BuddhaSasana
Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode
Times font
Chú
Giải Luật Thiện Kiến
Hán dịch: Tăng-già-bạt-đà-la
- Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh
Quyển thứ sáu -ooOoo- Im lặng nghĩa là đã nhận lời. Phật bảo Bà-la-môn: - Ông chẳng nên bị lệ thuộc gia nghiệp. Nói xong quán sát khả năng tiếp thu của ông ta, đức Phật thuyết pháp làm cho Bà-la-môn hiểu biết về đời này và đời sau và tạo các công đức bằng cách thọ trì, tinh cần tu tập giáo pháp. Sau khi mưa trận mưa pháp, đức Phật rời chỗ ngồi, trở về chỗ ở. Bấy giờ, tập họp con cháu lại, Bà-la-môn nói: - Than ơi! Này các người thân, trước đây ta có thỉnh Phật an cư ba tháng nhưng chẳng cúng dường được một ngày. Ngày mai ta sẽ dùng số vật phẩm trong ba tháng ấy đem cúng dường hết trong một ngày. Nói xong, ông ta chuẩn bị thức ăn uống, sửa soạn suốt ngày và đêm ấy. Vào sáng sớm, sau khi quét dọn trong ngoài sạch sẽ, xông đốt hương thơm, chưng hoa, trang hoàng anh lạc, cờ lọng, bố trí chỗ ngồi tráng lệ với các vật cúng dường sang trọng xong, ông ta đến bạch Phật: - Thưa Thế Tôn! Thức ăn đã dọn xong, đã đến giờ. Ðức Phật cùng các Tỳ kheo lên đường. Thế nên trong luật nói: Ði đến nhà Bà-la-môn, đức Phật cùng các Tỳ kheo an tọa. Khi ấy, Bà-la-môn cúng dường lên Phật và Tỳ kheo tăng mà đức Phật là thượng tọa trong tăng chúng. Cực mỹ ( panìta) là mùi vị rất ngon. Dùng tay (Sahattha) là tự tay dâng lên làm cho (Phật và Tăng) no đủ. No đủ nghĩa là ăn đã đầy đủ cũng gọi là thỏa mãn vừa ý. Từ chối nghĩa là ngăn lại. Ngăn có ba cách: bằng tay, mắt và miệng. Ăn sắp xong... nghĩa này dễ hiểu. Bà-la-môn đem ba y dâng lên Phật. Ba ca-sa này trị giá ba ngàn tiền vàng. Ông ta lại cúng 500 Tỳ kheo mỗi vị hai xấp vải bạch diệp với tổng giá trị là 50 vạn tiền vàng. Tuy cúng dường như vậy xong, nhưng vẫn chưa vừa ý, Bà-la-môn lại cúng thêm một tấm nỉ dày (Kambala) và một xấp lụa (pattunnapattapata). Ðức Phật và chúng Tỳ kheo cắt tấm nỉ ra làm dây giới (dây buộc ngang hông, ngoài y - Hán: Thiền-đới) và túi đựng bát, chia tấm lụa ra làm dây lưng (kàyabandhana-parissàvana) và túi lược nước. Ông lại đem một bình đầy dầu thuốc được nấu cất trăm lần có giá trị 1000 tiền vàng để cúng dường tăng chúng thoa thân. Pháp sư nói: - Cúng dường cho sa-môn, đúng pháp có bốn loại, không giống với người thế gian, như trên đã có đầy đủ. Tôi trình bày như vậy vì trong luật có nói cúng dường ba y không bằng bốn sự. Sau khi cúng dường như vậy, Bà-la-môn cùng thân thuộc đều đem đầu mặt làm lễ đức Phật và Tỳ kheo tăng rồi ngồi qua một bên. Khi ấy, Thế Tôn suy nghĩ: Bà-la-môn này và quyến thuộc ông ta thỉnh nhập hạ nhưng suốt trong ba tháng vì bị ma quấy nhiễu nên chưa nghe được giáo pháp. Ta đem giáo pháp mà ông ta chưa được nghe trong ba tháng, giảng giải pháp vị cam lộ trong một ngày để họ được hưởng thụ đầy đủ. Sau khi thuyết pháp cho Bà-la-môn xong, đức Phật ra khỏi nhà và định đi đến nước khác. Bấy giờ, Bà-la-môn và quyến thuộc đều lạy sát đất làm lễ Phật cùng khóc lóc thưa: - Cầu xin Thế Tôn thương xót chúng con mà trở lại lần nữa, cho chúng con được gặp lại để không còn hối tiếc. Sau khi trú lại Tỳ-lan-nhã ba ngày, Thế Tôn nhập vào cảnh giới của Phật, quán sát thấy các Tỳ kheo vì trong 90 ngày ăn lúa ngựa nên thân thể gầy ốm không thể đi bộ xa được. Do đó, Ngài cùng họ đi thẳng đến nước Tu-ly (Soreyya) rồi đi đến xứ Ba-dạ-già (Pàyagapatitthàna), đến nơi rồi, vượt qua sông Hằng (Gangànadi), qua sông lại đi đến nước Ba-la-na-tư (Bàrànasi) rồi đi sang thành Tỳ-xá-ly. Và Thế Tôn trú ở tinh xá Ma-ha Cú-thát-la (Mahavàna Kùtàgàrasalà). Pháp sư nói: - Luật Tỳ-bà-sa (chú giải luật) tên là Thiện-cụ-túc, phần nói về nhân duyên ở Tỳ-lan-nhã đến đây là hết. (samantapàsàdikàya vinayasamvannanàya verạnjakandavannanà nitthità). Phẩm Ca-lan-đà (Kalandaka-vagga) Bộ chú giải (Tỳ-bà-sa) này phân biệt rõ giới tướng với đầy đủ nghĩa và vị, không xen tạp giáo pháp khác. Trong luật, thuyết minh về nhân duyên căn bản rất khó hiểu rõ. Bộ chú giải này phân biệt giải thích thông suốt ý nghĩa trong tạng luật nên gọi là đầy đủ.
Khi ấy, tại thành Tỳ-xá-ly. Theo thứ tự như vậy cũng dễ hiểu, nếu có đoạn nào sâu xa khó hiểu, tôi sẽ giải thích. Ca-lan-đà (Kalandakà) là tên (vùng nuôi dưỡng) loài sóc (chuột núi). Một hôm, vua nước Tỳ-xá-ly (vesàlì) đưa các cô gái đẹp vào rừng du ngoạn. Bấy giờ, vì mệt mỏi vua nằm ngủ dưới một gốc cây và các cô gái hầu cận bỏ đi chơi khắp nơi. Có con rắn độc lớn ở trong hang dưới gốc cây. Nghe mùi rượu của vua, rắn bò ra định cắn vua. Con sóc trên cây chạy xuống gọi to để cho vua biết. Do đó, rắn lùi lại. Vừa thức giấc, vua liền ngủ lại và rắn lại bò ra định cắn vua. Sóc lại kêu to chạy xuống báo thức cho vua. Thức dậy, vua thấy rắn độc lớn trong hang dưới gốc cây nên rất kinh sợ, nhìn khắp nơi tìm các cô gái nhưng không có một ai cả. Vua suy nghĩ rằng ta còn sống được là nhờ ân con sóc vậy phải làm sao báo ân ấy. Khi ấy, bên núi có thôn xóm. Vua ra lệnh: Từ đây trở đi trong thôn đem phần ban thưởng của Ta dùng để nuôi dưỡng các con sóc. Lại nhân loài sóc này nên vua đặt tên thôn là Ca-lan-đà (nơi nuôi dưỡng các con sóc). Ông Ca-lan-đà nghĩa là lúc ấy một trưởng giả trong thôn có 40 ức tiền vàng, được vua ban địa vị trưởng giả. Nhân lấy theo tên thôn nên gọi là trưởng giả Ca-lan-đà. Pháp sư hỏi: - Chỉ riêng trưởng giả đây có tên này hay là người khác cũng có. Ðáp: - Ðều gọi là Ca-lan-đà như được nói trong luật. Tu-Ðề-Na (Sudinna) là con trưởng giả có nhiều bạn thân. Bạn thân (tri thức) là bạn mà khổ vui cùng hưởng. Khi ấy, vì cần tìm người thiếu nợ, Tu-Ðề-Na đi đến Tỳ-xá-ly. Lại có vị pháp sư nói: Ngày 9 tháng 9, nhân dân trong nước cùng nhau tập trung đi chơi, do đó Tu-Ðề-Na cũng đi du ngoạn. Khi ấy, vào trước ngày 15 tháng 9, Thế Tôn đến Tỳ-xá-ly. Hỏi: - Trông thấy nghĩa là gì? Ðáp: - Sáng sớm, sau khi điểm tâm Tu-Ðề-Na thấy mọi người mặc áo bày vai phải mang các loại hương hoa đi ra khỏi thành, đến gặp đức Phật để cúng dường và nghe pháp. Thấy vậy, Tu-Ðề-Na hỏi: - Các vị thiện nhân ơi! Ði đâu vậy? Ðáp: - Chúng tôi đang đi đến gặp Phật để cúng dường và nghe pháp. Tu-Ðề-Na nói: - Lành thay! Tôi cũng đi theo. Khi ấy, Thế Tôn đang dùng phạm âm thuyết pháp cho bốn chúng vây quanh. Ðến nơi, Tu-Ðề-Na thấy Phật đang thuyết pháp cho đại chúng. Do đó, luật văn nói là thấy. Pháp sư nói: - Nhờ phước đời trước làm nhân cho nên lúc này Tu-Ðề-Na phát sinh giác ngộ. Tu-Ðề-Na suy nghĩ: Bằng cách gì để ta được vào nghe pháp. Vì sao? Vì bốn chúng đang chí tâm nghe pháp không thể di chuyển nên không thể chen vào được. Khi ấy, Tu-Ðề-Na từ từ tiến sát vào bên cạnh đại chúng. Hỏi: - Vì sao không vào giữa chúng? Ðáp: - Vì đến sau nên phải ngồi kề bên ngoài mọi người. Trong luật nói: Tu-Ðề-Na đến chỗ đại chúng, ngồi xuống một chỗ, sau đó suy nghĩ ... Hỏi: - Ngồi xuống là suy nghĩ (ngay) hay là nghe pháp rồi suy nghĩ? Ðáp: - Nghe được đức Phật tán thán giới, định, tuệ nên suy nghĩ. Hỏi: - Nghĩ gì? Ðáp: - Vị này có suy nghĩ: Với những lời của đức Phật phân biệt giảng thuyết, ta đã hiểu rõ và nghĩ rằng nghĩa lý trong giới, định, tuệ đều thuần nhất một vị. Và vị này lại nghĩ rằng ta sống tại gia mà tu tập giới, định, tuệ qua được một ngày cũng khó làm được, vậy không nên sống tại gia vì cũng như mài ngọc. Hỏi: - Mài ngọc là gì? Ðáp: - Như người mài ngọc thật khó làm cho trong trắng được. ... sống tại gia mà tu tập cũng khó như mài dũa ngọc, thật khó thành công, lúc này ta làm sao cạo bỏ râu tóc, mặc y phục ca-sa, tu tập phạm hạnh là được thoát khỏi nhà hữu vi vào nhà vô vi. Hỏi: - Nhà hữu vi, nhà vô vi là gì? Ðáp: - Nhà hữu vi là cày ruộng, trồng trọt, mua bán... làm các sự nghiệp thế gian. Nhà vô vi là không làm các sự nghiệp trên, tịch nhiên vô dục. Ðây gọi là bỏ nhà hữu vi đi vào nhà vô vi. Cùng mọi người rời khỏi chỗ ngồi chưa bao lâu, Tu-Ðề-Na đi trở lại gặp Phật. Tại sao khi chúng chưa đứng dậy, Tu-Ðề-Na đã gặp Phật mà không cầu xuất gia? Vì khi ấy (Tu-Ðề-Na) nghĩ rằng (nếu ta) cầu xin xuất gia thì anh em thân thuộc đang ngồi nghe pháp sẽ gây trở ngại bằng cách nói rằng cha mẹ chỉ có một mình anh là con, nếu xuất gia rồi lấy ai nuôi dưỡng và nói như vậy xong, họ sẽ đưa ta về nhà, gây khó khăn cho sự xuất gia của ta. Cùng mọi người ra về, đi một đoạn ngắn, Tu-Ðề-Na tìm cách quay trở lại, đến gặp Phật và cầu xin xuất gia. Thế nên, trong luật có nó: Mọi người từ giã chưa bao lâu, Tu-Ðề-Na đến gặp Phật và cầu xin Thế Tôn ... Sau khi La-Hầu-La (Ràhulakumàra) xuất gia, Phật không cho xuất gia những người mà cha mẹ chưa cho phép. Do đó, Phật hỏi Tu-Ðề-Na: - Con có được cha mẹ cho phép xuất gia không? Pháp sư nói: - Câu này dễ hiểu, hãy tự biết. Việc đáng làm đã làm. Tâm ý Tu-Ðề-Na muốn xuất gia nên không còn ưa thích những nơi đi chơi, không quan tâm đến việc có lấy được nợ hay không, chỉ vội vàng trở về. Sự việc này dễ hiểu. A-ma, đa-đa (Amma, Tàta - Hán dịch là mẹ, cha) hãy tự biết. Một con nghĩa là chỉ có một đứa con, không có anh em. Pháp sư nói: - Cha mẹ nói như vậy vì thương mến. Sống trong sung sướng nghĩa là từ bé đến lớn chưa trải qua sự khổ nhọc. Vừa sinh ra, đã được nhủ mẫu bồng bế cho đến lớn, luôn luôn được cung cấp đầy đủ các món ăn ngon, đi đâu cũng bằng xe ngựa nên chân không đụng đất. Người cha bảo Tu-Ðề-Na: - Ðến khổ nhỏ mà con còn không biết... Không biết khổ nghĩa là nếu chia một cái khổ ra làm mười phần, thì cũng chưa biết và trải qua được một phần nào cả. Câu: đến chết, ta cũng không rời con được nghĩa là cha mẹ nói rằng nếu ta còn sống mà con có chết, ta cũng không bỏ con, huống chi ta đang còn sống thì làm sao chia lìa con được. Câu: Tu-Ðề-Na nằm trên đất là có ý nói nằm trên đất không có tấm lót. Hỏi: Cúng dường nghĩa là gì? Ðáp: - Nam nữ với những âm thanh ca nhạc, đàn sáo, không hầu, tỳ bà... vui chơi cùng các bạn bè. bạn bè dùng những thú vui này để khuyên dụ Tu-Ðề-Na bỏ ý định (xuất gia) để hưởng thụ (ăn) năm dục. Hỏi: - Ăn nghĩa là gì? Ðáp: - Ăn nghĩa là thân mình cùng phụ nữ hưởng thụ khoái lạc của năm dục. Câu làm các công đức là nói đến việc cúng dường Phật Pháp Tăng, làm các việc bố thí, tu tập theo thiện đạo, làm các công đức. Giữ thái độ im lặng là được cha mẹ khuyến dụ bằng mọi cách đến ba lần để bỏ ý định nhưng Tu-Ðề-Na vẫn không đổi ý. Cha mẹ nói với bạn của Tu-Ðề-Na (Sahàyaka): - Ðây là bạn thân của các con, đang nằm dưới đất, ta đã ba lần khuyên mời dậy nhưng vẫn nằm yên, vì ta, các con hãy làm cho anh ấy đừng xuất gia. Khi ấy, các bạn thân đến gặp Tu-Ðề-Na, nói đến ba lần với lời lẽ: - Này bạn thân ơi, cha mẹ chỉ có một mình bạn, nếu quyết chí xuất gia thì khi hai bác tuổi già lấy ai giúp đỡ. Nếâu bạn xuất gia thì ba má bạn sẽ buồn rầu gầy yếu đến chết, nào có lợi gì! Là người sang trọng mà bạn xuất gia thì sẽ bưng bát đất xin ăn mà thức ăn lại dỡ, không vừa ý, khi được, khi không được, ngày ăn chỉ một bữa, lại ngủ một mình. Nếu tu tập phạm hạnh thì pháp này thật khó. Bằng mọi cách khuyên can nhưng thấy Tu-Ðề-Na vẫn không đổi ý định, các bạn bàn với nhau: - Hiện tại nên cho anh ấy xuất gia. Sau đó, các bạn đến gặp và khuyên cha mẹ Tu-Ðề-Na và được ba má anh cho phép anh ta xuất gia. Thế nên trong luật có nói: - Bạn bè của Tu-Ðề-Na con ông Ca-lan-đà đến gặp cha mẹ anh ta. Sau đó, họ đến gặp Tu-Ðề-Na và nói: - Hai bác đã cho bạn xuất gia rồi. Nghe nói, Tu-Ðề-Na rất vui mừng hoan hỷ rời khỏi mặt đất. Do trải qua bảy ngày không ăn nên thân thể Tu-Ðề-Na gầy ốm. Cha mẹ tắm rửa cho bằng nước thơm, thoa dầu thơm, chải gội đầu tóc, cho ăn uống các món thơm ngon và sau ba bốn ngày sức khỏe anh ta lại bình phục. Khi ấy, Tu-Ðề-Na rơi lệ làm lễ từ giã cha mẹ và đi đến gặp Phật, thưa rằng: - Cầu xin Thế Tôn độ cho con được xuất gia. Hỏi: - Vị này được Như Lai độ hay được tăng độ? Ðáp: - Ðược Tỳ kheo độ. Khi ấy, bên cạnh Thế Tôn có một Tỳ kheo khất thực. Phật bảo vị này: - Thầy hãy độ Tu-Ðề-Na xuất gia và cho thọ giới cụ túc. Tỳ kheo đáp: - Lành thay Thế Tôn! Vị này độ Tu-Ðề-Na làm sa-môn, dự vào hàng tôn quí và được Tỳ kheo truyền giới cụ túc. Do đó trong luật có nói: Khi ấy, Tu-Ðề-Na được xuất gia trong Phật pháp, thọ giới cụ túc và thọ trì hạnh đầu đà. [Pháp đầu-đà (dhùtaguna): Hán dịch là quét sạch cấu bẩn phiền não]. Thọ nghĩa là thực hành. A-lan-nhã nghĩa là tránh xa làng xóm, nhà cửa, sống ở nơi thanh vắng (A-lan-nhã) sống bằng khất thực. Khất thực là không nhận lợi dưỡng dư, từ bỏ 14 loại thức ăn. Nhận y phẩn tảo (pamsukùlika) nghĩa là không nhận y của đàn việt. Khất thực theo thứ lớp (Sapadànacàrika) nghĩa là tuần tự đi (từng nhà). Thôn Bạt xà (Vajjigàmà) là thôn ấp của vua Bạt-xà có vô lượng tài sản quí báu. Tài sản là của cải xử dụng hàng ngày. Quí báu là vật cất dấu không cho người thấy. Vô lượng là số lượng không đếm hết. Thức ăn uống phong phú là hằng ngày đều có thêm nhiều thức ăn uống. Sửa soạn phòng xá là bày biện chỗ ngồi và trải các tấm lót phủ. Ðem 60 mâm bạc lớn. Một mâm chứa 10 người ăn, cộng lại có chừng 600 vị tăng ăn uống. Ăn là nhận lấy. Hỏi: - Lấy nghĩa là gì? Ðáp: - Lấy lại sức lực cho bốn đại. Ðem cho nghĩa là dâng cho chúng tăng, tâm không còn luyến tiếc. Tự đi vào khất thực, nô tỳ trong nhà đem thức ăn thừa cách đêm, không dùng nữa ra ngoài vứt bỏ. Thức ăn để qua một hai đêm thì chua và hôi hám. Hỏi: - Ðó là gạo nếp hay gạo tẻ? Ðáp: - Cơm gạo tẻ. Gọi là chị (đại tỷ) vì người xuất gia không được gọi họ là nô tỳ nên gọi là chị. Câu: Hãy đổ vào bát tôi. Hỏi: - Người xuất gia được nói như vậy không? Ðáp: - Ðược, bởi vì đối với vật mà người chủ xem thường muốn vứt bỏ thì người xuất gia có thể nói hãy đem cho tôi hay bỏ vào bát tôi. Pháp sư nói: - Thấy có người mang cơm thừa đi đổ, một Tỳ kheo khất thực nói: - Nếu cần vứt bỏ thì cho vào bát tôi. Vị này được đức Phật khen ngợi. Hỏi: - Ðây là chỉ riêng cơm hay vật khác cũng được? Ðáp: - Ðược phép xin và nhận tất cả những vật bị vứt bỏ, không nên nghi ngại. Tay chân là khi khất thực đưa bát xuống nhận vật thực nên bày cánh tay ra đến cùi chỏ. Chân là phần từ mắt cá trở lên (bày ra) chừng bốn ngón tay. Tiếng nói nghĩa là khi nghe Tu-Ðề-Na gọi nên (cô ta) nhận ra tiếng nói. Nhớ biết (nimittam aggahesi) là biết ba tướng của vị này. Tu-Ðề-Na xuất gia vào năm thứ 12 sau khi Phật thành đạo. Tu-Ðề-Na ở nước khác tám năm. Sau khi học đạo được tám năm, vị này mới trở về thôn Ca-lan-đà. Khi Phật thành đạo được 20 năm thì Tu-Ðề-Na rời khỏi nhà được tám năm, nên cô tỳ nữ không nhận ra.... Ði vào thưa với ông chủ. Hỏi: - Sao (cô ta) không hỏi ngay (với Tu-Ðề-Na) mà lại đi vào thưa với chủ? Ðáp: - Cô ta cảm thấy e sợ không dám tự tiện hỏi nên vội vào trong thưa. ... Nếu tìm cậu chủ, hãy nhìn người đang ngồi ăn ở cạnh bức tường. Nghĩa là bấy giờ những nhà trong thôn đều làm nhà nhỏ chứa nước bên cạnh tường và dành cho người khất thực được dùng để nghỉ ngơi tùy ý. Do đó, trong luật có nói rằng:... (vị ấy) đi ra ngoài và ngồi ăn bên tường. Tại sao người... nghĩa là người cha hỏi Tu-Ðề-Na rằng tại sao người ngồi ăn thức ăn thừa ở bên tường, vì người xuất gia không nên ăn thức ăn tàn thực này. Người cha nói với Tu-Ðề-Na: - Khi còn ở nhà, ăn những món cao lương mỹ vị mà con còn chê bai, hoặc nói dỡ, cứng, lạnh, nóng, không vừa miệng. Nay con ăn thức ăn dư cũ này lại như ăn cam lộ, không một lời oán trách. Pháp sư nói: - Cha Tu-Ðề-Na phải nói như vậy vì trong tâm ông ta bị bức xúc không bày tỏ được nên phải nói vậy. Xưa nay, các vị pháp sư đều truyền nhau giải thích như vậy. Câu: - Nắm tay cùng nhau về nhà. Hỏi: - Vì sao cùng với người áo trắng (đời) nắm tay đi về nhà? Ðáp: - Tu-Ðề-Na là người chí hiếu nên khi cha nắm tay thì không kháng cự. Sau khi về nhà, được mời thọ thực, Tu-Ðề-Na im lặng nhận lời. Hỏi: - Ở trên Tu-Ðề-Na đã thọ pháp khất thực, vì sao còn nhận lời mời (thọ thực tại nhà) của cha? Ðáp: - Tu-Ðề-Na nghĩ rằng xa nhà đã lâu, nếu không nhận lời thỉnh của đàn-việt tất họ sinh tâm xấu. Do thương xót họ nên được nhận thỉnh một lần; người nhận thỉnh phải biết rõ. Câu: - Ðống vàng bạc. Hỏi: - (Vàng bạc) có từng thoi hay vụn? Ðáp: - Ðây là tiền (kahàpana). (Cao bằng) người (purisa) nghĩa là không cao không thấp quá. Câu: - Giăng tấm màn ở sau là giống như để chỗ khuất vắng nên giăng màn bốn phía. Sáng sớm mặc y mang bát là đi thọ thỉnh. Hỏi: - Sao không chờ đàn việt đến rước mà lại tự đi? Ðáp: - Họ đã mời (trước là được), trong luật không nói đến việc trên. Mẹ có nghĩa là người sinh ra người khác. Vật thuộc mẹ nghĩa là vật thuộc bên ngoại theo mẹ về nhà cha. Câu: - Sáng tối tắm rửa... là chỉ cho sự nhàn hạ. Vật hồi môn của mẹ con khi ta cưới về đến nay vẫn chưa dùng, của ta cũng chưa dùng, vật của tổ phụ con cũng chưa dùng đến. Chưa dùng đến là ý nói tài sản có nhiều vô cùng. Con nên hoàn tục là người cha bảo Tu-Ðề-Na: - Con hãy bỏ y phục của người xuất gia, hoàn tục mặc y phục thế tục xinh đẹp và hưởng thụ năm dục lạc. Con xuất gia không phải vì sợ lệnh vua, không phải vì mắc nợ nên hoàn tục rất dễ. Tu-Ðề-Na nói: - Này đàn việt, tôi rất ưa thích đời sống phạm hạnh, không có tâm tham luyến thế tục, xin đàn việt chớ phiền trách. Thưa đàn việt! Tôi muốn xin một việc, chớ tức giận. Cha đáp: - Lành thay! Lành thay ... nghĩa là người cha nghe Tu-Ðề-Na nói như vậy nên vui mừng khen ngợi lành thay. Tu-Ðề-Na nói rằng lấy vải bố may thành bao lớn và bỏ vàng bạc vào và cột chặt miệng lại rồi đặt lên hơn 10 chiếc xe đem vứt xuống chỗ sâu nhất dưới sông lớn. Câu "Vì những nhân duyên này" nghĩa là Tu-Ðề-Na nói lời từ chối vì dùng bảo vật này làm gì. Do những vật báu này nên sinh ra các phiền não, nước, lửa, trộm cướp đều do đây mà sinh ra. Dựng cả lông (lomahamsa) nghĩa là nếu có quốc vương thấy nhiều bảo vật thì tất đến mong cầu, hoặc trộm cướp thì đến cướp lấy, hoặc bị lửa đốt, nước cuốn trôi. Do suy tư sâu xa như vậy nên lông toàn thân dựng cả lên. Gìn giữ cả ngày đêm nghĩa là khi trời chưa tối đã chia nhau trước sau, bố trí người có sức canh phòng, đóng chặt cửa rất cẩn mật không cho trộm cướp vào được, không để kẻ thù theo dõi được nên gọi là bảo vệ. Gọi người vợ trẻ vào nghĩa là cha Tu-Ðề-Na tạo các điều kiện để vị này hoàn tục nhưng vẫn không toại ý nên gọi cô vợ trẻ (của Tu-Ðề-Na) đến bảo: - Chỉ có con trước đây thương yêu nhau, hãy làm cho anh ấy đổi ý. Vì sao? Tất cả tài sản cũng không mua chuộc được thì chỉ có phụ nữ có thể làm cho người ta thay đổi. Câu: ... "Hay là chàng vì các cô ngọc nữ xinh đẹp trên trời (Kidisà nàma tà ayyaputta accharàyo yasam tvam hetu brahmacariyam carasi)". Ðây là câu nói của người vợ trẻ hỏi Tu-Ðề-Na. Vì cô ta thấy những người dòng Sát-lỵ, những người quí tộc từ bỏ tài sản quí giá, cung điện, vợ con, thân quyến (mà xuất gia) nên cho rằng các vị ấy vì mong cầu ngọc nữ cõi trời nên tu tập phạm hạnh. Không phải vì thiên nữ nghĩa là không phải vì mong cầu thiên nữ. Nghe Tu-Ðề-Na dùng từ ngữ cô em này để đáp, thì (người vợ) cho rằng trước đây vợ chồng ngủ chung giường, nay gọi là cô em với ý nghĩa em cùng mẹ nên cô ta rất đau khổ và ngã lăn ra đất. Chớ quấy nhiễu nghĩa là không nên đem tài sản quí giá và gái đẹp để làm mê hoặc tâm tôi. Hãy để lại dòng giống nghĩa là người mẹ bảo Tu-Ðề-Na: - Cầu mong con tu tập phạm hạnh mãi mãi và nhập Niết-bàn trong hư không nhưng xin con để lại một đứa con để kế tục dòng họ, đừng để tài sản bị mất hết vì không người cai quản. Sau khi chúng ta chết, tất chúng bị sung vào kho tàng của vua Lê-Xa-Tỳ (licchavi) vậy xin để lại dòng giống. Tu-Ðề-Na đáp: - Việc này rất dễ, con có thể làm được. Hỏi: - Vì sao Tu-Ðề-Na nói như vậy? Ðáp: - Vì Tu-Ðề-Na có ý nghĩ nếu ta không cho dòng giống thì cha mẹ không để yên cho ta và ngày đêm sẽ làm phiền ta. Nếu ta cho đứa con thì họ an lòng, không còn làm phiền ta nữa. Nhờ đây, ta được ở yên trong đạo để tu tập phạm hạnh. Nguyệt hoa (Puppha - kinh nguyệt) là hoa nước sinh trong tháng. Ðây là tên một loại máu. Người phụ nữ trong thời gian sắp có thai trong dạ con sinh ra một cục máu, sau bảy ngày tự phá và thành máu chảy ra. Nếu máu ra không ngừng thì tinh người nam không đứng yên mà theo trôi theo. Khi máu đã chảy hết thì tinh người nam mới đọng lại được và sau đó thành thai. Như đám ruộng đã được cày bừa kỹ, sau khi cho quá nhiều nước vào rồi gieo giống lên. Hạt giống nổi lên trôi khắp bốn phía vì nước lớn mà hạt giống thì không bám vào bùn nên không mọc rễ con được. Người nữ cũng như vậy, sau huyết không còn chảy nữa, thì tinh người nam mới bám lại được và trở thành thai. Nắm lấy tay vợ nghĩa là dắt nhau đi vào rừng sâu để cùng hành dục. Sau khi thành đạo dưới cây Bồ đề, trong 20 năm đầu chưa chế giới cho các đệ tử. Các đệ tử mới nhập đạo nên đức Phật chưa chế giới cho họ. Tu-Ðề-Na không biết tội-tướng nên cho việc này không có tội. Nếu vị này đã biết tội tướng thì dù mất mạng cũng chẳng dám phạm. Ba lần làm việc bất tịnh nghĩa là ba lần cùng vợ làm việc bất tịnh nên có thai. Pháp sư nói: - Có hay không? Ðáp: - Có, bởi vì một là hai thân thể tiếp xúc nhau; hai, lấy y phục; ba, tinh chảy xuống; bốn, tay thoa dưới rốn; năm là thấy; sáu có tiếng; bảy có mùi. Do bảy việc này phụ nữ có thai. Hỏi: - Vì sao gọi là thân thể tiếp xúc nhau? Ðáp: - Có người nữ khi sinh nguyệt thủy thì ham muốn đàn ông. Nếu được thân thể đàn ông tiếp xúc khắp thân thể thì người nữ này sinh ham muốn và mang thai. Ðây là tiếp xúc nhau nên mang thai. Hỏi: - Thế nào là lấy y phục? Ðáp: - Như Tỳ kheo Ưu-Ðà-Dy (Udàyi) và vợ cùng xuất gia. Cách biệt đã lâu, một hôm Ưu-Ðà-Dy đến gặp Tỳ kheo ny kia, tình cảm luyến ái hai bên cùng nhau lai láng đến cực độ nên xuất tinh làm dơ bẩn y của Ưu-Ðà-Dy. Vị này đưa y ấy cho Tỳ kheo ny (để giặt). Nhận y, Tỳ kheo ny này đưa lưỡi liếm rồi lại đưa tinh ấy vào nữ căn nên có thai. Có người nữ khi có hoa thủy, lại tiếp xúc với y phục (có tinh) của đàn ông thì có thai nên gọi là lấy y phục. Hỏi: - Thế nào là tinh chảy xuống? Ðáp: - Như mẹ đạo sĩ Lộc-Tử. Ngày xưa có một con nai cái đi đến chỗ ở của đạo sĩ. Ðạo sĩ tiểu tiện nên tinh bị chảy xuống chỗ ấy. Nai cái trong thời gian sinh hoa thủy, ngửi nước tiểu ấy, sinh tâm dâm dục nên uống vào và có thai sinh ra đạo sĩ Lộc-Tử (Migasingatàpasa). Ðây gọi là tinh chảy xuống. Xoa dưới rốn như cha mẹ của Bồ Tát Thiểm (Sàmabodhisatta) sắp bị mù. Thiên Ðế-thích biết được nên giáng hạ xuống gặp họ và nói rằng hãy mau hợp âm dương (giao hợp) sẽ sinh con. Hai vợ chồng đã xuất gia tu đạo nên nói: - Chúng tôi đã xuất gia, theo pháp thì không được làm vậy. Ðế-thích nói: - Nếu không hòa hợp âm dương thì lấy tay thoa dưới rốn. Họ làm theo lời dạy và mang thai sinh ra Thiểm, nên gọi là xoa tay dưới rốn. Mẫn-Ðà-Bà-Da và Chiên-Ðà-Bát-Thù-Ða (Mandavya, Candapajjta) cũng được sinh bằng cách ấy. Hỏi: - Thế nào là sinh bằng thấy? Ðáp: - Có một cô gái trong thời kỳ hoa nguyệt nhưng không được giao hợp với đàn ông. Do tình dục quá mạnh, chỉ nhìn đàn ông là ghi nhớ, các thể nữ trong cung cũng như vậy, vì vậy có thai. Ðây gọi là thấy. Hỏi: - Thế nào là bằng tiếng? Ðáp: - Như loại chim cò trắng chỉ có con cái không con trống. Ðến mùa xuân, khí hậu ấm áp bắt đầu có tiếng sấm. Cò chỉ lắng nghe tiếng sấm là có thai. Ðây gọi là bằng tiếng. Hỏi: - Thế nào là do mùi? Ðáp: - Như con trâu cái chỉ ngửi mùi trâu đực là có thai. (Xin xem tiếp Phần 6.b) -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Tỳ kheo Thiện Minh đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 01-2001)
update: 10-02-2001