà tìm đường đi
của chư Phật đà,
thì hãy tôn trọng
đối với chánh pháp,
đó là huấn thị
của chư Như lai.
Bảy đức Phật đà
là đấng Thế tôn,
đã trừ diệt hết
mọi thứ kiết sử,
và đã thuyết ra
bảy bản Giới kinh,
làm cho giải thoát
mọi thứ ràng buộc,
làm cho nhập vào
niết bàn tối thượng,
ở đó vĩnh viễn
diệt sạch hý luận.
Tôn trọng tuân hành
Giới kinh Phật nói,
cùng với giới pháp
hiền thánh ca tụng,
con em của Phật
mà làm như vậy
thì sẽ nhập vào
niết bàn tịch diệt.
Khi đức Thế tôn
sắp nhập niết bàn,
Ngài đã nổi dậy
lòng thương to lớn,
chiêu tập đầy đủ
chư vị Tỷ-kheo,
và dạy như vầy
đối với giới pháp:
Chư vị đừng nói
Như lai nhập diệt
thì không ai giữ
cho người thanh tịnh;
Như lai đã khéo
nói ra Giới kinh,
Như lai lại khéo
nói ra giới pháp,
dẫu rằng Như lai
nhập vào niết bàn,
chư vị hãy coi
Giới ấy như Phật.
Giới kinh tồn tại
lâu dài trong đời,
thì Pháp của Phật
sẽ được hưng thịnh,
và Pháp của Phật
mà hưng thịnh lên,
thì làm cho người
được nhập niết bàn.
Nếu không tuân giữ
giới pháp như vầy,
và không đúng phép
cử hành bố-tát,
thì như mặt trời
đến lúc lặn mất,
cả thế giới này
tối tăm mịt mù.
Hãy cố mà giữ
giới pháp như vầy,
như bò đuôi dài
tiếc giữ đuôi nó,
bằng cách hòa hợp
tập hợp thuyết giới,
đúng như Phật đà
đã từng huấn dụ.
Tôi đã thành kính
tụng lại Giới kinh,
chư tăng cũng đã
bố-tát hoàn tất.
Tôi tụng Giới kinh
được bao công đức,
nguyện hiến chúng sinh
cùng thành Phật đạo.
-oOo-
Chương trước
| Ðầu trang | Chương kế |