Chương XXI
Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
-ooOoo-
533. Chuyện tiểu Thiên nga (Tiền thân Cullahamsa)
Bầy chim không để ý gì ta...,
Đây l à chuyện do bậc Đạo Sư kể trong
lúc trú tại Trúc Lâm về cách Tôn giả Ànanda
đã hy sinh tính mạng.
Khi những người thiện xạ được mua chuộc để
sát hại đức Như Lai và người đầu tiên
được Devadatta (Đề-bà-đạt-da)
phái đi làm việc này đã trở về, y
nói:
- Bạch Tôn giả, con không thể đoạt mạng sống
của đức Thế Tôn, vì Ngài có đủ đại thần
thông lực.
Devadatta đáp:
- Thôi được, ông không cần phải sát hại
Sa-môn Gotama. Ta sẽ đích thân đoạt mạng sống của vị ấy.
Thế rồi trong khi đức Như Lai đang đi dạo
dưới bóng mát ngã về tây của núi Gijjhakùta (Linh Thứu), Devadatta
trèo lên đỉnh núi và ném xuống một tảng
đá lớn như thể từ chiếc máy lăn đá bắn ra và
tự nhủ: "Với tảng đá này, ta sẽ giết
Sa-môn Gotama". Song hai đỉnh núi giao nhau
chặn lấy tảng đá và một mảnh vụn văng ra
đụng vào chân của đức Thế Tôn làm
chảy máu, và gây đau nhức dữ dội.
Y sĩ Jìvaka lấy dao cắt rộng miệng vết thương ở chân
đức Như Lai, để máu độc chảy ra và cắt
bỏ chỗ thịt sưng rồi xoa thuốc vào vết thương cho lành.
Bậc Đạo Sư đi lại như trước, với các vị đại
đệ tử hầu cận quanh Ngài, trong mọi dáng
điệu uy nghi của một vị Phật. Vì thế, khi thấy Ngài, Devadatta nghĩ
thầm: "Quả thật không có một kẻ phàm phu nào chiêm ngưỡng dung sắc tối thắng
của kim thân Sa-môn Gotama lại dám tời gần vị ấy, ngoại trừ vương tượng
Nàlàgiri là một mãnh thú hung dữ chẳng biết gì về các công
đức của Phật, Pháp, Tăng. Nó sẽ tiêu
diệt Sa-môn này".
Thế là ông liền đi kể chuyện này với
vua. Vua sẵn sàng đồng ý với đề nghị này
và triệu người quản tượng vào bảo:
- Này khanh, ngày mai khanh phải làm cho Nàlàgiri say rượu
đến độ điên cuồng, và lúc tảng sáng thả
nó ra đường phố mà Sa-môn Gotama
đi qua.
Devadatta hỏi người quản tượng ngày thường con voi này uống bao nhiêu
rượu men và khi y đáp: "Tám vò", ông
bảo:
- Ngày mai hãy cho nó uống mười sáu vò rồi thả nó ra về phía con
đường Sa-môn Gotama đi qua.
- Được lắm -Người quản tượng đáp.
Vua truyền đánh trống khắp kinh thành
và công bố:
- Ngày mai Nàlàgiri sẽ say rượu mạnh đến điên
cuồng và được thả lỏng trong kinh thành.
Dân chúng trong thành phải làm mọi việc cần làm vào sáng sớm, và sau
đó không ai được liều lĩnh ra đường phố.
Devadatta từ cung vua xuống tận chuồng voi và bảo
đám quản tượng:
- Này ta bảo cho các ông biết, chúng ta có thể hạ nhục một người từ
địa vị cao sang xuống địa vị thấp hèn và
nâng một người từ địa vị thấp hèn lên
địa vị cao sang. Nếu các ông muốn danh giá, thì
sáng sớm ngày mai hãy cho Nàlàgiri uống mười sáu vò rượu mạnh, và
đúng lúc Sa-môn Gotama đi đến lối ấy, hãy
đâm con voi kia với các gậy nhọn, nó sẽ phá
chuồng nổi điên, ông hãy đuổi nó ra về
phía con đường Sa-môn Gotama thường đi qua và thế là tiêu diệt vị ấy.
Bọn chúng sẵn sàng làm như vậy. Tiếng đồn
vang dậy khắp kinh thành. Các đệ tử tại
gia thân cận Phật, Pháp, Tăng nghe tin ấy liền đến gần bậc Đạo Sư và
thưa:
- Bạch Thế Tôn, Devadatta đã âm mưu
với vua, ngày mai sẽ cho thả con voi Nàlàgiri ra
đường mà Thế Tôn
đi qua. Xin Thế Tôn ngày mai
đừng vào thành khất thực, mà cứ ở lại
đây. Chúng con sẽ cúng dường thực phẩm ngay tại
tinh xá lên Tăng chúng với đức Phật đứng
đầu.
Đức Phật không nói thẳng: "Ngày mai Ta sẽ không vào thành khất
thực", mà Ngài đáp:
- Ngày mai ta sẽ thị hiện thần thông để
nhiếp phục Nàlàgiri và đánh bại tà
đạo. Và vì không
đi khất thực trong thành Vương Xá, ta sẽ
rời thành cùng một số Tỷ-kheo hộ tống đi thẳng
đến Veluvana (Trúc Lâm), rồi dân chúng ở Vương Xá sẽ đến đó mang theo nhiều
bình bát thực phẩm và ngày mai họ sẽ cúng dường bữa
ăn tại trai đường của tinh xá ấy.
Bằng cách này, bậc Đạo Sư đã chấp
thuận lời thỉnh cầu của họ.
Khi được tin đức Như Lai đã tán
đồng nguyện vọng của họ, họ ra đi từ kinh thành,
mang theo nhiều bình bát thực phẩm và bảo nhau:
- Chúng ta sẽ cúng dường lễ vật ngay tại tinh xá ấy.
Còn bậc Đạo Sư thuyết Pháp vào canh
một, giải đáp các vấn đề khó khăn vào
canh giữa và phần đầu canh cuối, Ngài
nằm nghiêng về phía hữu như dáng sư tử, giữa canh cuối Ngài an trú trong
Thánh quả, và sau cùng khi Ngài nhập định đại
bi vì nhân loại khổ đau, Ngài
quán sát mọi người quyến thuộc của Ngài đã
đủ cơ duyên thuần thục
để được giáo hóa, và nhận thấy rằng do
kết quả việc nhiếp phục con voi Nàlàgiri, tám mươi bốn ngàn người sẽ
được thông hiểu Pháp.
Rạng ngày hôm sau, khi đã phục vụ mọi
nhu cầu thân thể, Ngài nói với Tôn giả Ànanda:
- Này Ànanda, hôm nay hãy bảo tất cả Tỷ-kheo trong mười tám tinh xá quanh
thành Vương Xá đến hộ tống Ta vào trong
thành ấy.
Tôn giả tuân lệnh và tất cả Tăng chúng tập
hợp tại Trúc Lâm.
Bậc Đạo Sư được Tăng chúng đông đảo hộ tống
đi vào Vương Xá và bọn quản tượng tiến hành công việc theo lệnh
truyền, còn quần chúng tụ họp thành nhiều đám.
Những người mộ đạo nghĩ thầm: "Hôm nay sẽ có cuộc đại chiến giữa đức Phật là
vương tượng với con voi của thế giới phàm tục này. Chúng ta sẽ chứng kiến
đức Phật đánh bại Nàlàgiri nhờ thần lực
vô song của Ngài", và họ trèo lên đứng trên
các lầu thượng và mái nhà cùng nóc nhà.
Còn các đám tà
đạo không tin tưởng lại suy nghĩ: "Nàlàgiri
là một con dã thú hung hãn, không biết gì về công
đức của chư Phật. Hôm nay nó sẽ dẫm nát hình
thể vinh quang của Sa-môn Gotama và khiến vị ấy phải chết. Hôm nay ta sẽ trừ
khử địch thủ của ta rồi".
Họ cũng đứng trên các thượng lầu và
các chỗ cao khác.
Còn con voi, khi nhìn thấy đức Thế Tôn đến
gần, đã làm mọi người kinh hoàng bằng cách phá sập nhà cửa, giương
vòi ra nghiền nát xe cộ, tai vểnh, đuôi dựng
ngược hùng hổ chạy như một ngọn núi sừng sững lao về phía
đức Thế Tôn.
Khi thấy nó, Tăng chúng thưa với đức Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Nàlàgiri là một dã thú hung hãn, là tên sát nhân,
đang tiến đến đường này. Thật ra nó
chẳng biết gì đến công đức của chư Phật. Xin
đức Thế Tôn, bậc Thiện Thệ hãy lùi bước.
- Này các Tỷ-hheo, đừng sợ, Ta có đủ uy lực
nhiếp phục Nàlàgiri.
Sau đó Tôn giả Sàriputta thỉnh cầu
đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, khi nào có việc gì phải phụng sự phụ thân, thì
đó là trách nhiệm
đặt lên vai con trưởng. Con xin nguyện
nhiếp phục con vật này.
Bậc Đạo Sư lại bảo:
- Này Sàriputta, uy lực của đức Phật là
một việc, còn uy lực của các đệ tử là
một việc khác.
Ngài từ chối lời đề nghị của Tôn giả và
bảo:
- Ông phải ở lại đây.
Đây cũng là lời thỉnh cầu của tám mươi vị Trưởng lão nhưng Ngài từ
chối tất cả. Lúc ấy Tôn giả Ànanda vì lòng ái kính bậc
Đạo Sư nồng nhiệt nên không thể chấp
nhận việc này và kêu lớn:
- Hãy để con voi này giết con trước
tiên.
Rồi Tôn giả đứng ngay trước bậc Đạo Sư, sẵn
sàng hy sinh tính mạng vì đức Như Lai. Vì
thế bậc Đạo Sư bảo vị ấy:
- Này Ànanda, đi ra ngay, đừng đứng trước
mặt Ta.
Vị Trưởng lão đáp:
- Bạch Thế Tôn, con voi này rất hung bạo và man rợ,
đó là một tên sát nhân, giống như ngọn
lửa ở đầu cái vòng. Xin
để nó giết con trước rồi sau đó mới đến gần đức
Thế Tôn.
Và mặc dù đã
được bảo đến lần thứ ba, vị Trưởng lão
này vẫn đứng yên tại chỗ và không
đi lui. Lúc ấy đức Thế Tôn dùng thần lực
đẩy vị ấy ra sau và
đưa Tôn giả vào giữa Tăng
chúng. Ngay lúc này một phụ nữ chợt trông thấy Nàlàgiri, quá kinh
hoảng vì sợ chết, liền chạy làm rơi đứa con mà
bà đang bế bên hông xuống giữa khoảng
đức Như Lai và con voi rồi vội thoát
thân.
Con voi đuổi theo bà, chợt
đến gần đứa bé đang khóc lớn. Bậc Đạo Sư gây
xúc động với lòng từ bi được trải rộng
rất đặc biệt, vừa cất giọng dịu ngọt như tiếng của Phạm thiên vừa gọi
con voi Nàlàgiri:
- Này Nàlàgiri, những kẻ đã làm voi
điên cuồng với mười sáu vò rượu mạnh
không để cho voi tấn công kẻ nào khác,
mà chúng làm vậy vì nghĩ rằng voi sẽ tấn công Ta.
Đừng nhọc công chạy quanh không mục đích, mà
hãy đến đây.
Khi nghe giọng nói của bậc Đạo Sư, con voi
mở mắt và nhìn dáng uy nghi của đức Thế
Tôn, liền xúc động mãnh liệt và nhờ thần lực của
đức Phật, công hiệu độc hại của rượu mạnh tan
biến mất.
Vừa hạ vòi và vẫy tai, nó vừa đi đến quỳ
xuống dưới chân đức Như Lai. Lúc ấy bậc Đạo Sư bảo nó:
- Này Nàlàgiri, ngươi là một con voi hung dữ ta là vương tượng
đã thành Phật. Từ nay ngươi
đừng hung dữ và man rợ nữa,
đừng sát nhân, mà hãy tu tập tâm từ.
Nói vậy xong, Ngài đưa tay phải ra vỗ về
trán voi và thuyết Pháp qua các vần kệ này:
Nếu voi dám đánh Chúa voi này,
Voi sẽ khóc than kiếp đọa đày,
Đánh Chúa voi này, ngươi phải chịu
Đọa vào khổ cảnh kiếp sau hoài.
Từ bỏ buông lung với dại cuồng,
Kẻ ngu không đạt đến thiên
đường,
Nếu mong thiên lạc trong đời kế
Voi phải lo làm việc thiện lương.
Toàn thân con voi được thấm nhuần niềm hoan
hỷ, và giá như nó chẳng phải là loài vật bốn chân, thì nó
đã đắc Sơ
quả Dự Lưu. Dân chúng chiêm ngưỡng phép thần thông này, liền reo hò
vang dậy và búng ngón tay dòn dã.
Trong niềm hân hoan, họ tung lên đủ mọi
trang sức phủ khắp mình voi. Từ đó Nàlàgiri
được mệnh danh là Dhanapàlaka (Tài Hộ:
giữ kho báu).
Bấy giờ vào dịp gặp gỡ voi Tài Hộ này, tám vạn bốn ngàn chúng sinh
được uống vị ngọt của Pháp Bất tử. Và
bậc Đạo Sư đã an trú voi Tài Hộ vào Ngũ
giời. Nó vừa dùng vòi hất bụi bặm từ chân đức
Thế Tôn rải lên đầu nó, vừa cúi mình
đi lui, rồi đứng đảnh lễ đấng Thập lực cho đến
khi Ngài khuất dạng, sau đó nó quay về
chuồng voi.
Từ đó về sau, nó hoàn toàn thuần thục
và không hại ai cả. Bấy giờ ý nguyện của bậc
Đạo Sư đã thành tựu, nên Ngài quyết định
rằng kho báu ấy vẫn là tài sản của những người
đã ném nó lên con voi, Ngài suy nghĩ:
"Hôm nay Ta đã thực hiện một
đại thần thông. Nếu Ta đi khất thực trong kình
thành này thì không thích hợp".
Thế là sau khi đánh bại đám tà
đạo, Ngài
được các Tỷ-kheo hộ tống đi ra kinh thành như một vị tướng lãnh chiến
thắng và tiến thẳng về phía Trúc Lâm. Dân chúng
đem theo một số cơm nước và thức ăn loại
cứng đi vào tinh xá rồi cử hành đại lễ
cúng dường.
Chiều hôm ấy, trong lúc ngồi đông đủ tại
Chánh Pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận, bảo nhau:
- Tôn giả Ànanda đã thành tựu một
việc hy hữu khi sẵn sàng hy sinh tính mạng để
cứu đức Như Lai. Vừa trông thấy Nàlàgiri, mặc dù
đã bị bậc
Đạo Sư bảo ba lần không được ở lại đó, Tôn giả vẫn không chịu đi ra. Này
các Hiền giả, quả thật Trưởng lão ấy đã
làm một việc hy hữu.
Bậc Đạo Sư suy nghĩ: "Câu chuyện này
xoay quanh vấn đề đức hạnh của Ànanda,
Ta phải hiện diện ở đó mới được".
Ngài liền bước ra khỏi Hương phòng vừa đến
hỏi hội chúng:
- Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn
vấn đề gì trong lúc ngồi tại
đây?
Và khi Tăng chúng đáp: Về vấn đề như vầy như
vầy. . .,
Ngài bảo:
- Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa nữa, ngay khi còn ở hình hài súc
sinh, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng
vì Ta.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, trong quốc độ Mahimsaka ở kinh thành
Sakula, có vị vua mệnh danh Sakula cai trị vương quốc theo Chánh pháp. Thời
ấy, không xa kinh thành, có một người bẫy chim ở trong ngôi làng của dân bẫy
chim, kiếm sống bằng nghề đánh bẫy chim và
đem ra phố bán. Gần kinh thành là một hồ
sen tên là Mànusiya, chu vi mười hai dặm, phủ
đầy năm loại hoa sen. Một đàn chim đủ
loại thường đến đó và người thợ kia tha hồ
đặt bẫy. Bấy giờ chúa loài Thiên nga là
Dhatarattha có đám tùy tùng gồm chín
mươi sáu ngàn Thiên nga an trú trong Kim Động
trên núi Cittakùta và vị đại tướng của đàn
là Sumukha (Sư-mục-kha).
Một ngày kia, một đàn Thiên nga màu
vàng óng ả bay đến hồ Manusiya và sau
khi gặm chồi sen thỏa thích trong vùng đất
phong phú thực phẩm này, chúng bay về ngọn núi Cittakùta mỹ lệ kia và
trình báo với chúa chim Dhatarattha:
- Tâu Đại vương, có hồ sen tên là
Mànusiya, một vùng đất thực phẩm phong phú nằm
giữa nơi cư trú của loài người. Chúng thần muốn
đến nơi đó ăn uống.
Chúa chim đáp:
- Những nơi cứ trú của loài người đầy nguy
hiểm. Đừng để chuyện này lôi cuốn các bạn.
Sau đó mặc dù không ưng thuận
đi, ngài vẫn bị chúng nài nỉ mãi, liền
bảo:
- Nếu các bạn thích chuyện ấy thì chúng ta sẽ
đi.
Rồi cùng với đám hầu cận, ngài bay
đến đó. Vừa đáp xuống từ trên không,
ngài đã đặt
chân vào dây thòng lọng ngay đúng lúc ngài
chạm mặt đất. Thế là dây ấy siết chân
ngài như thể cái kẹp sắt và giữ chân ngài thật chặt.
Lúc ấy ngài nghĩ cách phá cái bẫy liền giật mạnh nó, trước tiên da chân
rách ra, kế đó thịt bị xé ra và cuối
cùng dây gân đứt, đến khi cái bẫy chạm tới
xương, máu tuôn xối xả gây đau nhức dữ dội . Ngài suy nghĩ: "Nếu ta
thốt tiếng kêu bị bắt, đồng loại ta sẽ hốt
hoảng và nếu không được ăn gì
chúng sẽ nhịn đói bay về và do kiệt sức,
chúng sẽ rơi xuống nước".
Vì vậy ngài chịu đau cho đến khi đám thân
thuộc đã ăn uống no nê và vui
đùa theo kiểu thiên nga, ngài cất tiếng
kêu của con chim bị nạn. Nghe vậy, cả bầy Thiên nga kinh hoảng sợ chết liền
bay về phía núi Cittakùta.
Ngay khi chúng đã khuất dạng, Sumukha
đại tướng loại Thiên nga, suy nghĩ: "Có
thể đây là một việc khủng khiếp
đã xảy ra với
Đại vương chăng? Ta muốn tìm xem sao".
Rồi bay hết tốc lực mà vẫn không nhìn thấy bậc
Đại Sĩ trong phần của đoàn quân Thiên
nga đang bay về, chim ấy đi tìm ngài ở
đoàn chim lớn, và cũng không thấy ngài
đâu cả nó tự bảo: "Chắc chắn có việc gì
ghê gớm xảy ra rồi". Khi quay lại nó liền thấy bậc
Đại Sĩ bị mắc bẫy, thân đầy máu đang chịu đau
đớn vô cùng và đang nằm trên
đám bùn. Chim ấy hạ cánh xuống
đậu trên mặt
đất, vừa cố sức an ủi bậc Đại Sĩ, vừa nói:
- Xin Đại vương chớ sợ, thần sẽ giải cứu Đại
vương khỏi cái bẫy dù phải hy sinh tính mạng mình.
Lúc ấy, muốn thử lòng chim bạn, bậc Đại Sĩ
ngâm vần kệ đầu:
1. Bầy chim không để ý gì ta,
Vội vã chúng bay biến thật xa,
Chim bị giam tìm đâu bạn hữu?
Bay ngay, đừng ở nán đây mà.
Tiếp theo đây là các vần kệ
đối đáp nhau:
Đại tướng:
2. Dù có đi hay ở vời ngài,
Ngày kia thần cũng phải lìa đời,
Thần theo ngài thuở còn vinh hiển,
Lúc khổ đau không thể bước rời.
3. Hoặc thần phải chết với quân vương,
Hoặc sống đời hiu quạnh đoạn trường,
Thà chết ngay đây thì thật tốt
Còn hơn sống để khóc bi thương.
4. Bỏ ngài không đúng nghĩa quân thần,
Khi ở trong tình cảnh đáng buồn,
Thần sẽ rất hài lòng mãn nguyện
Cùng ngài chung số phận phong trần.
Nga vương:
5. Số phận nào cho chim bị giam,
Ngoại trừ dây nướng thịt hung tàn,
Tự do, trí vẫn còn suy nghĩ,
Sao có thể đành chịu bỏ thân?
6. Có lợi gì khanh hoặc với ta
Từ đây, khanh xét thấy, Thiên nga,
Lợi gì quyến thuộc ta còn sống
Nếu cả hai ta phải chết mà?
7. Kim Nga, nghĩa cử của hiền khanh
Sẽ bị màn đêm phủ thật nhanh,
Hành động hy sinh này biểu lộ
Đức gì nếu
đặt dưới bình minh?
Đại tướng:
8. Ngài không thấy, hỡi Thiên nga vương,
Hạnh phúc theo sau việc Chánh chân?
Chánh nghĩa được tôn sùng xứng
đáng
Dạy cho người thực chất hiền lương.
9. Thấy Chân chánh, tất cả việc lành
Có thể từ Chân chánh phát sinh,
Vì đã quý yêu ngài thắm thiết,
Thần hân hoan phóng xả thân mình.
10. Nếu biết điều Chân chánh, chúng ta
Không hề bỏ bạn lúc sa cơ,
Cho dù phải cứu mình đi nữa,
Bậc trí khuyên đây Chánh nghĩa mà.
Nga vương:
11. Chánh nghĩa của khanh đã thực
hành,
Trong khi ta nhận thấy chân tình,
Đi ngay, nếu thật khanh mong muốn
Làm việc mà ta rất tán thành.
12. Có lẽ các dây thuở đã qua
Buộc ràng quyến thuộc dưới quyền ta
Kịp thời chuyển đến khanh sau đó
Với trí, tài điều khiển vượt xa.
13. Trong khi đôi bạn quý cao này
Trao đổi tâm tư tuyệt diệu vầy,
Hãy ngắm, gã săn chim táo bạo
Hiện ra trước mắt chúa tôi đây
Khác gì Thần chết đang đi đến
Trước kẻ liệt giường khốn khổ thay.
14. Đôi bạn thấy kia một kẻ thù
Nên lòng lo sợ, nặng ưu tư,
Lặng yên đậu đó không di chuyển
Khi gã đến gần tự nẻo xa.
15. Thấy bầy ngỗng nọ đã bay tung
Đây đó, biến dần giữa cõi không,
Nơi chốn đôi chim cao thượng đậu,
Cừu nhân vội vã tiến lên gần.
16. Trong lúc gã đang vội bước chân,
Đến nơi định mệnh đã dành phần,
Thợ săn rung động vì tư tưởng,
Kêu lớn: "Bầy chim bị bắt không?"
17. Gã thấy một chim trong bẫy giăng,
Và con chim nọ gã nhìn sang
Chăm lo chim bạn đang tù hãm,
Còn nó không xiềng xích buộc ràng.
18. Hoang mang trí óc lẫn hoài nghi,
Gã ngắm đôi chim cao thượng kia,
Khôn lớn cả đôi, cùng đẹp mã,
Gã liền cất tiếng, giọng từ bi:
Thợ săn:
19. Đành rằng chim bị bắt trong dây
Không thể bao giờ cất cánh bay,
Ngươi vẫn tự do và lớn mạnh,
Sao ngươi quyết ở với chim này?
20. Với ngươi, chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn kia
đã trốn di,
Dầu được tự do, ngươi ở lại,
Bên chim bị bắt một mình kia?
Đại tướng:
21. Hỡi cừu nhân của đám Thiên nga,
Ngài chính quân vương, vốn bạn mà,
Thân thiết như đời ta chẳng khác,
Ồ không, ta chẳng muốn bao giờ
Bỏ ngài trong lúc ngài lâm nạn.
Cho đến khi Thần chết gọi ta.
Thợ săn:
22. Chim này không phát hiện hay sao
Chiếc bẫy người giăng kín thế nào?
Phận sự của anh hùng tướng lãnh
Là đề phòng hiểm họa gian lao.
Đại tướng:
23. Khi người sắp gặp bước suy tàn,
Giờ Tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đến kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy sập dây giăng!
Thợ săn:
24. Bẫy dù đủ loại, hỡi chim Thần,
Đôi lúc đặt ra chỉ uổng công,
Đến phút cuối cùng do định mệnh
Con người bị bẫy kín, thương vong.
Như vậy là nhờ đối thoại với gã bẫy
chim mà đại tướng Thiên nga
đã xoa dịu lòng gã, và chim ấy ngâm vần
kệ xin gã tha mạng cho bậc Đại Sĩ:
25. Có phải đây là kết quả lành
Do lời thân thiện với tôn huynh
Xin người tha mạng đôi ta với,
Ta được tự do giải thoát nhanh.
Người bẫy chim say mê giọng đối đáp dịu ngọt
của Sumukha, liền ngâm kệ:
26. Này chim, ngươi chẳng bị giam mình,
Hãy chạy đi, mau chạy thật nhanh,
Ta chẳng muốn thân ngươi đổ máu,
Bình an, hãy sống chuỗi ngày xanh.
Tiếp theo sau chim Sumukha ngâm bốn vần kệ:
27. Ta không tha thiết sống riêng ta,
Nếu bạn ta đây phải chết mà,
Xin hãy vui lòng tha vị ấy,
Thịt ta thay thế chúa Thiên nga.
28. Chúng ta về tuổi tác tương đồng,
Cùng cỡ rộng dài các cẳng chân,
Không mất gì, dù người đổi lấy
Mạng ta thay thế mạng quân vương.
29. Hãy xét xem ta với cách này,
Thỏa lòng thèm muốn với ta đây,
Trước tiên hãy buộc ta vào bẫy,
Rồi để chúa chim giải thoát ngay.
30. Do đó người thành tựu ước mong,
Và ta đạt nguyện vọng trong lòng,
Thiên nga, Tôn giả đều hòa hợp
Trong lúc đời trôi mãi chẳng dừng.
Vậy là nhờ nghe giảng Pháp lành, tim người thợ săn
dịu lại, như thể vải được nhúng dầu và gã giao bậc
Đại Sĩ cho chim ấy, khác nào giao nô lệ
cho chủ nhân, rồi ngâm kệ:
31. Xin làm chứng, các bậc hiền nhân
Nô lệ, họ hàng, các bạn thân,
Do chính một mình ngươi cứu giúp
Chúa chim đượcgiải thoát giam cầm.
32. Ít ai có được một thân bằng
Như chính ngươi đang thật sẵn sàng
Chia xẻ cùng nhau chung số phận
Khi chim chúa gặp bẫy vong thân.
33. Vậy chúa chim này, ta thả ra
Bạn ngươi, theo gót cũng bay xa,
Mau lên, giữa đám chim thân thuộc
Ngươi sẽ như sao chiếu sáng lòa.
Nói vậy xong, người đánh bẫy kia với từ tâm
đến gần bậc Đại Sĩ và cắt các sợi dây ra, ôm ngài trong tay,
đưa ngài ra khỏi nước và
đặt ngài trên
đám cỏ xanh tươi bên bờ hồ, rồi hết sức
dịu dàng, gã nhẹ tay nới lỏng chiếc bẫy đã
trói chân ngài rồi ném nó ra xa.
Sau đó, phát sinh tình thương mến
mãnh liệt đối với bậc Đại Sĩ, với tâm lòng
tràn ngập niềm thân ái, gã lấy nước rửa máu ở vết thương của ngài và chùi
sạch sẽ. Do năng lực của từ tâm ấy, vết thương
ở chân Bồ-tát khép lại dần, gân nối liền gân, thịt liền thịt, da liền da. Da
non hiện ra và lông tơ mọc phủ lên đó.
Bồ-tát vẫn giống hệt như trước kia chân không hề bị sa bẫy bao giờ và an
toàn theo tư thế bình thường hoan hỷ. Lúc ấy Sumukha chiêm ngưỡng bậc
Đại Sĩ hạnh phúc như vậy, tất cả đều do hành
động của mình, trong niềm vui tràn trề,
nó ca tụng người bẫy chim.
*
Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ
vấn đề:
34. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước,
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
35. "Lạp hộ, cùng thân quyến cả nhà,
Mong chư vị hạnh phúc chan hòa
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chim chúa Thiên nga được thả ra".
Sau khi tán thán người bẫy chim như vậy, tướng quân Sumukha nói với
Bồ-tát:
- Tâu Chúa thượng, người này đã cống
hiến chúng ta một công đức thật vĩ đại: ví thử
y không nghe lời chúng ta, y có thể được đại phú hoặc bằng cách luyện tập
chúng ta cho thuần để nuôi làm trò tiêu khiển và
đem dâng các vị Đại vương nào
đó hoặc giết chúng ta để bán làm thức
ăn. Song y đã nghe theo lời ta mà hoàn
toàn không quan tâm đến kế sinh nhai của y. Vậy
ta hãy đưa y vào yết kiến quốc
vương và làm cho y được hạnh phúc suốt đời.
Bậc Đại Sĩ chấp thuận việc này ngay.
Sau khi vừa đàm luận với bậc
Đại Sĩ bằng ngôn ngữ riêng của loài chim
xong, tướng quân Sumukha nói với kẻ bẫy chim bằng tiếng người và hỏi:
- Này hiền hữu, tại sao hiền hữu đặt bẫy?
Để kiếm lợi - Gã đáp.
Sumukha bảo:
- Nếu vậy thì hiền hữu hãy đưa chúng ta vào
thành trình diện với đức vua, ta sẽ thuyết phục
đức vua ban phú quý cho hiền hữu.
Và chim ấy ngâm các vần kệ:
36. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa,
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
37. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người
mang.
38. Rồi người hãy nói: "Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương".
39. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền.
Khi chim ấy nói xong, người bẫy chim đáp:
- Xin các vị đừng mong muốn yết kiến đức vua
nữa. Vua chúa quả thật tâm tính hay thay đổi: họ sẽ bắt giữ các vị để làm
trò tiêu khiển hoặc giết chết các vị đấy.
Sumukha đáp:
- Này hiền hữu, đừng sợ gì cả. Ta
đã thuyết Pháp làm dịu lòng một kẻ
độc ác như bạn và
đã khiến bạn quy phục ta, dù người là
một kẻ bẫy chim với bàn tay vấy máu đỏ. Còn
các vua chúa thật ra đầy nhân từ và trí
tuệ, là những người có thể phân biệt lời lẽ thiện ác. Vậy hãy mau
đưa chúng ta vào yết kiến
đức vua của hiền hữu.
Người bẫy chim nói:
- Thôi được, xin các vị chớ giận tôi
. Nếu việc này làm các vị thật sự thích thú, thì tôi sẽ
đưa các vị đến yết kiến vua.
Thế rồi gã đưa đôi chim lên
đòn gánh của gã và
đi đến triều đình xin bệ kiến vua. Khi
được vua hỏi chuyện, người bẫy chim công bố mọi
sự kiện của trường hợp này.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
40. Vội làm khi gã mới nghe xong
Việc các chim mong tận cõi lòng,
Đem cặp hồng nga vào bệ kiến,
Bình an, thân thể mạnh hoàn toàn,
Đậu kia, chẳng có gì ràng buộc,
Trên mỗi đầu đòn gánh gã mang.
41. Rồi người ấy nói: "Tấu Minh quân
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương .
42. "Kìa, những chim này mạnh biết bao,
Trở thành mồi bẫy của ngươi sao,
Sao ngươi bò tới gần bên chúng
Chẳng khiến chúng kinh hãi tẩu đào?"
43. "Trong ao hồ, khải tấu Minh quân,
Xin hãy ngắm xem bẫy lưới giăng,
Trong mọi chốn loài chim trú ẩn,
Bẫy thường được đặt tạo thương vong.
44. Chính trong một bẫy kín như vầy
Thần đã bắt chim chúa ngỗng này,
Chim bạn tự do ngồi kế cận
Và mong cầu chúa thoát tù đày.
45. Chim này làm phận sự hơn xa
Thành tựu phàm nhân đạt đến mà,
Cương quyết tập trung toàn nỗ lực
Làm cho chim chúa được buông tha.
46. Chim đằng kia muốn chịu hy sinh,
Xứng đáng hưởng thêm cuộc sống mình,
Ví thử chúa chim này được sống,
Chúa chim đã được bạn tôn vinh.
47. Nghe những lời chim ấy giải bày,
Tiểu thần liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải phóng chim tù tội,
Ra lệnh đôi chim cất cánh bay.
48. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân,
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
49. "Lạp hộ, cùng thân quyến họ hàng,
Mong chư vị hạnh phúc muôn vàn
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chúa chim Thiên nga được thoát nạn,
50. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
51. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người
mang.
52. Rồi người hãy nói: "Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương".
53. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền .
54. Do vậy, theo lời chim bảo ban
Thần đưa đôi ngỗng đến triều đường,
Mặc dù chúng tự do tìm kiếm
Nơi trú bình an ở núi ngàn.
55. Chim kia có số phận như vầy,
Dù thật chánh chân đến thế này
Có thể chuyển lay lòng trắc ẩn
Thợ săn hung bạo tựa thần đây.
56. Thiên nga này, khải tấu Minh quân,
Tặng vật tiểu thần đến hiến dâng,
Giữa những chốn người săn đặt bẫy,
Hiếm khi tìm được vật ngang bằng.
Như vậy, gã đứng đó tán dương những đức hạnh
của Sumukha. Sau đó vua Sakula tặng ngỗng chúa một bảo tọa cao sang và
Sumukha một kim đôn quý giá. Khi đôi chim đã
an tọa, vua mới dùng bắp rang, mật ong, mật mía và các món tương tự
đựng trong các chén dĩa bằng vàng. Khi
đôi chim đã
ăn xong, vua chấp hai tay thỉnh cầu bậc Đại Sĩ thuyết Pháp rồi ngồi xuống
một kim đôn nữa.
Theo lời thỉnh cầu ấy, chúa Thiên nga đàm
đạo đầy hứng thú với vua.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ mọi
việc:
57. Giờ đây nhìn thấy
đấng quân vương
An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
Làm êm tai chúa tể trần gian.
Thiên nga:
58. "Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?"
Quân vương:
59. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
60. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
Quân vương:
61. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
Thiên nga:
62. Phải chăng hoàng hậu cũng chung
dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý Minh quân?
Quân vương:
63. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.
Khi Bồ-tát đã chấm dứt những lời chào
hỏi thân hữu xong, vua lại đàm
đạo cùng ngài:
Quân vương:
64. Khi vận rủi kia đưa đẩy ngài,
Đến cừu nhân tối hiểm trên
đời,
Khi ngài gặp phải tay người ấy,
Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
65. Gã kia có chạy, gậy trong tay
Đánh đập các ngài, nói trẫm hay?
Với những con người gian ác ấy
Trẫm thường nghe nói cách như vầy.
Thiên nga:
66. Ta không hề gặp bước gian nan
Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
Với ta như những bọn cừu nhơn.
67. Người bẫy chim run rẫy, ngạc nhiên,
Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
Và Sư-mục, tướng quân khôn nhất,
Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
68. Nghe những lời chim tuớng giải bày
Người kia liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
69. Tâu Đại vương, Sư-mục ước mong
Đến đây và yết kiến long nhan,
Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng.
Quân vương:
70. Cung nghênh các vị, đúng hoàn
toàn,
Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian.
Nói vậy xong, vua nhìn thẳng một vị cận thần và khi vị ấy hỏi:
- Tâu Đại vương, xin cho biết Thánh ý.
Vua đáp:
- Khanh hãy đưa người bẫy chim này
đi tỉa gọn râu tóc và sau khi gã
được tắm rửa, xoa dầu thơm, hãy cho gã
phục sức xiêm y lộng lẫy và đưa gã lại
đây.
Khi việc này đã xong và người bẫy
chim được dẫn đến, vua ban ân cho gã một
ngôi làng hằng năm sinh lợi một trăm ngàn
đồng tiền và thêm một ngôi nhà
đứng ở vị trí giáp hai mặt đường, một cỗ xe
lộng lẫy và cả kho vàng ròng.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
71. Quân vương rộng lượng đã truyền
ban
Người bẫy chim vô số bạc vàng,
Sau đó hồng nga cất tiếng nói
Âm thanh mê mẩn cả tâm can.
*
Sau đó bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho vua, và
khi nghe ngài giảng giải, vua sinh tâm hoan hỷ, mong muốn bày tỏ dấu hiệu
kính trọng đối với vị Pháp sư, vua liền tặng ngài
chiếc lọng trắng, vừa dâng lên ngài cả quốc độ
vừa ngâm các vần kệ này:
72. Những gì trẫm có, đúng công bằng
Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
Sẽ chuyển qua quyền ngài thọ hưởng,
Nếu ngài nêu nguyện ước trong tâm.
73. Dẫu ngài đem bố thí ban ân,
Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
Và giao ngài cả chiếc ngai vàng.
Bậc Đại Sĩ liền trao trả chiếc lọng trắng mà
vua đã tặng ngài. Rồi vua suy nghĩ: "Ta
đã nghe Pháp do vị chúa hồng nga thuyết
giảng, song vị tướng quân Sumukha này được gã
bẫy chim tán tụng nhiệt liệt là nói năng dịu
ngọt như mật rót vào tai, vậy ta cũng muốn nghe chim ấy thuyết Pháp".
Thế là vua ngâm vần kệ khác để đàm
đạo với chim ấy:
74. Trí hiền Sư-mục thật tinh thông,
Ví thử nói ra tự nguyện lòng
Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.
Sau đó Sumukha đáp:
75. Xin tâu Chúa thượng, trước Minh quân,
Đúng phép, tôi không dám nói năng
Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
Khác nào vương tử của Long thần.
76. Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
Và ngài Đại đế tối cao vầy,
Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
77. Thần tôi hèn mọn, tấu Quân vương,
Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
Khi nhị Đại vương đang nghị sự
Bao điều quan trọng giữa triều đường.
Vua nghe chim ấy nói, lòng đầy hoan hỷ phán
bảo:
- Người bẫy chim nhiệt liệt ca tụng tướng quân, chắc chắn không thể có
được ai khác như khanh cả, quả thật khanh là
vị thuyết Pháp êm dịu làm sao!
Vua ngâm các vần kệ này:
78. Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
Ở kẻ trí chưa được học hành.
79. Trong đám chim cao quý trẫm xem
Chim này vô địch giữa đàn em,
Tối cao đức tính chim đầy đủ
Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
80. Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
Ước mong của trẫm là hai vị
Ở mãi bên mình thỏa ước.
Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm kệ ca tụng vua:
81. Ngài đối đãi
đây với chúng thần
Như người đối với đại thân bằng,
Này đây Chúa thượng vừa ban phát
Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
82. Song đàn chim quyến thuộc kêu than
Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
Và có nhiều chim đầy khổ não
Vì không còn thấy bóng Nga vương.
83. Vậy để xua tan nỗi khổ này,
Đại vương, xin thả chúng thần ngay,
Cúi xin Chúa thượng nay cho phép
Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
84. Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân vương,
Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.
Khi ngài nói vậy xong, vua mới chịu để hai
vị giã từ. Bậc Đại Sĩ lại thuyết giảng
với vua về nỗi khổ đau theo liền Ngũ ác dục và niềm hạnh phúc
đi theo công đức, rồi ngài khích lệ vua:
- Xin Đại vương giữ giới luật và trị
dân chân chánh cùng thu phục nhân tâm với Tứ Nhiếp pháp (Bốn pháp hòa hợp:
Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự)
Sau đó ngài khởi hành về núi
Cittakùta.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
85. Như vầy với chúa tể loài người,
Chim chúa Dha-ta đã
đáp lời,
Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
Tung đôi cánh mạnh nhất lên trời.
86. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
87. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
Hân hoan vì chúa được an thân.
Trong khi hộ tống chim chúa, bầy Thiên nga hỏi ngài:
- Tâu Chúa thượng, làm thế nào ngài thoát nạn?
Bậc Đại Sĩ thuật cho chúng nghe ngài
được giải thoát nhờ Sumukha giúp đỡ, và
nói về hành động của vua Sakula cùng
người bẫy chim.
Nghe vậy cả bầy Thiên nga hân hoan ca ngợi tất cả các vị:
-Vạn tuế tướng quân Sumukha của đàn
Thiên nga, và Đại vương Sakula cùng chú
bẫy chim. Cầu mong các vị an lạc hạnh phúc lâu dài.
Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ cuối cùng
để làm sáng tỏ vấn
đề:
88. Ai có từ tâm ắt đạt thành
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
*
Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại v à bảo:
- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ànanda cũng
đã hy sinh tính mạng vì Ta.
Và Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người bẫy chim, Sàriputta (Xá-lợi-phất)là
nhà vua, Ànanda (A-nan) là Sumukha, các đệ tử
đức Phật là chín mươi ngàn Thiên nga, và Ta chính là chúa Thiên nga.
-ooOoo-
534. Chuyện đại Thiên
nga (Tiền thân Mahàhamsa)
Kìa đám hồng nga cất cánh bay...,
Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong
lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Trưởng lão Ànanda hy sinh tính mạng.
Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã
có nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo Sư kể
chuyện quá khứ, đã tường thuật cổ tích sau
đây.
*
Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, một vị quốc vương mệnh danh Samyama có vị
chánh hậu tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát cùng
đám tùy tùng chín mươi ngàn thiên nga
trú trên đỉnh núi Cittakùta.
Một ngày kia vào lúc tảng sáng, hoàng hậu Khemà thấy chiêm bao: một bầy
thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai
vua và thuyết Pháp với giọng ngọt ngào. Trong khi hoàng hậu
đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa
được trọn bài thuyết giảng, thì bình
minh đã
đến, bầy thiên nga liền chấm dứt Pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng
Hoàng hậu vội vàng thức dậy kêu to:
- Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân.
Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy. Nghe lời bà,
đám cung nữ thưa:
- Tâu lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?
Và chúng cười khúc khích.
Lúc ấy, hoàng hậu biết đó chỉ là giấc
mơ, và nghĩ thầm: "Ta không thể thấy một vật không có thật: chắc chắn có
loài kim nga trên đời này, song nếu ta
tâu đức vua: "Thiếp mong muốn nghe loài
kim nga thuyết Pháp" , ngài sẽ bảo: "Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả,
làm gì có chuyện chim kim nga thuyết Pháp". Và ngài sẽ không quan tâm
đến vấn đề đó. Song nếu ta tâu: "Thần thiếp có
niềm ao ước ấy trong lúc mang thai", ngài sẽ cho tìm chúng mọi cách
và thế là ta được thỏa tâm nguyện".
Vì vậy, vừa giả bệnh, vừa dặn dò các cung nữ xong, bà
đi nằm. Khi vua đã ngự lên ngai mà không
thấy bà đến yết kiến như thường lệ, liền hỏi hoàng
hậu Khemà ở đâu và khi nghe bà bị bệnh,
vua đến thăm bà, vừa ngồi một bên giường
bà, vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình
của bà. Bà đáp:
- Tâu Chúa thượng, thần thiếp chẳng bệnh gì cả, song thiếp chợt có những
mềm ao ước của một thai phụ.
- Này ái khanh, cứ nói đi, ái khanh muốn gì,
trẫm sẽ tìm được cho ái khanh ngay.
- Tâu Chúa thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết Pháp trong lúc
chim ấy ngự trên ngai vàng, có chiếc lọng che trên
đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy
nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ
lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp
đạt được điều này thì quý biết bao, nếu
không, thiếp chẳng muốn sống nữa.
Vua liền an ủi bà và bảo:
- Nếu có vật ấy trên thế giới này thì ái khanh sẽ
được toại nguyện, chớ lo buồn.
Rồi ra khỏi cung thất của hoàng hậu, vua tham vấn các vị
đại thần và phán:
- Này các khanh, hãy lưu ý: hoàng hậu Khemà bảo: "Nếu thiếp nghe
được chim kim nga thuyết Pháp thì thiếp
sẽ sống, nếu không, thiếp sẽ chết". Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim
nga nào chăng?
Triều thần đáp:
- Tâu Chúa thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.
- Thế ai biết được chuyện này?
- Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn.
Vua liền triệu tập các Bà-la-môn đến và
hỏi:
- Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết Pháp chăng?
- Tâu Đại vương, có. Theo
truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga
đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người
ta bảo dòng giống Thiên nga Dhatarattha rất tinh khôn thông thái. Cộng thêm
loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ròng.
Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi:
- Vậy loài hồng nga thông thái này cư ngụ ở
đâu?
- Tâu Đại vương, chúng thần không biết.
- Thế thì ai biết chứ?
- Bọn bẫy chim - Họ đáp.
Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về, và hỏi họ:
- Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhatarattha cư trú
ở đâu?
Một người bẫy chim đáp:
- Tâu Đại vương, theo truyền thuyết từ đời
nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên
đỉnh Cittakùta.
- Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được
chúng chăng?
- Tâu Đại vương, thần không biết.
Vua liền triệu tập các Bà-la-môn thông thái, sau khi cho họ biết có loài
chim kim nga trên đỉnh Cittakùta, vua
hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng. Họ đáp:
- Tâu Đại vương, cần gì chúng thần
phải bắt chim? Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa
chim về gần kinh thành và bắt chúng.
- Mưu kế gì vậy?
- Tâu Đại vương, về phía bắc kinh thành,
xin Đại vương ra lệnh đào một cái hồ
rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn,
chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng
năm loại hoa sen phủ mặt hồ. Rồi giao hồ cho
một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ, và
phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết
đây là hồ bảo tồn chim muông. Khi nghe
vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó các chim
kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tức nhiên sẽ
đến thăm hồ và
Đại vương sẽ bảo lấy thòng lọng bẫy
chúng.
Vua nghe vậy, liền bảo đào hồ như họ
miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo
đến, ban cho gã một ngàn
đồng tiền và phán:
- Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng vợ con gia
đình ngươi. Cẩn thận canh giữ hồ bình an
này và buộc mọi người phải tránh xa hồ, truyền rao khắp bốn phương rằng
đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài
chim nào lai vãng nơi đây đều là của
trẫm, và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ
được vinh hoa phú quý.
Cùng với những lời khích lệ này, vua giao gã chăm
nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm
đúng như vua truyền canh giữ nơi ấy và
do gã bảo vệ hồ bơi được bình an, sẽ dần
dần được mệnh danh là người bẫy chim
Khemà (Bình An).
Từ đấy, mọi loài chim
đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin
cho nhau rằng hồ này bình an ổn định, nên
nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là
loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chứng loan báo, kế
đó là loài hoàng nga, và theo cách này
giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng
và thiên nga Paka lần lượt đến.
Khi chúng đến, Khemà trình vua như
vầy:
- Tâu Đại vương, năm loài thiên nga
đã đến, và
chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống hồ này.
Giờ đây thiên nga Paka
đã đến, chỉ
vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin
Đại vương chớ lo âu nữa.
Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh
công bố khắp kinh thành rằng không ai
được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân sẽ chịu hình phạt chặt
tay chân và tịch thu gia sản, nên từ đó không
ai dám đến đó nữa.
Bấy giờ, thiên nga Paka cư trú không xa đỉnh
Cittakùta trong Kim Động. Loài
chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ
Dhatarattha, màu sắc thân của chúng rất đặc
sắc, còn con gái của Thiên nga vương Paka lại có màu vàng ánh. Vì thế
vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với Thiên
nga vương Dhatarattha và gả nàng cho vua chim kia. Nàng rất
được vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng
họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.
Một hôm bầy thiên nga hầu cận Bồ-tát hỏi thiên nga Paka:
- Các bạn tìm thức ăn ở đâu bây giờ?
- Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba-la-nại,
trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận
đâu?
- Đến nơi như vầy, như vầy - Chúng đáp.
- Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim
muông? Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ
các loài chim, được năm loại sen bao
phủ, rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây, cùng nhiều
đàn ong đủ
loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ công bố hồ được vĩnh
viễn tránh khỏi hiểm nguy. Không ai được phép đến gần, lại càng không
có việc hại nhau đâu.
Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ bình an mãi. Khi nghe chuyện thiên nga
Paka nói, chúng trình với Sumukha (Sư-mục-kha).
- Bầy chim kia bảo chúng thần ở gần Ba-la-nại có một hồ bình an như vầy,
dòng họ Paka vẫn thường đi ăn tại đó.
Xin tướng công tâu với Đại vương
Dhatarattha và nếu ngài cho phép chúng thần, thì chúng thần cũng sẽ
kiếm mồi tại đó.
Sumukha trình với chúa chim, ngài suy nghĩ: "Loài người quả thật
đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do
gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ
như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây
để bắt chúng ta". Ngài liền bảo Sumukha:
- Khanh đừng tán thành việc
đi đến hồ kia. Hồ này chẳng
được họ xây bằng thiện ý đâu; mà nó
được xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài
người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt.
Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi.
Lần thứ hai bầy kim nga thưa với tướng Sumukha rằng chúng rất nóng lòng
đi đến hồ Bình An và vị ấy lại trình
nguyện vọng của chúng lên chúa chim. Bậc Đại Sĩ
suy nghĩ: "Không nên để quyến thuộc ta
bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến
đó".
Vì vậy được chín mươi ngàn thiên nga
hộ tống, ngài bay đến đó và gặm chồi
non, vui đùa theo cung cách loài thiên
nga xong rồi bay về núi Cittakùta.
Sau khi bầy chim đã
ăn uống và giã từ, gã bẫy chim Khemaka
đi trình vua Ba-la-nại việc chim
đã đến. Vua
vô cùng hoan hỷ phán:
- Này hiền hữu Khemaka, hãy gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban
thưởng vinh hoa phú quý cho khanh.
Cùng với các lời này, vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về.
Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và
ngắm các hoạt động của bầy thiên nga.
Các vị Bồ-tát quả thật đã thoát ly tham
dục. Vì thế bậc Đại Sĩ bắt đầu từ nơi đã
hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng
mực từ tốn. Còn các chim kia đều bay
nhảy kiếm mồi khắp nơi. Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ: "Thiên nga
này đã thoát ly tham dục:
đây chính là con chim ta phải bắt lấy".
Ngày hôm sau trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã
đến một nơi gần đó giấu mình trong cái
thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe
hở của thùng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ được chín mươi
ngàn Thiên nga hộ tống đáp xuống nơi ngài
đã đến hôm
trước, và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua,
tiếp tục gặm lúa.
Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ
đẹp phi thường của chim này, và suy
nghĩ: "Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang
đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc
theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng,
toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ
đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính
là con chim ta quyết bắt lấy".
Còn chúa Thiên nga, sau khi ăn lúa trên
đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng
nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở
về núi Cittakùta. Suốt sáu ngày liền, ngài kiếm mồi theo kiểu ấy.
Vào ngày thứ bảy, Khemakha kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa
đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào,
rồi vì biết chúa Thiên nga sẽ đáp xuống ngày
mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc
cái bẫy ở trên vào trong vũng nước.
Hôm sau, chúa Thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp
chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê
nó đi và lấy hết sức
đạp mạnh vào bẫy. Trước tiên chỗ da vàng
ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu
đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối
cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song
nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với
một chúa chim, nên chim không chống cự nữa. Trong khi các chỗ
đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: "Nếu ta
thốt tiếng kêu cứu quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa
ăn no đủ, chúng cũng sẽ chạy trốn, thì e
còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước".
Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên
trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa.
Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi,
và đang chơi đùa theo kiểu cách thiên
nga, chim chúa liền thốt tiếng kêu bị nạn.
Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất,
như đã được tả trước đáy. Tướng quân
Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể, rồi bay
đi tìm quanh quẩn mà không thấy bậc
Đại Sĩ trong ba đàn thiên nga lớn kia,
liền suy nghĩ: "Chắc hẳn đây là một
chuyện khủng khiếp đã xảy ra với
đức vua" và vị ấy liền quay về nói:
- Tâu Chúa thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải
cứu Chúa thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần.
Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy
an ủi vỗ về bậc Đại Sĩ. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ:
"Chín mươi ngàn thiên nga đã bỏ
ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình
trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim
đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi
không". Rồi để thử lòng chim kia, ngài dựa mình
đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy, và
ngâm ba vần kệ:
1. Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
2. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
3. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
Tù tội làm sao có bạn bè?
Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!
Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm: "Thiên nga vương này không biết bản tính ta;
ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh. Ta sẽ tỏ cho ngài thấy ta yêu
quý ngài biết bao", rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:
4. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.
5. Không, thần sẽ bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
6. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,
Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
7. Khi về với quyến thuộc thân bằng
Thần biết làm sao để nói năng,
Ví thử bỏ ngài cho số phận,
Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
Không, thà chịu chết hơn là sống
Khi phải đóng vai hạ liệt thần.
Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như
giọng sư tử rống, bậc Đại Sĩ lên tiếng
nêu rõ đức độ của bạn:
8. Bản tính khanh, Sư-mục Tướng quân,
Vẫn thường an trú lý Như chân,
Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
9. Khi ta nhìn thấy mặt Hiền khanh,
Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
Tìm đường giải cứu bạn thân mình.
Trong lúc đôi chim đang đàm luận như
vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy
bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và
không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn
đến nơi gã đã
đặt bẫy và thấy Bồ-tát dựa mình vào cây
gậy có cột thòng lọng. Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại cầm gậy vội
vàng đến gần và
đứng trước đôi chim, như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng,
đầu gã vươn cao trên
đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn
đề:
10. Đôi chim cao thượng đã trao nhau
Tư tưởng như vầy thật quý cao,
Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
11. Thấy gã đến gần, Sư-mục-kha
Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
12. "Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
Bằng hành động hết lòng can
đảm
Lần nữa Chúa công được thoát nàn.
Sumuakha an ủi bậc Đại Sĩ như vầy, rồi vừa
đi đến bên người bẫy chim, vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi:
- Này Hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?
Y đáp:
- Này Chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.
Sumukha đáp:
- Này Hiền hữu, đừng tưởng
rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã
bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu: đó chính
là Chúa công Dhatarattha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga
đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí,
đức hạnh, và
đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ
việc gì mà ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy
sinh thân mạng mình vì ngài. Nếu hiền hữu muốn nhổ lông ngài, xin hãy nhổ
lông ta; hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương
ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện ngài
thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống; hoặc nếu muốn kiếm
tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết ngài,
vì ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và
đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết ngài,
hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục
hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự.
Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng
địa ngục, khiến y phải nghe lời khuyến dụ
êm tai của mình, Sumukha lại đến gần
đứng cạnh Bồ-tát, và an ủi ngài .
Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: "Chỉ là một con chim như thế, nó lại
có thể làm được những gì loài người
không thể làm được. Vì loài người không
chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi đấy thật là
một chim thần, đầy trí tuệ và biện tài".
Toàn thân gã rung động với nỗi hoan lạc kỳ
diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh
ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chấp hai tay lên trước trán, như người kính lễ
mặt trời, gã đứng đó tuyên dương công
hạnh của Sumukha.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
13. Người săn chim nọ đã nghe lời
Chim ấy nói ra với biện tài,
Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
Tôn sùng kính lễ trước chim trời.
14. Chưa được nghe hay thấy trước giờ
Chim dùng tiếng nói của người ta,
Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
Chân lý tối cao quả thật là.
15. Với ngươi; chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn cùng chạy trốn
đi,
Dù được tự do, ngươi ở lại
Bên chim bị bắt một mình kia?
Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này,
Sumukha suy nghĩ: "Kẻ ấy đã
động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy
đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa"
. Và chim ngâm kệ:
16. Hỡi cừu nhân của đám thiên nga,
Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
Bình an đào thoát một mình ta.
17. Đừng để Thiên nga chúa
đại hùng
Nơi đây phải chết thật đơn thân,
Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
Ta được ngài như
đáng chúa công.
Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim
kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng
đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: "Giả sử ta
giết Thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và
mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ
thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để vua
Ba-la-nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như
quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi".
Gã liền ngâm kệ:
18. Ngươi kính Điểu vương, cao quý thay,
Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
Ta thả tự do hiền chúa ngay.
Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến
gần bậc Đại Sĩ uốn cây sào xuống, đặt
chim chúa trên bùn, và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau
đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa
đặt chim trên
đám cỏ Kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo
chiếc bẫy đã kẹp chân chim. Lòng gã rạt
rào tình thân mến bậc Đại Sĩ , và với từ
tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi
lại nhiều lần.
Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da,
chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ-tát ngồi
đó hân hoan thư thái như xưa.
Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc dường nào nhờ hành
động của mình, nên vô cùng hoan hỷ nghĩ
thầm: "Người này đã
đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm
gì cho y cả. Nếu y bắt ta cho các triều thần và giao ta cho họ, y sẽ
được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta
cho chính y, y sẽ bán ra rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y
đôi điều". Như vậy do lòng mong ước làm
ích lợi cho gã, chim ngâm kệ hỏi:
19. Nếu vì mục đích của riêng tây,
Ông đã bắt ta,
đặt bẫy này,
Ta được tự do ông trả lại,
Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
20. Song bằng không, quả thật to gan,
Người bẫy chim tha mạng điểu vương
Mà chẳng vì ân vua phép nước,
Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.
Người bẫy chim nghe vậy bảo:
- Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được vua
Samyama ở Ba-la-nại sai làm.
Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc
đầu hoàng hậu nằm mộng cho
đến khi vua nghe có loài thiên nga
đến, và phán: "Này hiền hữu Khemaka, hãy
cố bắt một hai thiên nga, rồi trẫm sẽ ban đại
phú quý cho khanh", và cấp lương thực cho gã lên
đường.
Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: "Người bẫy chim này không kể gì
đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả
chúng ta ra là gây khó khăn cho y, song nếu từ
đây, ta trở về Cittakùta, thì trí tuệ siêu phàm của
điểu vương Dhatarattha cũng như hành
động vì tình bằng hữu của ta
đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ
không hưởng đại phú quý, nhà vua cũng không
được an trú vào Ngũ giới và ước nguyện
của hoàng hậu cũng không thành tựu". Vì thế, chim ấy
đáp:
- Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy, thì ông không thể
để cho chúng ta đi. Hãy
đưa chúng ta đến yết kiến vua và ngài sẽ
đối xử với chúng ta tùy thích.
Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:
21. Ông là tôi tớ của quân vương,
Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
Với ta, đối xử hợp tâm can.
Nghe vầy, người bẫy chim nói:
- Thưa các ngài, các vị không nên mong ước diện kiến
đức vua. Vua chúa quả thật là những
người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các vị thành chim thuần thuần tính hoặc
giết đi.
Sumukha liền đáp:
- Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng
vì chúng ta. Nhờ thuyết Pháp, ta đã
khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ
tâm. Vậy sao ta không làm việc này với vua? Vua chúa
đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy
mau đưa ta đến yết kiến vua. Ông đừng đem chúng
ta đi như đôi chim mắc bẫy, mà hãy đặt
ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy.
Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho
điểu vương Dhatarattha và lồng nhỏ hơn phủ sen
đỏ cho ta, đặt ngài phía trước, ta phía
sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta
đi yết kiến vua.
Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: "Sumukha
đến yết kiến đức vua chắc hẳn mong ta được đại
vinh hiển". Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm
đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen, xong liền lên
đường cùng với
đôi chim theo cách miêu tả.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn
đề:
22. Người săn chim nắm cả hai tay
Trong lúc được nghe nói thế này,
Liền đặt vào lồng
đôi ngỗng đỏ
Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.
23. Bộ lông ngời sáng, chúa Thiên nga
Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.
*
Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng
với đôi ngỗng, chim chúa Dhatarattha chợt nhớ
đến vương hậu của mình là công chúa của Thiên nga vương Paka, do lòng
tham ái chi phối, chim chúa than thở như vầy với Sumukha.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
24. Nga vương vừa mới được mang ra,
Liền nói như vầy vời Mục-kha:
"Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng
Bây giờ đang khổ não vì ta.
Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
Ta sợ đời nàng cũng phải sa.
25. Như cò hương khóc bạn tình lang,
Đơn độc bên bờ vắng
đại dương,
Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.
(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga
*
Nghe vầy, Sumukha suy nghĩ: "Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo
kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái, nên cứ lảm nhảm
như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng
khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng! Hay ta
phải cố dùng trí tuệ nêu rõ cho ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm
ngài tỉnh táo lại chăng?", và chim này
ngâm kệ:
26. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,
Lãnh đạo anh minh của giống dòng,
Sao phải ưu phiền vì nữ giới,
Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.
27. Như gió mang đi đủ thứ mùi
Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
Tham lam như trẻ thành mù quáng
Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.
28. Không xét suy chân chánh việc làm
Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
Việc gì cần tránh, gì làm được,
Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.
29. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng
Có đầy vẻ diễm lệ say lòng;
Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
Chẳng khác trà đình của túy ông.
30. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,
Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
Tử thần cất kín tận tâm can.
Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
Hạ liệt quả là nhất thế gian!
Lúc ấy chúa chim Dhatarattha đang say mê
nữ giới, liền bảo:
- Hiền hữu không biết các đức tính của phái
nữ, nhưng các bậc hiền trí biết rõ, nữ giới không
đáng bị chỉ trích đâu.
Rồi ngài giải thích qua các vần kệ:
31. Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,
Còn ai khiển trách, dám phê bình?
Nữ nhân sinh ở trong trần thế
Để hưởng đặc quyền với đại danh.
32. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
Tình yêu lạc thú được ban cho,
Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
Nguồn gốc đời ta được hộ phò,
Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
Khó lòng khinh thị đám quần thoa.
33. Riêng khanh, Sư-mục, có tinh thông
Cung cách dung nghi đám má hồng,
Xúc động hãi kinh, khanh có thấy
Trí này sáng suốt muộn màng không?
34. Khi một nam nhân gặp bất an,
Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
Cố sức cho ta được thoát nàn.
35. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng
Để có người khuyên nhủ hộ phòng
Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.
36. Ta mong đầu bếp của hoàng gia
Đừng nướng thân ta đã xác xơ,
Như trái cây tre thường giết mẹ
Bộ lông vàng cũng giết đời ta.
37. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,
Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.
Bằng cách tán tụng nữ giới, bậc Đại Sĩ đã
làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực biết bao, giờ
đây ngài muốn hòa giải với bạn, liền
ngâm kệ này:
38. Gắng sức làm sao thật đúng thời,
Với công bằng biện hộ như lời,
Anh hùng hành động, xin hiền hữu
Đem lại cho ta cả cuộc đời.
Lúc ấy Sumukha suy nghĩ: "Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết; ngài không
biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến vua Ba-la-nại và
đàm đạo đôi
điều với vua, ta sẽ biết cách hành động.
Lúc này ta muốn an ủi đại vương của ta",
và vị ấy ngâm vần kệ:
39. Nga vương cao quý, chờ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,
Bằng hành động hết lòng can
đảm
Lần nữa chúa công được thoát nàn.
Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau
bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói
cả, cứ mang đôi chim trên
đôi gánh đi vào thành Ba-la-nại, gã
được một đám đông theo sau vì tràn
đầy thích thú kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia,
họ đưa hai tay lên trời với dáng điệu
nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình vua về việc
gã đến chầu.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
40. Người săn chim đến cổng hoàng
gia,
Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
"Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,
Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga".
Người canh cổng đi vào trình
y đã đến.
Vua vô cùng hoan hỷ, phán:
- Cho phép y vào chầu tức thì.
Rồi được một đám triều thần vây quanh, vua
ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên
đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn
đôi Thiên nga sắc vàng óng ả, vua phán:
- Ước nguyện của ta đã thành tựu.
Rồi vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng
đáng đền đáp lại người bẫy chim.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
41. Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh thần,
Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,
Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
Cùng với lời trao đám cận thần:
42. "Ban gã săn chim thức uống ăn,
Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ
Ban thật nhiều như dạ ước mong".
*
Lòng vô cùng hân hoan, vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán:
- Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi
đưa y đến đây.
Thế là đám triều thần đưa gã ra khỏi
cung, truyền tỉa râu tóc gã, sau khi y đã
tắm rửa, xoa đầu thơm và mặc y phục lộng
lẫy, họ đưa y vào yết kiến vua. Lúc
đó vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi
tức hàng năm một trăm ngàn
đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng
kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện
nghi cùng đại phú quý vinh hiển.
Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người
bẫy chim tâu trình để giải thích những
việc y đã làm:
- Tâu Đại vương, thần không dâng Đại vương
loại thiên nga bình thường đâu; đây
chính là chúa tể của cả đàn chín
mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhatarattha và
đây là đại tướng Sumukha.
Sau đó, vua hỏi:
- Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi
chim ấy?
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
43. Đại vương nhìn thấy kẻ
đi săn,
Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:
"Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.
44. Giữa cả đàn chim một giống dòng,
Làm sao khanh cố sức thi công
Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?"
Người săn chim đáp lời vua:
45. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo
Thần đã hoài công
đánh dấu hồ,
Tìm vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn mình trong một cái lu to.
46. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn
Mà chính Thiên nga đã
đến gần;
Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
Thiên nga phút chốc bị sa chân.
Khi nghe vậy, vua suy nghĩ: "Kẻ này lúc đứng
ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhatarattha bay đến, và bây giờ y cũng
chỉ nói về chim này thôi. Thế việc này có ý nghĩa gì?". Và vua ngâm vần kệ:
47. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,
Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng
Trẫm đây thêm một chú chim trời?
Lúc ấy người bẫy chim đáp:
- Tâu Đại vương, không có gì thay
đổi trong ý định của thần, và thần cũng
không muốn dâng Thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt
được một con trong bầy thôi.
Rồi y nói tiếp để giải thích:
48. Thiên nga có những sọc vàng hồng
Tất cả đều vòng xuống dưới thân,
Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,
Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.
49. Chim tuyệt đẹp này được tự do
Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
Cố sức làm cho bạn khỏi lo.
Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của
Sumukha:
- Ngay khi biết Thiên nga Dhatarattha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và
khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần,
đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người,
vừa nói rõ mọi đức hạnh của chim Dhatarattha. Và
sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như
vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần
nữa. Tâu Đại vương, khi nghe tài hùng
biện của Sumukha, thần đã
được cảm hóa và thả chim Dhatarattha. Do
vậy, việc thả chim Dhatarattha khỏi bẫy và việc thần
đến đây với đôi ngỗng này
đều nhờ công Sumukha cả.
Khi nghe vậy, vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người
bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ vua, thì
mặt trời vừa lặn, đèn
đuốc được thắp sáng, một đám tướng lãnh
và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng hậu Khemà
được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên
phải vua; ngay lúc ấy vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói, liền ngâm
kệ:
50. Sao ngươi im tiếng, hỡi Thiên nga,
Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
Mà sao chẳng thốt một lời ra?
Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình
không sợ gì cả:
51. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,
Khi trao lời giữa chốn triều đường,
Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.
Nghe vậy, vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn, liền ngâm kệ chê bai vị
tướng chim:
52. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,
Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,
Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
Cũng không xa, pháo để theo hầu.
53. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,
Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
Tháp canh không có, phòng xâm phạm
Với lũy hào bao bọc bản doanh
Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
Không gì đáng sợ ở bên mình.
Khi vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền
đáp kệ:
54. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,
Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
Vân du khắp cả cõi trời xanh.
55. Nếu ngài an trú lý Như chân,
Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.
56. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,
Một người tâm tính thật tồi tàn,
Lời người đặt bẫy này hùng biện
Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.
Nghe vậy, vua liền đáp:
- Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn? Thế trẫm
đã làm gì chăng?
Sumukha liền đáp:
- Vậy Đại vương hãy nghe
đây.
Và chim nói như sau:
57. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
Và đã truyền rao khắp thập hướng:
An toàn đây chỗ của chim muông.
58. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,
Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,
Chim muông thấy thức ăn phong phú
Sống cuộc đời an ổn trọn lành.
59. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,
Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy
Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ.
60. Song lời dối trá khéo bao che
Hành động tham lam tội lỗi kia
Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.
Như vậy ngay giữa đám triều thần, chim đã
làm vua phải hổ thẹn. Sau đó vua phán:
- Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết
và ăn thịt đâu; song nghe tiếng ngươi
thông tuệ biết bao, nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện
đấy thôi.
Rồi vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
61. Mục-kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,
Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.
62. "Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra
Chân thật, những lời ích lợi ta",
Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga.
Nghe thế , Sumukha đáp:
- Tâu Đại vương, ngài
đã hành
động sai lầm.
Và chim ngâm các vần kệ sau:
63. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,
Khi ta kinh hãi chết kề gần,
Cũng không hít thở hơi từ giã
Hấp hối phút giây của tử thần.
64. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,
Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,
Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.
65. Ai buông lời lẽ thật cao sang,
Dự định hành vi hạ liệt tràn,
Thì ở đời này,
đời kế nữa,
Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.
66. Đừng say sưa quá phút vinh quang,
Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
Hết lòng phấn đấu trước tai ương.
67. Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,
Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,
Sống trên trần đúng đường chân chánh,
Theo hướng đi lên đến cõi trời.
68. Nghe những lời này, giữ chánh chân,
Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
Dha-ta-ra ấy là chim chúa
Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn.
Nghe vậy, vua phán:
69. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,
Đem vào đây
cả chiếc kim đôn,
Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy
Tối thượng Thiên nga ở cõi trần.
70. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,
Thật là tài giỏi lại tinh thông,
Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
Đều dạy thiết thân với chúa công.
71. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh
Theo bước chúa công suốt lộ trình,
Vì đã sẵn sàng trang bị
đủ
Với vua chia xẻ tử cùng sinh.
Nghe lời vua phán, quan hầu đem bảo tọa đến
mời đôi chim. Hai vị đậu ở đó rửa chân với nước hoa và xoa dầu thơm
đã được lọc
cả trăm lần.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
72. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,
Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.
73. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu vương,
Tướng công trung tín lại can cường,
Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
Tất cả đều nguyên cả khối vàng.
74. Nhiều chúa Kà-si đựng chén vàng
Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
Tặng vật cúng dâng của Đại vương.
*
Khi thực phẩm được đem thiết đãi hai
vị như thế, vua Kàsi muốn đích thân đón tiếp
hai vị, liền tự tay lấy chén vàng mời khách, hai vị thưởng thức mật
ong, gạo rang và uống rượu đường. Sau đó Bậc
Đại Sĩ nhận thấy cung cách vua thiết đãi thật ân cần như vậy liền
đàm đạo
thân mật với vua.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
75. Nghĩ thầm? "Lễ vật thật cao sang
Chúa tể Kà-si đã cúng dường,
Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.
Thiên nga:
76. "Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?"
Quân vương:
77. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
78. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
Quân vương:
79. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
Thiên nga:
80. Phải chăng hoàng hậu cũng chung
dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi Thánh ý Minh quân?
Quân vương.
81. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi ý trẫm cầu mong.
Thiên nga:
82. Và nay quốc độ lạc an chăng,
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng?
Quân vương:
83. Ngày nay vương quốc trẫm bình an
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
84. Có xua ác đảng khỏi giang san
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Ngài có tránh xa điều chánh trực,
Hoặc theo đường lối bọn tà gian?
Quân vương:
85. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
Và theo đường lối bậc hiền lương.
Thiên nga:
86. Đại vương có thấy quãng
đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Hãy mãi say sưa vì vọng tưởng
Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?
Quân vương:
87. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Nên vẫn hành trì Mười giới hạnh
Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.
88. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,
Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,
Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.
89. Những điều đức hạnh tận tâm can
Vững chắc vươn lên, thấy rõ ràng,
Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
Hân hoan cho trẫm quý muôn vàn.
90. Song dù Sư-mục chẳng hề hay
Tội ác trẫm đâu có phạm này,
Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả
Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.
91. Ta chẳng biết chi các việc này,
Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
Trí tuệ yếu non đã hiển bày.
Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: "Vị vua đức
hạnh này đang phẫn nộ vì ta
đã khiển trách ngài. Rồi ta sẽ xin ngài
tha thứ’’. Rồi chim ấy ngâm kệ:
92. Thần đã lỗi lầm với
Đại vương,
Nói năng bừa bãi thật điên cuồng,
Song khi chim chúa này lâm nạn,
Lòng của hạ thần tựa nát tan.
93. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,
Như người cha đối với con mình,
Đại vương, xin rộng lòng tha thứ
Lỗi chúng thần đây phạm đã
đành.
Lúc ấy, vua liền nâng chim lên, ôm vào lòng và
đặt chim trên một kim
đôn, vua chấp nhận lời thú nhận lỗi lầm kia và
phán:
94. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng quân,
Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.
Cùng với những lời này, vua hết sức hoan hỷ về bài thuyết Pháp của Bậc
Đại Sĩ và lời lẽ cương trực của Sumukha,
liền suy nghĩ: "Khi ta hoan hỷ, ta phải hành
động để bày tỏ mềm hoan hỷ của ta".
Rồi muốn nhường cảnh vinh hiển của mình cho
đôi chim, vua phán:
95. Những gì châu báu với kim, ngân,
Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
Ở tại Kà-si thành của trẫm,
Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.
96. Đồng, sắt, vỏ sò, với ngọc trai,
Bảo châu vô số, đám ngà voi
Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,
Y phục cao sang, da hổ, nai,
Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.
Cùng với những lời trên, vua làm vinh dự đôi
chim bằng chiếc lọng trắng vào trao vương quốc cho
đôi chim.
Sau đó Bậc Đại Sĩ ngâm kệ đàm
đạo với vua:
97. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,
Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,
Làm Đạo sư cho thần học hỏi
Mười điều vương pháp để an dân.
98. Rồi nếu chúng thần được Đại vương
Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,
Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
Và trở về thăm viếng họ hàng.
Vua cho phép đôi chim ra đi, và trong
khi Bồ-tát còn đang thuyết Pháp, mặt trời đã
mọc.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
99. Kà-si chúa tể, suốt đêm thâu,
Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,
Sau đó vua bằng lòng chấp thuận
Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.
*
Khi đã
được vua cho phép từ giã, Bồ-tát lại nói:
- Xin Đại vương tỉnh giác và trị nước
chân chánh.
Và ngài an trú vua vào Ngũ giới.
Vua ban hai vị bắp rang với mật ong và nước
đường trong dĩa vàng, khi hai vị đã
dùng bữa ăn xong, vua cung kính dâng hai vị các
hoa thơm và nhiều lễ vật khác, rồi tự tay nâng Bồ-tát lên trong chiếc
lồng vàng, và hoàng hậu Khemà nâng Sumukha lên. Khi mặt trời mới mọc vua và
hoàng hậu mở cửa sổ và nói:
- Xin các Tôn giả hãy ra đi.
Rồi hai vị tháo lồng thả đôi chim ra.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
100. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,
Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.
*
Bậc Đại Sĩ là một trong
đôi chim bay ra khỏi lồng vàng
đứng trên không và bảo:
- Xin Đại vương chớ lo âu, phải luôn tỉnh
giáo và an trú vào giáo Pháp của ta.
Ngài an ủi vua như vậy rồi cùng Sumukha bay về thẳng núi Citakùta. Chín
mươi ngàn thiên nga kia cất cánh bay ra khỏi Kim
Động tụ tập trên cao nguyên và khi thấy
hai vị đến, chúng ra nghênh tiếp và hộ
tống hai vị về nhà. Như vậy hai vị được cả đoàn
quyến thuộc đưa về tận cao nguyên
Cittakùta.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
101. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian.,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
102. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,
Hân hoan vì chúa được an thân.
*
Trong khi hộ tống chúa chim, bầy thiên nga hỏi ngài:
- Tâu Đại vương, làm thế nào ngài
thoát nạn?
Bậc Đại Sĩ kể cho chúng nghe ngài
thoát nạn nhờ Sumukha giúp đỡ, và các
hành động của vua Samyama cùng triều
thần.
Nghe vậy, bầy thiên nga hân hoan ca ngợi các vị:
- Vạn tuế Đại tướng Sumukha của chúng ta,
vạn tuế Đại vương và người bẫy chim. Cầu mong các vị
được hạnh phúc và thoát khỏi khổ
đau.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ và sáng tỏ vấn
đề:
103. Ai có từ tâm ắt đạt thành .
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Chuyện này đã
được kể đầy đủ trong số 533. Tiền thân
Cullahamsa.
*
Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền
thân:
- Vào thời ấy, người bẫy chim là Channa (Xa-nặc), Hoàng hậu Khemà là
Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), vua là Sàriputta (Xá-lợi-phất),
đoàn tùy tùng của vua là các
đệ tử Phật, Sumukha là Ànanda (A-nan) và
Chúa Thiên nga chính là Ta.
-ooOoo-
535. Chuyện thực phẩm Thiên giới (Tiền thân Sudhàbhojana)
Ta không phải kẻ bán buôn rong...,
Chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú
tại Jetavana (Kỳ Viên) liên hệ đến một
Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng.
Tương truyền vị ấy là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở tại Sàvathi
(Xá-vệ) sau khi nghe bậc Đạo Sư thuyết Pháp, đã
xin quy y và sống đời tu hành. Khi
đã viên mãn mọi giới
đức và đầy
đủ các đạo hạnh của người xuất gia có lòng tràn ngập thân ái
đối với các bạn đồng tu, mỗi ngày ba lần
ông nhiệt tâm phụng sự Phật, Pháp, Tăng và
tỏ ra gương mẫu trong đức hạnh và chuyên
cần bố thí.
Muốn thành tựu giới bổn về tình thân ái, bất cứ vật gì vị ấy nhận
được, ông đều bố thí cả, bao lâu còn
người nhận, cho đến khi ông chẳng còn gì
để ăn. Tính hào phóng và tình thân ái
của ông được đồn đại khắp Tăng chúng. Vì
vậy một hôm, câu chuyện bắt đầu trong Chánh
pháp đường, về một Tỷ-kheo có tâm hào phóng và chuyện bố thí
đến độ dù ông chỉ nhận
được nước uống vừa đủ trong lòng bàn
tay, ông cũng đem cho các bạn đồng tu với tâm
ly tham. Ý nguyện của vị ấy chẳng khác gì một vị Bồ-tát.
Với thiên nhĩ thông, bậc Đạo Sư nghe được
chuyện Tăng chúng đang nói, liền bước ra khỏi Hương phòng của Ngài,
đến gần và hỏi Tăng
chúng đang bàn luận gì. Khi các vị đáp
chuyện như vầy như vầy Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vị Tỷ-kheo này không hề hào phóng, trái lại
ông keo kiệt đến độ không thể cho một giọt dầu
trên ngọn cỏ. Vì vậy, ta đã giáo
hóa ông khiến ông biết hy sinh bản thân và bằng cách tán thán các công
đức bố thí, Ta đã an trú ông vào hạnh bố
thí. Cho nên khi nhận được nước chỉ vừa đủ
trong lòng bàn tay, ông cũng nói: "Ta không muốn uống một giọt nào mà
không cho bớt đôi chút". Rồi ông nhận được một
điều ước ta ban cho, và kết quả việc bố thí kia là ông có tâm hào
phóng và chuyên bố thí.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một gia chủ giàu tiền
đến tám trăm triệu đồng và vua ban cho
ông chức giữ Ngân khố. Được vua ban vinh hiển
như thế và được dân chúng vô cùng
trọng vọng, một hôm ông suy xét về cảnh thịnh vượng của
đời mình, liền suy nghĩ: "Cảnh vinh
quang này ta đạt được không phải do lười biếng
hay các ác nghiệp trong đời trước, mà là do thành tựu các công
đức; vậy ta cần phải lo liệu cuộc sống tương
lai thật vững chắc".
Vì thế ông đến yết kiến vua và thưa;
- Tâu Đại vương, trong nhà hạ thần có
kho báu trị giá tám trăm triệu đồng, xin Đại
vương nhận lấy từ hạ thần.
Vua đáp:
Trẫm không cần tài sản của khanh, Trẫm đã
có nhiều tài sản rồi, vậy cứ lấy của cải làm việc gì tùy thích.
Ông thưa:
- Tâu Đại vương, hạ thần có thể đem tiền để
bố thí chăng?
Vua phán:
- Cứ làm như khanh muốn.
Ông liền ra lệnh xây sáu bố thí đường mỗi
ngôi ở mỗi cổng thành, một ngôi ở giữa thành phố, và một ngôi ở cổng
nhà mình, rồi mỗi ngày đem chi tiêu sáu
trăm ngàn
đồng tiền, ông bắt đầu làm đại sự bố
thí; trong lúc sinh thời, ông chuyên bố thí và dạy bảo các con:
- Hãy cố chăm lo để đừng gián đoạn truyền
thống bố thí này của cha.
Đến lúc mạng chung, ông tái sinh l àm Sakka Thiên chủ (Đế
Thích).
Con trai ông cũng bố thí như vậy và tái sinh làm Canda (Nguyệt thần), con
của Canda là Suriya (Nhật thần), con của Suriya là Màtali (Quản xa thần) và
con của Màtali là Pañcasikha (Ngũ kế Nhạc thần).
Bấy giờ con trai của Pañcasikha, cháu thứ sáu trong dòng ấy, là người Thủ
kho tên là Maccharikosiya (Triệu phú keo kiệt) vẫn còn cả tám trăm
triệu nhưng ông nghĩ: "Tổ tiên ta thật khờ dại. Các vị ấy
đã ném bỏ tài sản do công khó góp nhặt,
còn ta sẽ giữ gìn kho báu. Ta quyết không cho ma nào một xu nhỏ".
Ông liền phá hủy và đốt rụi các bố thí đường
rồi trở thành kẻ keo kiệt kinh niên. Vì thế
đám hành khất tụ tập trước cổng nhà ông
chìa tay ra và kêu lớn:
- Thưa Đại quan thủ kho, xin ngài
đừng bỏ tục cổ truyền của tổ tiên, mà
ngài hãy bố thí.
Khi nghe vậy, dân chúng khiển trách ông, và bảo:
- Vị triệu phú biển lận này đã bỏ
truyền thống gia đình.
Ông hổ thẹn, bảo canh giữ để ngăn đám hành
khất đứng ở cổng nhà ông, vì thế họ vô
cùng khốn đốn cơ cực, không còn
để mắt vào cổng ấy nữa. Từ
đó, ông tiếp tục cuốn tiền lại để cất, chứ
không hưởng thụ phần mình cũng không chia với vợ con.
Ông sống bằng cơm gạo đỏ, dọn với tương
chua, mặc áo quần vải thô, chỉ gồm toàn sợi lấy từ rễ và thân cây
dâu, che đầu bằng dù lá
đi chiếc xe cũ ọp ẹp do đôi bò tồi tàn
kéo. Như vậy tất cả tiền bạc của con người độc
ác này chẳng khác gì con chó nhặt được
quả dừa.
Một hôm, khi sắp vào chầu vua, ông nghĩ nên
đưa vị Phó thủ kho đi cùng, và khi đến
gần nhà vị kia, ông thấy vị Phó thủ kho
đang ngồi giữa vợ con ăn cháo gạo với đường mịn, nấu với bơ tươi. Khi thấy
Maccharikosiya, vị ấy đứng dậy bảo:
- Xin mời Đại quan thủ kho vào ngồi
trên tọa sàng này và ăn cháo gạo cùng
tiểu đệ.
Vừa trông thấy cháo gạo, miệng ông đã
chảy nước miếng và muốn ăn ngay, nhưng ông chợt
suy nghĩ: "Nếu ta ăn một chút cháo, thì khi vị Phó thủ kho
đến nhà, ta phải
đáp lại lòng hiếu khách của y và như vậy
là sẽ tiêu phí tiền của. Ta những muốn ăn đâu".
Sau đó bị nài ép mãi, ông vẫn từ
chối, bảo:
- Ta đã
ăn rồi, ta no lắm.
Song suốt buổi vị Phó thủ kho ăn cháo, ông
cứ ngồi nhìn và chảy nước miếng, rồi khi xong bữa, ông cùng vị ấy vào
cung.
Khi về nhà, lòng ông tràn ngập nỗi thèm ăn
cháo gạo, nhưng lại nghĩ: "Nếu ta nói ta muốn ăn cháo gạo, nhiều người cũng
sẽ muốn ăn theo và sẽ tiêu phí một số gạo giã trắng. Thôi ta chẳng
muốn nói một lời với ai".
Vì thế suốt đêm ngày, ông cứ miên man
suy nghĩ không gì khác ngoài cháo, nhưng vì sợ tốn tiền nên không nói với ai
mà chỉ giữ cơn thèm trong lòng. Tuy thế không thể nào chịu
đựng mãi
được chuyện ấy, ông dần trở nên xanh xao, và do sợ tiêu phí của cải,
ông không nói thèm ăn với ai và dần dần
ông kiệt sức phải nằm liệt giường.
Lúc ấy, vợ ông đến thăm, lấy tay vỗ vào
lưng ông và hỏi:
- Phu quân có bệnh chăng?
Ông kêu to:
- Bà bệnh ấy chứ, ta khỏe lắm mà!
- Phu quân xanh xao lắm. Phu quân có điều gì
lo nghĩ? Đức vua không đẹp ý hay các con đối xử
bất kính với chàng? Hay chàng thèm muốn vật gì chăng?
- Phải, ta đang thèm muốn.
- Phu quân nói cho thiếp biết với.
- Bà có giữ kín miệng được chăng?
- Được lắm, thiếp sẽ giữ kín mọi điều thèm
muốn cần được giữ kín.
Nhưng dù vậy, do sợ tiêu phí của cải, ông không có can
đảm nói với vợ, sau bị bà thúc giục mãi,
ông đáp:
- Này bà, hôm kia ta thấy vị Phó thủ kho ăn
cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong, từ
đấy, ta cứ thèm
ăn loại cháo như vậy.
- Thiếp sẽ nấu cháo gạo cho cả dân thành phố Ba-la-nại
ăn mà.
Lúc ấy, ông cảm thấy như bị ai đánh cái gậy
vào đầu, ông nổi cơn thịnh nộ với vợ và
nói:
- Ta dư biết bà giàu có lắm. Nếu ở nhà bà thì bà tha hồ nấu cháo và cho
cả thành phố ăn.
- Được thiếp sẽ nấu vừa đủ cho dân cả một
khu phố ăn thôi.
- Bà có liên hệ gì với chúng cơ chứ? Mặc chúng
ăn thứ gì chúng có.
- Thế thì thiếp sẽ nấu đủ cho bảy gia đình
chọn rải rác đâu đó.
- Chúng là gì của bà vậy?
- Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia nhân trong nhà này thôi.
- Chúng là gì của bà vậy?
- Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia đình
ta thôi.
- Chúng là gì của bà vậy?
- Thế thì thiếp chỉ nấu cho phu quân và thiếp thôi.
- Ôi kìa, bà là ai chớ? Trường hợp bà cũng không
được đâu.
- Vậy thiếp chỉ nấu cho một mình phu quân thôi.
- Xin bà đừng nấu cho ta. Nếu bà nấu
trong nhà, nhiều người sẽ thấy. Chỉ cần cho ta một
đấu gạo giã trắng, một góc tư lít sữa,
một cân đường, một hũ mật ong, và một
cái nồi, ta sẽ đi vào rừng nấu cháo và
ăn.
Bà vợ làm như vậy, bảo một gia nô đem tất cả
những thứ ấy và ông ra lệnh gia nô đến đứng ở
nơi kia. Sau đó bảo gia nô đi khuất, một
mình ông trùm kín người giả dạng đi đến
đó và cạnh bờ sông dưới một góc cây, ông bảo làm cái lò,
đem củi và nước cho ông rồi dặn kẻ gia
nô:
- Đi ra đứng ở đường kia, nếu chú thấy ai, hãy
ra hiệu cho ta, và khi ta gọi, chú hãy đến.
Bảo tên gia nô đi xong, ông nhóm lửa và
nấu cháo. Lúc ấy Sakka Thiên chủ đang chiêm
ngưỡng kinh thành tráng lệ của chư Thiên, rộng mười ngàn dặm, con
đường lát vàng dài sáu mươi dặm, Tối
thắng điện Vejayanta cao một ngàn dặm,
Thiện pháp đường bao quát năm trăm dặm, chiếc
ngai hoàng thạch rộng sáu mươi dặm, chiếc lọng trắng với cành hoa
vàng chu vi năm dặm, và bản thân ngài
được một đoàn tùy tùng thật huy hoàng
gồm hai mươi lăm triệu Thiên nữ.
Vừa chiêm ngưỡng mọi cảnh vinh quang này, ngài vừa suy nghĩ: "Ta
đã có khả năng
làm gì để đạt đến vinh quang này?".
Rồi với thiên nhãn, ngài thấy hạnh bố thí mà ngài
đã tạo nên trong thời làm quan
Đại thủ kho tại Ba-la-nại, và ngài suy
nghĩ: "Thế nay các con cháu ta tái sinh cõi nào?", vừa xem xét vấn
đề ấy ngài vừa nói: "Con trai Canda của
ta tái sinh làm Thiên tử, và con trai nó là Suriya". Khi
để ý đến việc tái sinh của tất cả con cháu, ngài
kêu lên: "Thế số phận con trai của Pañcasikha thì sao? Quan sát kỹ, ngài
thấy truyền thống dòng dõi đã bị phá
hủy, và ý tưởng này chợt đến với ngài:
"Tên hà tiện độc ác này chẳng hưởng tài
sản cũng chẳng cho ai cả. Truyền thống gia tộc
đã bị nó phá hoại. Khi chết, nó sẽ tái sinh
địa ngục. Bằng cách thuyết giáo cho nó và
tái lập truyền thống gia đình, ta sẽ chỉ
cho nó con đường tái sinh thiên giới".
Vì thế ngài triệu tập Canda và các vị kia rồi bảo:
- Này, ta sẽ giáng trần: truyền thống gia đình
ta đã bị Maccharikosiya phá hủy, các bố
thí đường đã bị
đốt sạch và nó chẳng hưởng thụ tài sản
cũng chẳng cho ai cả, song giờ đây nó đang thèm
ăn cháo gạo và suy nghĩ: "Nếu nấu cháo
trong nhà, thì cháo phải được đem cho người
khác", nên nó vào rừng và nấu cháo một mình. Chúng ta sẽ
đi giáo hóa nó và dạy nó hiểu kết quả
của bố thí. Song nếu tất cả chúng ta đồng thời
xin nó cho cháo gạo, nó sẽ ngã lăn đùng
ra chết tại chỗ. Vậy ta sẽ đi trước và
khi ta đã xin nó cháo rồi ngồi xuống,
các khanh hãy đến, lần lượt từng vị giả dạng Bà-la-môn
xin cháo.
Nói vậy xong, chính ngài giả dạng một Bà-la-môn
đến gần người triệu phú và kêu to:
- Này, đường nào
đi đến Ba-la-nại?
Maccharikosiya đáp:
- Lão có mất trí không đấy? Lão không
biết cả con đường đến Ba-la-nại ư? Tại sao lão
đến đường này? Hãy từ
đây mà đi
ra.
Sakka giả vờ không nghe ông nói, cứ tiến gần ông, hỏi ông nói gì. Thế rồi
ông hét lên:
- Này, Bà-la-môn điếc đặc kia, ta bảo tại
sao lão đến đường này? Hãy
đi ra đường kia.
Sakka đáp lại:
- Tại sao ông hét to thế? Ta thấy đây có
khói và lửa, cháo gạo lại đang sôi, chắc
là dịp thiết đãi các Bà-la-môn
đấy mà. Khi các Bà-la-môn
được mời ăn, ta cũng muốn hưởng đôi chút. Tại
sao ông xua ta đi?
- Ở đây chẳng đãi tiệc Bà-la-môn nào
cả. Lão hãy cút đi.
- Thế tại sao ông nổi giận như vậy? Khi ông dùng bữa, tôi muốn xin một
chút.
Ông đáp:
- Ta chẳng muốn cho lão dù chỉ một miếng cháo. Món
ăn hiếm hoi này chỉ vừa
đủ nuôi sống ta thôi, và
đây cũng do ta đi xin. Lão hãy
đi kiếm đồ ăn nơi khác.
Ông nói vậy là muốn nhắc đến việc đã
xin vợ phần gạo ấy. Và ông ngâm kệ:
1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!
Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
- Ta cũng sẽ lấy giọng ngọt như mật ngâm kệ
đáp lễ ông đây, hãy lắng nghe ta.
Rồi ông cố ngăn ngài và bảo:
- Ta không muốn nghe kệ của lão.
Thiên chủ Sakka vẫn ngâm đôi vần kệ:
2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Khi nghe lời ngài, ông đáp:
- Này Bà-la-môn, đây là một lời nói
nhân từ của lão, thôi để khi cháo chín, lão
sẽ được ăn một chút. Hãy ngồi xuống
đây.
Sakka ngồi xuống một bên. Khi ngài vừa ngồi, Canda theo cách này
đến gần và bắt
đầu nói chuyện như thế, dù
Maccharikosiya cố ngăn chặn, vị này vẫn
ngâm đôi vần kệ:
4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần.
5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Khi nghe lời vị ấy, kẻ hà tiện miễn cưỡng bảo:
- Thôi được, hãy ngồi xuống, ông cũng
sẽ được một ít cháo.
Vị ấy liền đến ngồi cạnh Sakka. Sau đó
Suriya cũng theo cách trên đến gần và
bắt đầu nói chuyện theo cách trên, mặc
dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị ấy vẫn
ngâm đôi vần kệ:
6. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, kẻ hà tiện lại càng thêm miễn cưỡng bảo:
- Thôi được, cứ ngồi xuống và lão sẽ
được một ít cháo.
Suriya đến ngồi cạnh Canda. Sau đó Màtali
theo cách trên cũng đến gần và bắt
đầu nói chuyện, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn
chặn, vị này vẫn ngâm hai vần kệ:
8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, ông bối rối như thể có đỉnh
núi đè nặng lên, ông miễn cưỡng nói:
- Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ
được một ít.
Màtali đến ngồi cạnh Suriya. Sau đó
Pañcasikha cũng theo cách trên đến gần và
bắt đầu nói chuyện, dù kẻ hà tiện cố ngăn
chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:
10. Như cá tham ăn vội nuốt mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao?
11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Maccharikosiya nghe vậy, gắng gượng một cách mệt nhọc, rên to lên:
- Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ
được ăn một chút.
Pañcasikha liền đến ngồi cạnh Màtali.
Khi năm vị Bà-la-môn
đều an tọa, cháo cũng đã chín. Kosiya
nhấc cháo ra khỏi lò, bảo các vị Bà-la-môn đem
lá tới. Vẫn ngồi tại chỗ, năm vị vươn tay ra đưa các ngọn lá cây leo
hái từ Tuyết Sơn. Kosiya thấy vậy bảo:
- Ta không thể cho cháo vào các ngọn lá to như thế của các vị
đâu. Hãy lấy lá cây keo hay các cây
tương tự.
Các vị đi lượm lá ấy, mỗi lá lớn bằng cái
mộc của chiến sĩ. Ông lấy muỗng múc một ít cháo cho tất cả các vị.
Vào lúc ông đã múc xong cho vị cuối
cùng, vẫn còn nhiều cháo trong nồi. Sau khi mời các vị Bà-la-môn xong, chính
ông ngồi xuống cầm cái nồi.
Ngay lúc ấy, Pañcasikha đứng lên,
biến hình thành con chó đến đứng trước các vị và
tiểu tiện. Mỗi vị Bà-la-môn đều lấy một ngọn lá
che cháo. Một giọt nước tiểu của chó rơi vào lưng bàn tay của Kosiya.
Các vị Bà-la-môn lấy nước trong bình ra trộn với cháo giả vờ
ăn. Kosiya nói:
- Cho ta một chút nước, rửa tay xong ta mới
ăn cháo.
Các vị bảo:
- Hãy đi kiếm nước cho mình và rửa
tay.
- Ta đã cho các vị cháo thì nay hãy
cho ta một chút nước.
- Chúng ta không làm việc trao đổi thí vật.
- Thế thì giữ dùm ta nồi cháo, khi rửa tay xong, ta sẽ trở về.
Và ông xuống bờ sông. Lúc ấy con chó tiểu tiện
đầy nồi. Kosiya thấy chó tiểu tiện liền lấy gậy
lớn và đến gần hăm dọa nó. Bấy giờ con
chó biến thành con ngựa thuần chủng và trong khi nó
đuổi theo ông, nó biến hóa đủ màu. Khi
thì chó màu đen, khi thì trắng, khi thì
vàng, khi thì lốm đốm. Dáng nó khi thì
cao, khi thì thấp. Nó hiện ra đủ hình
dáng khác nhau như vậy và rượt theo Kosiya khiến ông sợ chết khiếp, chạy
đến gần các Bà-la-môn trong khi các vị
bay lên đứng trên không. Khi thấy thần
lực các vị, ông ngâm kệ:
12. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.
Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.
*
Và Sakka ngâm kệ ca ngợi danh vọng của Pañcasikha:
14. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.
Nghe lời ngài, Kosiya hỏi:
- Nhờ hành động gì, con người
đạt vinh quang thiên giới
đến như vậy?
- Những người không thực hành bố thí, những kẻ tạo ác nghiệp và keo kiệt
không thể lên thiên giới, mà tái sinh địa ngục.
Sakka ngâm kệ nêu rõ điều này:
15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.
Và ngài ngâm các kệ sau để chứng tỏ những
người hiền trí theo chánh hạnh sẽ đạt thiên giới:
16. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên
đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.
Sau đó, Sakka lại bảo:
- Này Kosiya, chúng ta không đến đây để xin
ăn cháo đây nhưng vì lòng thương
xót ngươi mà chúng ta đến.
Và ngài ngâm kệ nêu rõ việc ấy cho y:
17. Dù trong đời trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.
Nghe vậy, Kosiya suy nghĩ: "Các ngài nói các ngài có thiện chí
đối với ta, muốn ta khỏi đọa đày
địa ngục và an trú vào Thiên giới, và
ông vô cùng hoan hỷ ngâm kệ:
18. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ý sâu xa.
19. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.
20. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
Sau khi cảm hóa Kosiya, Sakka Thiên chủ lại dạy ông các quả báo của hạnh
bố thí, làm cho ông biết hy sinh quên mình, và nhờ thuyết Pháp, ngài
đã an trú ông vào Ngũ giới xong, liền
cùng các vị Thiên hầu cận trở về trời.
Phần Kosiya cũng vào thành Ba-la-nại, sau khi xin phép vua, ông bảo gia
nhân đi lấy tất cả nồi chảo mà họ có
được, đổ đầy vàng bạc từ kho báu
đem cho hành khất. Bấy giở, ông khởi
hành từ vùng Tuyết Sơn bên phía hữu, và ở một nơi giữa sông Hằng và một hồ
thiên nhiên, ông xây một am thất bằng lá, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh sống toàn
củ quả rừng. Vị ẩn sĩ sống ở đó một thời gian
cho đến tuổi già.
Thời ấy Sakka Thiên chủ có bốn ái nữ: Hy Vọng, Tín Thành, Vinh Quang và
Danh Dự. Các nàng đem theo nhiều tràng
hoa trời thơm ngát đến hồ Anotatta, chơi đùa
trong nước, và sau khi đã thỏa thích ở
đó, lại an tọa trên
đỉnh Manosilà.
Ngay lúc ấy, ẩn sĩ Bà-la-môn Nàrada lên cung
đình cõi trời Ba mươi ba nghỉ ngơi tránh cơn nắng gắt ban ngày, và
dựng một chỗ an trú ngay dưới khóm cây Cittakùta trong Thiên lạc Viên
Nandana. Cầm một đóa san hô trong tay để làm
lọng che nắng, ông về Kim Động, nơi ông an trú
trên đỉnh Manosilà. Các Thiên nữ
thấy đóa hoa trong tay ông liền xin ông cho
hoa.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
21. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
Sak-ka ái nữ, các tiên nương
Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
22. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương
Xứng với Thiên tiên, các Thánh thần,
Chẳng quỷ ma hay người thế tục
Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
23. Tín Thành, Hy Vọng, với Vinh Quang,
Danh Dự, màu da sáng tựa vàng
Giữa các tiên nương là tuyệt sắc,
Đứng lên nói với Bà-la-môn:
24. Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
Ngài sẽ được ban mọi phước phần.
25. Na-ra-da thấy chúng mong cầu
Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
- Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
Phải là vương hậu các nàng bầu.
Bốn Thiên nữ nghe vậy liền ngâm kệ:
26. Nà-ra-da, tối thượng là ngài,
Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
Ai được ngài ban quà tặng ấy
Sẽ là tiên đẹp nhất trong bầy!
Nàrada nghe vậy liền bảo:
27. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần.
*
Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ này:
28. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
Nóng lòng vì bậc trí tinh khôn,
Chúng đi đến Sak-ka Thiên chủ
Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.
*
Các nàng vừa đứng, vừa hỏi câu này:
29. Bầy tiên hăm hở vội đi tìm,
Đế Thích đầy tôn trọng, phán liền:
"Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc
Vậy ai phá hoại sự bình yên?" .
Nghe ngài hỏi vậy, các nàng đáp:
30. Nà-ra-da, bậc đại hiền nhân
Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
Như vấy, đã nói ở Hương Sơn:
"Hãy tìm Thiên chủ Sak-ka ấy
Để biết ai ưu, liệt giữa đàn".
Nghe thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: "Nếu ta bảo ai trong bốn ái nữ của ta
đức hạnh vượt lên các nàng kia, chúng sẽ
nổi giận. Trường hợp này ta không thể quyết
định được. Ta sẽ đưa chúng đến Kosiya, vị ẩn sĩ tại Tuyết Sơn, vị ấy
phải quyết định vấn đề này cho chúng".
Vì thế ngài bảo:
- Ta không thể quyết định trường hợp các con
được. Trên vùng Tuyết Sơn có vị ẩn sĩ
tên là Kosiya. Ta muốn gửi một chén tiên thực tặng vị ấy. Vị ấy chẳng
ăn gì mà không chia cho kẻ khác, và
trong lúc cho, vị ấy biểu lộ sự xét đoán bằng
cách tặng kẻ nào đức hạnh. Ai trong các
con nhận được thực phẩm từ tay vị kia là nàng tiên tối thắng giữa cả
đàn.
Vừa nói vậy, ngài vừa ngâm kệ:
31. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra;
Vừa tặng quà, Ko-si xét đoán
Ai là đệ nhất đám tiên nga.
Rồi ngài triệu tập Màtali và bảo vị ấy đi
đến ẩn sĩ kia; khi truyền lệnh, ngài ngâm kệ sau:
32. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng Hà
Xuôi phía Nam, hiền Thánh ẩn cư;
Tiên thực, Mà-ta-li, đến tặng,
Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà.
*
Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ:
33. Mà-ta-li nhận lệnh trời ban,
Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
Thoắt đứng dấu mình am ẩn sĩ,
Và dâng tiên thực tặng hiền nhân.
*
Kosiya nhận lấy và ngay khi đang đứng, ông
ngâm hai vần kệ:
34. Khi lửa tế đàn, lão
đốt lên
Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm
đen,
Sak-ka ngự trị trên Thiên giới,
Ai khác? - trao tay thực phẩm tiên.
35. Như hạt ngọc trai, trắng tuyệt trần,
Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
Mắt ta từ trước chưa hề thấy
Ai đặt vào tay thực phẩm thần?
Màtali liền đáp:
36. Ta đến, Sak-ka hạ lệnh truyền,
Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
Xin hãy ăn đi, hỡi bậc hiền,
Ngài thấy Mà-ta-li trước mắt,
Quản xa thần ở cõi chư Thiên.
37. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần:
Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
Mời ngài tiên thực, chớ phân vân.
Nghe vậy, Kosiya ngâm kệ giải thích rằng ông
đã có lời phát nguyện xưa:
38a. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời:
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.
b. Ăn một mình không
được tán thành
Bởi người có trí tuệ cao minh,
Ai không san sẻ cho người khác,
Hạnh phúc làm sao đến với mình?
Khi Màtali hỏi vị này:
- Thưa Thánh giả, ngài thấy điều gì
sai trái khi ăn mà chẳng chia phần cho
kẻ khác, nên ngài phát nguyện này?
Ông đáp:
39. Những người nào phạm tội tà dâm,
Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
Hoặc người phản bội các thân bằng,
Hoặc tồi tệ nhất: người keo kiệt,
Ta chẳng hề mong xếp hạng chung;
Nước uống cho dù là một giọt,
Ta không đụng nếu chẳng chia phần.
40. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn
Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
Bậc trí sẽ tuyên dương những kẻ
Phát ban của cải để thi ân;
Những ai hào phóng trên trần giới
Và tránh xan tham đủ mọi đàng
Sẽ được mọi người đồng tán thán,
Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.
Nghe nói vậy, Màtali xuất hiện nguyên hình trước vị này! Vừa lúc ấy, bốn
Thiên nữ đứng ở bốn phương: Vinh Quang ở phía
Đông, Hy Vọng ở phía Nam, Tín Thành ở phía Tây, và Danh Vọng ở phía
Bắc.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
41. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
Tên là Hy Vọng với Vinh Quang,
Tín Thành, Danh Dự, tuân Thiên mệnh,
Bước đến Ko-si-ya ẩn am.
42. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
Trước Ma-ta quản xa Thiên tử,
Bậc trí vui mừng vội hỏi han:
43. "Là ai, Thiên nữ tựa sao mai,
Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
Mình khoác xiêm y vàng chói lọi,
Tên gì cho biết, gái nhà trời?"
44. "Vinh Quang, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
45. Ta ban hạnh phúc đến người nào
Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
Tên gọi Vinh Quang, thưa Thánh giả,
Xin đem tiên thực tặng ta nào!
Nghe vầy, Kosiya đáp:
46. Những người tài, đức, lại tinh thông,
Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
Song bởi thiếu nàng nên thất bại;
Việc này, ta trách ác phần nàng.
47. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
Song được nàng ban cho phú quý,
Khiến người quý tộc hóa nô tài.
48. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
Lại còn đánh bại bao người trí;
Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Thế là nàng tiên liền biến mất ngay lập tức. Sau
đó ông nói chuyện với nàng Hy Vọng:
49. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
Đầu cài thoa
đỏ như màu lửa
Được đốt bằng chùm cỏ Ku-sa?
50. Trông nàng như một chị nai rừng
Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng
Khác nào con vật bị kinh hoàng;
Hỡi nàng Thiên nữ mắt hiền dịu,
Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
Vì thế lạc đường không sợ hãi
Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?
Nàng đáp vần kệ này:
51. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
Từ Sak-ka điện, chốn Thiên cung,
Ma-sak-ka ấy là tên gọi,
Ta chính là Thiên nữ giáng trần,
Hy Vọng giờ đây đang xuất hiện
Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
Và tặng ta điều vẫn ước mong.
Nghe vậy, Kosiya bảo:
- Người đời vẫn nói với ta rằng bất cứ ai làm
nàng hài lòng, nàng liền ban hy vọng cho kẻ ấy bằng cách hoàn thành kết quả
của niềm hy vọng, còn ai không làm nàng vui lòng, thì nàng không ban cho kẻ
ấy. Như thế, thành công không đến với kẻ ấy là
do nàng, mà nàng lại tạo ra thất bại kia.
Để chứng minh điều n ày, ông ngâm kệ:
52. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng
Ra biển lên tàu vượt đại dương,
Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
53. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong
Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
Song gặp tai ương hay hạn hán,
Mất mùa gặt hái để bù công.
54. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng
Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
Ngã nhào, địch siết vòng vây hãm,
Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
55. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
56. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
Không quyền đòi hỏi ngay sàng tọa
Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
Ta chẳng thích nàng, Hy Vọng hỡi,
Biến đi, nàng hãy biến
đi liền!
Nàng Thiên nữ ấy cũng bị khước từ, liền biến mất dạng ngay lập tức. Sau
đó vị ấy lại ngâm kệ trò chuyện với
Thiên nữ Tín Thành:
57. Lừng danh Thiên nữ sắc huy hoàng
Đứng phía trời Tây tướng bất trường,
Mình khoát xiêm y vàng rực rỡ,
Tên gì cho biết, hỡi tiên nương.
Nàng liền ngâm kệ đáp:
58. Tín Thành, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
Kosiya bảo:
- Những người nào vì tin tưởng từ lời này
đến lời khác vẫn hay làm các chuyện nọ chuyện kia, thường làm những
việc không nên làm hơn là những việc nên làm, và thực sự tất cả
đều do nàng.
Và vị ấy ngâm các vần kệ:
59. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân;
Vì nàng, có lúc mất ân phước,
Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
60. Với vợ hiền, cao quý, thục đoan,
Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
Song đặt lòng tin ả bán hương!
61. Vì nàng, lan rộng thói tà dâm,
Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm.
Không có quyền đòi bình nước uống,
Cũng chẳng đòi
đâu được tọa sàng,
Nói gì thực phẩm từ thiên giới;
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Nàng Thiên nữ cũng biến ngay lập tức. Nhưng Kosiya lại trò chuyện với
nàng Danh Dự khi nàng đang đứng ở phương Bắc, và
ngâm hai vần kệ:
62. Bình minh viền rực bóng đêm tàn,
Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
Nàng là ai, hãy nói danh xưng.
63. Như một cây mềm, dễ mọc ngang
Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
Sao cứ nhìn ta dáng thẹn thuồng
Như thể có điều gì muốn nói,
Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?
Lúc ấy nàng ngâm kệ đáp:
64. Danh Dự là ta, bạn chí thân
Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
Đến đây ta muốn xin tiên thực,
Song ước mơ nào dám nào năng,
Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
Nhất là đối với gái hồng quần.
Nghe vầy, vị ẩn sĩ ngâm hai vần kệ:
65. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
Hãy nhận món này thỏa ước mong.
66. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
Xin hạ cố, Thiên nữ sắc vàng,
Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
Món ăn thiên giới cũng chia nàng.
*
Những vần kệ sau đây phát xuất từ Trí tuệ
Tối thắng của đức Phật:
67. Danh Dự, tiên nương thật vẻ vang,
Được mời làm khách ở trong am,
Ko-si-ya có nhiều hoa quả,
Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
Lại thấy từng đoàn hiền Thánh giả
Vẫn thường lui tới các thôn làng.
68. Rập rạp khóm cây đang trổ hoa,
Pi-yal, xoài, mít cạnh Ju-da,
Sà-la, đào
đỏ tươi tô điểm,
Hùng vĩ, sung, bàng đổ bóng xa.
69. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
Đậu kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
Tre, sậy chen nhau rập nhất vùng.
70. Ở về phía Bắc, được viền quanh
Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
71. Đàn cá tung tăng
hạnh phúc tràn
Tự do nô giỡn thật bình an,
Giữa bao thực phẩm đầy phong phú
Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
72. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình
Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
73. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy
Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
Đấy là nguồn nước uống tràn
đầy.
74. Trâu nghé, tây ngưu cũng đến đây,
Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
Hươu rừng rất lớn và nhiều loại
Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay!
75. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa
Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.
Đức Thế Tôn đ ã ca tụng vùng thảo am của Kosiya như vậy. Bây giờ
để miêu tả cung cách Thiên nữ Danh Dự
đi vào am, Ngài ngâm kệ:
76. Nàng Thiên nữ dựa một cây cành
Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
Như chớp từ vầng mây sấm sét
Sáng lòe lên giữa cảnh am tranh.
77. Tọa sàng thanh lịch soạn cho nàng
Ở phía trên đầu, nệm thật sang
Bằng cỏ Ku-sa thơm sực nức,
Phủ ngoài da quý của linh dương.
78. Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban
Cùng nàng Danh Dự, vị tiên nương:
"Tọa sàng đã soạn cho nàng hưởng,
Xin hãy an tâm nhận tọa sàng".
79. Ẩn sĩ lấy ra nước suối trong
Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
Hoan hỷ, người trao thực phẩm thần.
80. Tay ôm tặng vật, dạ vui mừng
Thiên nữ hân hoan bảo Thánh nhân:
"Thờ phụng ta rồi ngài thắng lợi
Giờ ta tìm lại cảnh thiên đường".
81. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang
Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
"Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
Tiên thực đây. Phần thưởng hãy ban".
82. Sak-ka cùng với chúng Thiên thần
Kính lễ nàng Thiên nữ tuyệt luân,
Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.
Trong lúc tôn vinh nàng như vậy, ý tưởng này chợt
đến với Thiên chủ Sakka: "Vì duyên cớ gì
Kosiya từ chối ban tặng vật cho các nàng kia, lại ban thực phẩm thần tiên
cho nàng này thôi?". Để xác định lý do
này, ngài lại triệu Màtali đến.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn
đề:
83. Sak-ka Thiên chủ cõi Băm ba
Phán lệnh Mà-ta-li quản xa,
Truyền: "Đến bảo hiền nhân giải thích
Cớ gì Danh Dự được ban quà?
Tuân lệnh ngài, Màtali cỡi thiên xa Vejayanta (Tối thắng xa của
Đế Thích) khởi hành
đến nơi kia.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
84. Vì vậy, Mà-ta-li vội vàng
Phóng xe du lịch giữa không gian,
Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng
Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
Khung xe đóng khéo được trang hoàng
Cầu kỳ, đủ các hình tô
điểm,
Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
85. Trên vàng được phát họa chim công
Khéo tạo thành con số thật đông,
Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
Ở trong bảo ngọc này đều khắc
Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
86. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàng,
Cảnh này xem thực vinh quang quá,
Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng
Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
87. Ngay lúc Mà-ta nhảy vụt nhanh
Cỡi thiên xa ấy, giữa thiên thanh,
Âm thanh mười hướng đồng vang dội
Qua giữa không gian đã tốc hành,
Thiên tử làm trần gian chấn động:
Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
88. Chẳng bao lâu đến thảo am kia
Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
Để một vai trần chào Thánh giả,
Mà-ta-li lại bắt đầu thưa
Với vị Bà-la-môn trí tuệ
Tinh thông Thánh điển thật cao xa.
89. Nghe đây, Tôn giả Ko-si-ya,
Lời nói của Thiên chủ Sak-ka
Về việc ngài đang mong muốn biết,
Kìa xem, sứ mạng được giao ta:
"Trong khi Tôn giả không công nhận
Quyền của Tín Thành, Hy Vọng và
Vinh Quang, xin hỏi sao Danh Dự
Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?"
Khi nghe những lời này, vị ẩn sĩ khổ hạnh ngâm vần kệ:
90. Mà-ta-li hỡi, nàng Vinh Quang
Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
Trong lúc Tín Thành tâm bất định,
Hỡi ngài, Thiên tử quản xa thần,
Nàng Hy Vọng vẫn thường lừa dối
Thích phản bội lời hứa của nàng,
Danh Dự riêng mình theo đức hạnh,
Trú thân trong Thánh đạo bình an.
Bây giờ vị ấy lại ngâm kệ ca ngợi đức hạnh
của nàng:
91. Sống ở gia môn, gái má hồng
Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
Và những kẻ đang sống với chồng,
Ví thử có khi nào nhục dục
Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
Nghe lời nói của nàng Danh Dự,
Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
92. Khi các dáo, tên ở chiến trường
Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội
Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
Nghe được lời nàng Danh Dự nói,
Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
93. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn
Những đợt ba đào giữa đại dương,
Danh Dự cũng thường hay trấn áp
Con đường của những bọn tà gian;
Mà-ta-li hỡi, mau về gặp
Thiên chủ In-dra, nói rõ ràng:
Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới
Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.
Nghe vậy, Màtali ngâm vần kệ:
94. Ko-si-ya, kẻ ấy là ai
Đã gợi ý kia
đến với ngài,
Có phải là In-dra Đại đế,
Phạm thiên, đầy tạo hóa cao vời?
Nàng Danh Dự ấy, thưa Tôn giả,
Phải biết được sinh bởi ý trời
Thiên chủ In-dra, trên thượng giới,
Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi.
Trong lúc vị Thiên tử nói, ngay chính thời khắc ấy, Kosiya sắp phải tái
sinh. Màtali liền bảo:
- Này Kosiya, thân ngũ uẩn đang lìa
Tôn giả. Việc thực hành hạnh bố thí đã
viên mãn. Tôn giả còn có gì liên hệ với nhân thế nữa
đâu? Chúng ta sẽ cũng lên thiên giới bây
giờ.
Vừa quyết định đưa vị ấy lên trời,
Thiên tử vừa ngâm kệ:
95. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
Lập tức lên xe quý của ta,
Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
Cung đình ngự trị cõi Băm
ba
In-dra đang đợi chờ Tôn giả,
Quyến thuộc ln-dra quả thực là.
Thiên đạo hôm nay lên cộng trú
Ngài thành đạt với chúa In-dra.
Trong lúc Màtali đang nói, Kosiya từ trần và
hóa sinh vào hàng Thiên chúng mà không cần qua trung gian cha mẹ, rồi bước
lên đứng trên thiên xa. Sau
đó Màtali
đưa vị ấy đến yết kiến Sakka. Khi thấy vị ấy, Thiên chủ Sakka rất
đẹp ý và thưởng Thiên nữ Danh dự cho vị
ấy đưa về làm vương hậu chánh cung, lại
ban cho vị ấy vương quyền cai trì một miền rộng bao la nữa.
*
Trong khi nhận xét thực trạng các pháp, bậc
Đạo Sư bảo:
- Chính công đức của một số hiền nhân được
thanh tịnh theo cách ấy.
Và Ngài ngâm vần kệ cuối cùng:
96. Chính hành động của Thánh hiền nhân
Đưa đến đời sau quả phước ân,
Kết quả thiện hành an trú mãi.
Người nhìn thực phẩm của Thiên thần
Được đem trao tặng nàng Danh Dự,
Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.
*
Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại với những lời này:
- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Ta cũng
đã giáo hóa kẻ xan tham này vốn là gã
keo kiệt cố hữu.
Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân?
-Thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Thiên nữ Danh Dự, vị Tỷ-kheo có
tâm bố thí hào phóng là Kosiya, Anuruddha (A-na-luật-đà)
là Màtali, Kassapa (Ca-diếp) là Suriya, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Canda,
Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Nàrada, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.
-ooOoo-
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền thân Kunàla)
Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc
trú gần hồ Kùnàla, liên hệ đến năm trăm
vị Tỷ-kheo bị tâm bất mãn chi phối. Câu chuyện diễn tiến theo trình
tự sau đây.
Hai bộ tộc Sàkiya (Thích-ca) và Koliya (Câu-ly) có con sông Rohini chảy
giữa hai thành phố Kapilavatthu (Ca-tỳ-vệ) và Koliya, sông này
được ngăn bằng một con
đê duy nhất, nhờ
đó dân chúng cày bừa gặt hái. Trong
tháng Jetthamùla (tháng năm và sáu), khi
lúa bắt đầu trổ bông và rủ xuống, nông
dân cư trú ở hai thành này tụ họp lại. Rồi dân chúng Koliya nói:
-Nếu cả hai bên cùng kéo nước, thì nước sẽ không
đủ cho cả hai thành phố chúng ta. Song
dân chúng tôi sẽ được mùa to nếu chỉ một
bên chúng tôi kéo nước, vậy hãy cho chúng tôi nước sông này.
Dân chúng thành Kapilavatthu đáp:
- Khi các ông đã chất thóc
đầy vựa thì chúng tôi không dám cả gan
đem vàng ròng, ngọc bích, tiền
đồng, thúng giỏ trong tay lai vãng trước
cửa nhà các ông đâu. Chúng tôi cũng sẽ được mùa
to nếu chỉ riêng chúng tôi lấy nước, vậy hãy cho chúng tôi lấy nước
đi.
- Ta không muốn cho - Đám người này
đáp.
- Ta cũng không muốn - Đám người kia trả
lại.
Trong lúc lời qua tiếng lại ồn ào như vậy, một người trong bọn họ
đứng lên
đấm vào một kẻ khác, đến lượt người ấy
đấm trả một kẻ thứ ba và cứ thế họ đấm
đá nhau và hằn học đụng chạm vào
nguồn gốc hoàng tộc của nhau, làm tăng dần cảnh
huyên náo ấy. Các nông gia Koliya bảo:
- Các người Kapilavatthu hãy cút ngay đi,
chúng bây là loài cẩu trệ, lang sói, ăn
ở với chị em gái của mình như súc vật kia. Voi, ngựa, giáo khiên của
chúng chống lại ta có lợi ích gì?
Các nông gia Sakiya đáp:
- Này lũ người cùi khốn nạn, hãy cút đi mau
với con cháu của bây, một lũ tồi tàn, thân phận hèn hạ, chẳng khác
bầy dã thú sống trong bông cây táo. Voi, ngựa, giáo, khiên của chúng chống
lại ta có ích lợi gì?
Vì thế họ đi kể chuyện với các viên
chức trong hội đồng phụ trách công việc ấy và
các vị này lại báo cáo với các vị trưởng tộc hoàng gia. Sau
đó, các vị trưởng tộc Sakiya (Thích-ca)
bảo:
- Phe ta sẽ cho chúng thấy đám người ăn ở
với chị em gái của mình hùng dũng như thế nào.
Rồi họ xông ra, sẵn sàng chiến đấu. Còn
bộ tộc Koliya (Câu-ly) bảo:
- Phe ta sẽ cho chúng thấy những người sống trong bộng cây táo hùng dũng
ra sao.
Và họ cũng xông tới, sẵn sàng chiến đấu.
Nhưng một số đạo sư khác lại kể chuyện như
vầy:
"Khi các nữ tỳ của bộ tộc Sakiya (Thích-ca) và bộ tộc Koliya (Câu-ly) ra
sông để lấy nước, vừa ném xuống đất các vành
khăn họ đội trên
đầu, vừa ngồi xuống chuyện trò vui vẻ,
thì một người cầm nhầm khăn của người khác vì
tưởng đó là khăn
của mình, và khi có tranh cãi do việc này gây ra, mỗi người
đều bảo khăn kia của mình, dần dần dân
chúng của hai kinh thành cả nô lệ, nông dân, tùy tùng, thủ lãnh, quan chức,
phó vương đều xông ra sẵn sàng chiến
đấu.
Tuy thế, bản kinh trước được tìm thấy
trong nhiều tập Sớ giải và được xem là
hợp lý, đáng chấp nhận hơn bản sau.
Bấy giờ vào buổi xế chiều, dân chúng đã
xông ra sẵn sàng lâm trận. Thời ấy, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi, lúc rạng đông,
trong khi đang quán sát thế gian, Ngài thấy họ khởi hành ra trận,
Ngài tự hỏi nếu Ngài đến đó, trận chiến có chấm
dứt chăng, và Ngài quyết định: "Ta quyết
đến đó và để dập tắt cuộc tử chiến này,
ta sẽ kể ba chuyện Tiền thân, để chứng minh lợi
lạc của tình đoàn kết, ta sẽ dạy
họ Kinh Attadanta: Bạo lực (Sutta Nipàta: Kinh Tập IV, 15) và sau khi nghe
ta thuyết giảng, dân chúng hai thành này sẽ đưa
đến diện kiến ta mỗi bên hai trăm năm
mươi thanh niên, ta sẽ nhận họ vào Giáo
đoàn và Hội chúng càng thêm đông đảo".
Vì thế, sau khi đã tắm rửa, Ngài
đến thành Sàvatthi khất thực. Lúc trở
về, sau buổi thọ trai, vào xế chiều, Ngài bước ra từ Hương phòng, không báo
cho ai một lời, Ngài cầm y bát và một mình ra
đi và ngồi kiết-già trên không giữa hai
đám người ấy.
Thấy rằng đây là cơ hội làm quần
chúng kinh ngạc, Ngài ngồi đấy tỏa ra các tia
sáng xanh đậm từ tóc Ngài khiến bầu trời
đen tối. Rồi khi tâm họ lo âu, Ngài liền xuất hiện và tỏa ra ánh sáng
ngũ sắc.
Dân chúng Kapilavatthu thấy đức Thế Tôn liền
suy nghĩ: "Đức Thế Tôn, vị thân tộc cao quý của ta, đã
đến. Có thể Ngài
đã thấy phận sự chiến
đấu đặt trên phe ta chăng?
Nay bậc Đạo Sư đã đến, ta không thể lao
vũ khí chống kẻ thù nào nữa?". Rồi họ hạ vũ khí xuống và nói:
- Dân Koliya cứ giết chết hay thiêu sống ta
đi.
Dân Koliya cũng làm giống như vậy.
Lúc ấy đức Thế Tôn giáng lâm, và ngự
trên bảo tọa của đức Phật đặt ở một nơi tuyệt
đẹp trên bãi cát, và Ngài chiếu hào quang vô thượng của một bậc Giác
Ngộ.
Các vị vua đảnh lễ đức Thế Tôn và an
tọa. Sau đó bậc Đạo Sư hỏi, mặc dù Ngài
đã biết rõ sự việc:
- Thưa các Đại vương, tại sao các vị đến
đây?
- Bạch Thế Tôn, chúng con đến đây không phải
để ngắm dòng sông hay vui chơi, mà để
chiến đấu.
- Các Đại vương có tranh chấp về việc gì?
- Về nước sông.
- Thế nước sông đáng giá bao nhiêu?
- Bạch Thế Tôn, rất ít.
- Thế đất đai đáng giá bao nhiêu?
- Đất vô giá.
- Thế các vị Tướng quân đáng giá bao nhiêu?
- Họ cũng vô giá.
- Thế tại sao chỉ vì một chút nước chẳng ra gì mà các vị phải hủy diệt
các tướng quân cao quý? Quả thật, cuộc tranh chấp này không có gì
đền bù được
cả song vì một cuộc tử chiến giữa một vị thần cây và một sư tử
đen nên một mối thù truyền kiếp
đã được tạo
ra và kéo dài đến tận hiện kiếp này.
Cùng với những lời trên, Ngài kể cho họ nghe Tiền thân Phandana (số 475,
Tập V). Sau đó Ngài bảo?
- Không nên đi theo nhau một cách mù
quáng thế này. Một đoàn súc vật bốn chân
ở vùng Tuyết Sơn trải dài ba ngàn dặm, đã
theo lời một con thỏ, lần lượt đâm đầu xuống
biển cả. Do đó, không nên theo nhau cách này.
Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Daddabha (số 322, Tập III)
Hơn nữa, Ngài lại bảo:
- Đôi khi kẻ yếu nhìn thấy nhược
điểm của người mạnh; khi khác, kẻ mạnh thấy
nhược điểm của người yếu, nên có lần một con chim cút mái
đã giết một vương tượng. Và Ngài kể Tiền
thân Latukika (số 357, Tập III).
Như vậy để làm dịu cuộc tranh chấp,
Ngài đã kể ba chuyện Tiền thân. Và
để chứng minh hiệu quả của sự đoàn kết,
Ngài kể hai chuyện Tiền thân:
- Trong trường hợp những sinh vật sống chung
đoàn kết, không ai tìm ra kẽ hở để tấn
công cả.
Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Rukkhadhamma (số 74, Tập I)
Ngài lại nói:
- Đối với những sinh vật đoàn kết,
không ai có thể tìm ra lỗ hổng để tấn công cả,
nhưng khi chúng đã tranh chấp lẫn nhau, thì một kẻ
đi săn nào
đó cũng tàn phá chúng và tiêu diệt chúng. Quả thật không có phần
thưởng gì trong cuộc tranh chấp cả.
Cùng với những lời này, Ngài kể Tiền thân Vattaka (số 33, Tập I).
*
Sau khi đã kể năm
chuyện Tiền thân như vậy, Ngài chấm dứt bằng cách tụng kinh
Attadanta. Khi đã trở thành những kẻ mộ
đạo, các vị vua nói:
- Nếu bậc Đạo Sư không đến, chúng ta đã
tàn sát lẫn nhau làm máu chảy thành sông. Chính nhờ bậc
Đạo Sư mà chúng ta còn sống. Nhưng ví
thử trước kia bậc Đạo Sư sống đời thế tục, thì
giang sơn gồm bốn đại châu lục cùng với
hai ngàn đảo nhỏ nữa hẳn đã vào tay Ngài
và hẳn Ngài đã có hơn một ngàn vương tử.
Hơn nữa, chắc hẳn Ngài đã có một
đoàn tùy tùng gồm các tướng lãnh quý
tộc. Song từ bỏ mọi vinh quang này, Ngài xuất thế và
đạt Trí tuệ Tối thắng. Bây giờ ta hãy
tiễn Ngài lên đường cùng một
đoàn tùy tùng tướng lãnh quý tộc.
Thế là dân chúng hai thành mỗi bên tặng Ngài hai trăm
năm mươi vị quý tộc. Sau khi truyền giới xuất gia cho họ, Ngài
đi về một khu rừng lớn.
Từ ngày hôm sau, được đệ tử hộ tống Ngài
đi khất thực ở hai thành, khi thì vào
Kapilavatthu, lúc khác lại vào Koliya, dân chúng cả hai thành
đều hết sức kính trọng Ngài.
Giữa đám vương gia quý tộc này là
những vị thọ giới không do hoan hỷ mà vì kính trọng bậc
Đạo Sư nỗi bất mãn trong tâm liền sinh.
Những người vợ cũ của họ muốn khơi dậy niềm bất mãn của họ, cứ gửi
đi những lời nhắn tin này nọ, khiến họ
lại càng trở nên nản lòng thối chí hơn nữa.
Khi quán sát, bậc Đạo Sư nhận thấy tâm họ đã
bất mãn như thế nào, liền suy nghĩ: "Các Tỷ-kheo này, dù sống với một vị
Giác Ngộ như Ta, vẫn sinh tâm bất mãn. Ta thử xem cách thuyết giảng nào sẽ
ích lợi cho họ", và Ngài nghĩ đến Pháp thoại
Kunàla. Rồi ý tưởng này chợt nảy ra trong trí Ngài: "Ta sẽ
đưa các Tỷ-kheo này
đến vùng Tuyết Sơn và sau khi chứng minh
các ác dục liên hệ đến nữ giới qua chuyện Kunàla
và xóa tan nỗi bất mãn của họ, ta sẽ cho họ đạt
Sơ quả trong Thánh đạo.
Vì thế sáng sớm Ngài đắp y trong và
cầm y bát đi khất thực ở thành
Kapilavatthu, sau khi trở về và dùng ngọ trai đã
xong, Ngài bảo năm trăm vị Tỷ-kheo:
- Các ông đã từng thấy vùng Tuyết Sơn
đầy lạc thú chưa?
- Bạch Thế Tôn, chưa - Các vị đáp.
- Thế các ông có muốn đi chiêm bái
Tuyết Sơn chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con không có thần thông lực làm sao chúng con
đi được?
- Song giả sử có ai đó đưa các ông cùng
đi, các ông có muốn đi chăng?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Bậc Đạo Sư liền dùng thần lực
đưa tất cả các vị lên không gian và du
hành đến vùng Tuyết Sơn, vừa trụ trên
không, Ngài vừa chỉ cho Hội chúng xem một dãy Tuyết Sơn kỳ diệu với nhiều
đỉnh núi như Kim Sơn, Ngọc Sơn, Hồng Sơn, Ngân
Sơn, Bình Địa Sơn, Thủy Tinh Sơn, với
năm sông lớn và các hồ Kannamundaka, Rathakàra, Sihappapàta,
Chaddanda, Tiyaggala, Anotatta và Kunàla, tất cả bảy hồ.
Tuyết Sơn là một vùng mênh mông, cao năm
trăm dặm, rộng ba ngàn dặm. Ngài đã
dùng thần thông lực chỉ cho Hội chúng thấy cảnh tuyệt mỹ của vùng này, cùng
các nơi cư trú được xây tại đó, và các
loại súc vật như từng đoàn sư tử, cọp,
voi... Ngài đều chỉ rõ từ nơi này: các
vùng đất thiêng và nhiều lạc viên khác
đầy hoa quả sum sê, từng
đàn chim đủ
loại và các cây hoa mọc trên đất lẫn
dưới nước, bên sườn Đông của Tuyết Sơn là
một bình nguyên đất vàng và bên sườn Tây
là một bình nguyên đất đỏ.
Thoạt nhìn thấy những vùng kỳ vĩ này, nỗi lòng mong nhớ khát khao của các
Tỷ-kheo đối với các bà vợ cũ tiêu tan
mất. Sau đó, bậc Đạo Sư cùng các Tỷ-kheo
từ không trung hạ xuống sườn Tây của Tuyết Sơn trên một cao nguyên rộng sáu
mươi dặm, trong thung lũng đỏ dài ba
dặm, dưới gốc cây Sà-la bao phủ cả bảy dặm và trường thọ suốt một kiếp, bậc
Đạo Sư được Tăng chúng vây quanh, tỏa hào
quang lục sắc và an tọa, làm chấn động cả lòng
đại dương và chiếu sáng như mặt trời,
Ngài nói với các Tỷ-kheo bằng một giọng ngọt như mật:
- Này các Tỷ-kheo, hãy hỏi Ta về các kỳ quan mà các ông chưa từng thấy ở
vùng Tuyết Sơn này.
Lúc ấy, hai chim cu cườm ngậm một khúc cây ở hai
đầu, và ở giữa có
đặt chim chúa. Tám chim cu ở trước và
tám con ở sau, tám con bên phải và tám con bên trái, tám con ở dưới và tám
con ở trên, cứ thế che bóng trên chim chúa trong khi vừa hộ tống chim chúa
vừa bay qua không gian.
Khi thấy đàn chim này, các Tỷ-kheo
hỏi bậc Đạo Sư:
- Bạch Thế Tôn, bầy chim này có ý nghĩa gì chăng?
- Này các Tỷ-kheo, đây là một tục lệ
cổ của gia tộc ta, một truyền thống do Ta tạo ra, thời xưa chúng hộ tống Ta
như vậy. Thuở bấy giờ có cả một đàn chim
lớn. Ba ngàn năm trăm chim mái son trẻ đã
hộ tống Ta. Dần dần chúng tản mát, và đàn
chim còn lại như các ông thấy đó.
- Bạch Thế Tôn, chúng đã hộ tống Thế
Tôn trong rừng nào?
Bậc Đạo Sư bảo.
- Này các Tỷ-kheo, hãy nghe đây.
Vừa hồi tưởng chuyện cũ, Ngài vừa kể một chuyện quá khứ và giáo hóa các
vị như vầy.
*
Đây l à chuyện tương truyền và danh tiếng phát ra từ
đó:
Một vùng đất kia có đủ loại cây cỏ mọc lên,
được phủ với nhiều khóm hoa, nhiều dã
thú lai vãng như voi, gayal, trâu, nai, trâu rừng (yak), hươu sao, tê giác,
nai lớn, sư tử, hổ, báo, gấu, sói, linh cẩu, rái cá, linh dương kadalì, mèo
rừng, thỏ tai dài, vô số đàn voi
đủ loại trú ngụ, đủ loại hươu nai lui tới, là
nơi nương náu của bầy yakkha (dạ-xoa) mặt ngựa, yêu tinh, ma quỷ...
Vùng ấy lại được một khóm cây rậm rạp che
phủ, nở hoa ở trên ngọn, thân mảnh mai cao, không có lỏi bên trong,
vang dội tiếng chim líu lo, sung sướng như điên
cuồng, nào là chim ưng, gà gô, chim voi, công trĩ, cu gáy; vùng ấy lại
được tô điểm với hàng trăm
khoáng chất như thủy ngân, thạch tín trắng, thạch tín vàng, son
đỏ, vàng và bạc. Chính trong khu rừng kỳ
thú này có con chim Kunàla (một loại sơn ca), màu sắc rực rỡ với bộ lông
sáng chói. Chim Kunàla này có ba ngàn năm trăm
chim mái theo hầu. Thời ấy hai con chim ngậm một khúc cây trong mỏ đặt chim
Kunàla ở giữa và bay lên, vì sợ rằng nỗi gian lao trong quãng
đường xa sẽ làm chim này nhích ra khỏi
chỗ đậu và rơi xuống.
Năm trăm chim mái bay phía dưới và
chúng suy nghĩ: "Nếu chúa Kunàla này rơi xuống khỏi chỗ
đậu, thì chúng ta sẽ giữ lấy ngài trong
đôi cánh của ta".
Năm trăm chim khác bay phía trên, vì
sợ rằng sức nóng làm cháy da chim Kunàla.
Năm trăm chim khác bay mỗi bên ngai,
để cản nóng, lạnh, cỏ cây, bụi bặm, gió, sương
đụng vào ngài.
Năm trăm chim bay phía trước vì sợ
rằng bọn chăn trâu bò, cắt cỏ, lượm củi,
tiều phu, kiểm lâm đánh chim Kunàla bằng
que củi, hay mảnh sành, nắm tay hay hòn đất,
cây gậy hay con dao, hòn sỏi, hoặc lo rằng chim Kunàla sẽ va chạm vào
bụi cây, dây leo, hay cây lớn, cột trụ, tảng đá
hoặc một con chim lớn nào đó.
Năm trăm chim bay phía sau, nói với Ngài
những lời dịu dàng, thân ái bằng những âm điệu
du dương, ngọt ngào vì e rằng chim Kunàla mệt mỏi trong khi
đậu tại đó.
Năm trăm chim bay lượn vòng quanh
đây đó, mang về đủ loại trái cây khác nhau vì
sợ rằng chim Kunàla phải chịu đói khổ.
Thời ấy bầy chim nhanh nhẹn đưa chim Kunàla
đi du ngoạn từ lạc viên này
đến lạc viên khác, khu vườn này
đến khu vườn khác, bờ sông này
đến bờ sông khác, đỉnh núi này
đến đỉnh núi khác, vườn xoài này
đến vườn xoài khác, vườn hồng
đào này đến
vườn hồng đào khác, vườn mít này đến
vườn mít khác, rừng dừa này đến rừng dừa
khác. Cứ thế ngày nọ sang ngày kia, chim Kunàla
được bầy chim này hộ tống như vậy, lại
trách mắng chúng:
- Này lũ xấu xa kia, chết đi, chết tiệt cả
đi, chúng bây là quân trộm cắp, lừa đảo,
vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân, như gió cuốn
đi bất cứ nơi nào chúng bây muốn.
*
Sau những lời này, bậc Đạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, hiển nhiên là ngay khi Ta còn ở
đời sống súc sinh, ta đã hiểu rõ tính
tình vô ơn, độc ác, vô luân của nữ giới, và
ngay thời ấy, Ta đã không rơi vào uy lực
của họ và Ta đã
đặt họ dưới uy lực của Ta.
Khi Ngài đã xóa tan nỗi bất mãn trong
tâm Tăng chúng, Ngài lại giữ im lặng.
Vào lúc này, hai chim cu màu đen đến nơi
đây, nâng niu chúa lên cao trên khúc cây ấy, trong khi bốn chim khác
bay phía dưới và mỗi bên. Thấy chúng, các Tỷ-kheo lại hỏi bậc
Đạo Sư về bầy chim và Ngài
đáp:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ta có bạn là một chim sơn ca chúa tên là
Punnamukha, và truyền thống trong gia tộc chim ấy là như vầy.
Để đáp lại câu hỏi của các Tỷ-kheo như trước, Ng ài bảo:
*
Trên sườn Đông của dãy Tuyết Sơn,
chúa tể của núi đồi, là những dòng suối
xanh biếc, bắt nguồn từ những sườn núi thoai thoải, trong một vùng thơm
ngát, mê hồn, sáng tươi, diễm lệ với hoa sen nở rộ
đủ màu xanh, trắng, sen bách diệp, súng
trắng và cây hoa thần tiên, một miền bát ngát mỹ miều với
đủ loại kỳ hoa dị thảo, cây leo, vang vọng
tiếng thiên nga, vịt, ngỗng, có từng đoàn
ẩn sĩ khổ hạnh, những vị có đủ thần thông biến
hóa, lại có các thần linh, ma quỷ, dạ-xoa, yêu quái, nhạc thần, tiên
nữ và mãng xà.
Chính trong một khu rừng kỳ ảo như vậy sơn ca chúa Punnamukha
đã cư trú. Giọng sơn ca thật du dương êm
ái, chính đôi mắt tươi vui ấy là
đôi mắt của con chim say sưa với nhiều hoan
lạc. Ba ngàn năm trăm chim mái theo hộ
tống chim sơn ca Punnamukha này. Cũng vậy, có hai con chim vừa ngậm
khúc cây trong mỏ và đặt Punnamukha ở giữa vừa
bay lên không gian, vì sợ chim chúa phải chịu mệt nhọc...
Thuở ấy chim Punnamukha được đàn chim
này hộ tống ban ngày, đã ca ngợi chúng
như vầy:
- Các hiền muội thật đáng tuyên
dương, hành động này của các hiền muội
rất phù hợp với các mệnh phụ cao sang, vì các hiền muội
đã phụng sự chúa công mình.
Lúc ấy, thực ra sơn ca Punnamukha đến gần
nơi chim Kunàla đang đậu, và
đàn chim hầu cận chim Kunàla
đã thấy chim kia, trong khi chim ấy còn
ở đằng xa, chúng kéo lại gần chim Punnamukha và
cầu thân như vầy:
- Này Hiền hữu Punnamukha, chim Kunàla là một con chim hung bạo với giọng
lưỡi thô tục. Có lẽ nhờ hiền hữu giúp đỡ, chúng
tôi may ra mới nghe được lời nói tử tế của vị ấy.
- Thưa các quý nương, có lẽ chúng ta làm
được việc ấy.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần Kunàla,
sau lời chào hỏi ân cần, chim ấy cung kính đậu
một bên và nói với Kunàla như vầy:
- Này Hiền hữu Kunàla, tại sao Hiền hữu đối
xử tàn tệ với các quý nương này mặc dù họ giữ phẩm hạnh tốt
đẹp? Hiền hữu Kunàla, ta nên nói lời dịu
ngọt ngay cả với các nữ nhân có lời lẽ thiếu tao nhã, huống hồ
đối với các quý nương thanh cao thế này.
Khi chim ấy nói vậy xong, Kunàla liền phỉ báng Punnamukha như sau:
- Này quân khốn nạn kia, hãy chết đi, chết
tiệt cả đi. Ai lại giống như ngươi cứ mềm lòng trước lời van xin của
nữ giới?
Khi bị khiển trách như vậy, chim Punnamukha liền bỏ
đi. Rồi chẳng bao lâu sau đó, Punnamukha lâm
bệnh nặng, và chịu đau đớn kịch liệt vì
chứng xuất huyết, làm chim gần chết. Bầy chim hầu cận sơn ca Punnamukha liền
suy nghĩ: "Sơn ca này bị bệnh nặng, chắc là phải
được vực dậy từ căn bệnh này".
Nghĩ vậy, chúng liền rời bỏ chim ấy một mình và kéo
đến gần chim Kunàla.
Kunàla nhìn chúng bay lại từ xa, khi thấy chúng liền hỏi:
- Lũ khốn nạn kia, chúa của bây đâu?
- Hiền hữu Kunàla, chim Punnamukha bị bệnh. Có lẽ chim ấy phải
được vực dậy từ cơn bệnh này.
Khi chúng nói vậy xong, chim Kunàla nguyền rủa chúng:
- Hãy chết đi, lũ khốn nạn kia, chết tiệt
đi, chúng bây là lũ trộm cắp, lừa đảo,
vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân như gió cuốn
đi nơi nào bây muốn.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần nơi sơn ca
Punnamukha nằm và nói như sau:
- Chào Hiền hữu Punnamukha.
- Chào Hiền hữu Kunàla - Chim kia đáp.
Sau đó, chim Kunàla dùng
đôi cánh và mỏ ôm lấy Punnamukha và vừa
nâng bạn lên, vừa cho uống đủ thứ thuốc. Nhờ
thế, bệnh tình của sơn ca đã
thuyên giảm. Khi chim Punnamukha đã khoẻ
mạnh, bầy chim bay trở về và Kunàla cho chim Punnamukha
ăn quả rừng trong vài ngày,
đến khi bạn đã hồi sức, chim chúa bảo:
- Này Hiền hữu, nay đã bình phục, hãy
tiếp tục sống với đàn chim hộ tống bạn,
còn ta sẽ trở về nơi cư trú của ta.
Lúc ấy Punnamukha bảo bạn:
- Chúng đã bỏ ta khi ta lâm trọng
bệnh và bay đi nơi khác. Ta không cần bọn lừa
đảo ấy nữa.
Nghe vậy, Bậc Đại Sĩ đáp:
- Này Hiền hữu, ta sẽ kể cho bạn nghe về tính
độc ác của nữ giới.
Rồi ngài ôm lấy Punnamukha và đưa đến Thung
Lũng Đỏ trên sườn Tuyết Sơn, đậu trên
một tảng hồng thạch tín dưới gốc cây Sàla tỏa rộng bảy dặm
đường, trong lúc Punnamukha và
đám tùy tùng
đậu bên cạnh. Khắp cả vùng Tuyết Sơn
vang lên lời bố cáo của chư Thiên:
- Hôm nay điểu vương Kunàla an tọa
trên phiến hồng thạch ở Tuyết Sơn sẽ thuyết Pháp với vẻ kỳ diệu của một vị
Phật. Xin các vị lắng tai nghe ngài.
Nhờ bố cáo như vậy, lần lượt chư Thiên ở sáu tầng trời Dục giới
đều nghe và tụ họp lại nhiều sơn thần,
rắn thần, kim sí điểu (chim thần cánh vàng),
kên kên cũng loan báo sự kiện trên. Thời ấy thứu vương Ànanda cùng với
đoàn tùy tùng mười ngàn kên kên trú ngụ
tại đỉnh Thứu Sơn. Khi nghe tin chấn động này,
chim ấy suy nghĩ: "Ta sẽ đi nghe thuyết Pháp".
Rồi cùng đàn chim hộ tống
đến đậu riêng một nơi.
Ẩn sĩ Ànanda đã
đắc năm Thắng trí đang ở vùng Tuyết Sơn
cùng đoàn
đệ tử gồm mười ngàn ẩn sĩ, khi nghe tin chư Thiên loan truyền, liền
suy nghĩ: "Chúng bảo nhau hiền hữu Kunàla sẽ nói về các lỗi lầm của nữ giới,
ta cũng phải đi nghe bạn thuyết giảng". Rồi
được một ngàn vị khổ hạnh hộ tống, vị ấy dùng thần thông du hành
đến đó và ngồi riêng một nơi. Thế là
đã có một hội chúng họp lại
đông như vậy để nghe Phật pháp.
Lúc ấy Bậc Đại Sĩ, với trí kiến của một vị
nhớ lại cái tiền thân của mình, lấy Punnamukha làm nhân chứng, kể lại
một trường hợp trong tiền kiếp liên hệ với lỗi lầm của nữ giới.
*
Bậc Đạo Sư nói để làm sáng tỏ vấn
đề:
Thời ấy chim Kunàla nói với sơn ca Punnamukha, vừa mới
được vực dậy từ giường bệnh:
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy
Kanhà, một nữ nhân có hai cha và năm chồng, lại
còn luyến ái một nam nhi thứ sáu là một gã lùn có
đầu thụt vào cổ và què chân nữa.
Ở đây chúng ta cũng có thêm một vần
kệ:
1. Chuyện cổ, Kan-hà, được kể rằng:
Cả năm hoàng tử gả cho nàng,
Tham lam, nàng vẫn còn ham muốn
Một gã gù lưng, gái điếm đàng!
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy
trường hợp một nữ ẩn sĩ khổ hạnh tên Saccatapàvì sống trong nghĩa
địa và bỏ cả buổi
ăn thứ tư, song lại phạm tội lỗi với một
thợ vàng.
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã
chứng kiến trường hợp nàng Kàkàti, vợ của vua Venateyya, sống giữa biển cả,
tuy thế đã phạm tội lỗi với nhạc công
Natakuvera (Tiền thân số 327, tập III).
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy
nàng tóc vàng Kurangavì, mặc dù yêu Elakamàra, lại phạm tội lỗi với
Chalangakumara và Dhanantevàsì.
Ta cũng biết chuyện mẹ của Brahmadatta đã
bỏ vua Kosala và phạm tội lỗi với Pancàlacanda ra sao.
Các người này cùng nhiều nữ nhân khác đã
theo tà dục, ta không nên đặt lòng tin
vào họ hoặc ca ngợi họ. Ví như quả đất có
khuynh hướng vô tư đối với toàn thế giới,
đem lại tài sản cho mọi loài, cung cấp
mái ấm cho mọi người (tốt cũng như xấu) chịu
đựng tất cả, không hề rung động, không gì
lay chuyển, đối với nữ giới cũng phải
như vậy. Đàn ông không nên tin tưởng họ.
2. Sư tử sống bằng máu thịt tươi,
Dùng năm móng sắc xé con mồi,
Tìm vui trong nỗi đau loài khác
Cẩn thận! Nữ nhân cũng một nòi!
- Này Hiền hữu Punnamukha. Thực vậy, bọn súc sinh này không chỉ là bọn
gái giang hồ, điếm đàng,
đầu đường xó chợ, chúng không lẳng lơ đĩ thỏa
cho bằng sát nhân. Ta muốn nói đến bọ gái đứng đường buôn hương bán phấn này.
Chúng giống như quân cường đạo với cuộn tóc vàng
kết lại, chúng như thuốc độc, như lũ lái buôn
tự khoe mình, quanh co như sừng dê, miệng lưỡi
độc địa như loài rắn, như cái hố có nắp
đậy, tham lam vô tận như địa ngục, khó làm
thỏa mãn như quỷ cái, ngốn ngấu mọi loài như Diêm vương, tàn phá mọi sự như
ngọn lửa, cuốn trôi mọi vật ở trước nó như dòng sông; như cơn gió thổi tới
nơi nào nó muốn, không biết phân biệt gì như
đỉnh núi Neru, kết trái quanh năm như loài cây
độc.
Ở đây lại có thêm một vần kệ nữa:
3. Như độc dược, quân cướp bạo tàn,
Quanh co như gạc của sơn dương,
Mãnh xà hai lưỡi là loại chúng,
Chực sẵn khoe khoang tựa lái buôn.
4. Giết hại như là hố đậy che,
Như mồm địa ngục, thỏa không hề,
Như loài quỷ dữ tham vô độ,
Thần chết mang theo mọi vật kia.
5. Ngốn ngấu khác đâu ngọn lửa nồng,
Mạnh như hồng thủy hoặc cuồng phong,
Như Ne-ru đỉnh màu vàng chói
Thiện ác không hề biết biệt phân.
6. Não hại như cây độc sát nhân,
Chúng luôn tàn phá cả năm phần,
Gia tài sự nghiệp đều tiêu tán,
Phung phí bạc vàng, mọi bảo trân.
*
Chuyện công chúa Kanhà
Truyền thuyết kể rằng thời xưa, vua Brahmadatta ở xứ Kàsi nhờ có quân
hùng tướng mạnh chiếm quốc độ Kosala, giết vua
kia và cướp vị chánh hậu lúc ấy đang có
thai, đưa về Ba-la-nại và phong bà làm vương phi. Về sau bà sinh một
gái, và vì vua này không có con trai hay gái gì cùng huyết thống với mình,
nên vô cùng hoan hỷ và phán:
- Này mỹ hậu, hãy chọn một điều ước trẫm ban
tặng ái khanh.
Bà nhận điều ước nhưng chưa lựa chọn. Bấy
giờ họ đặt tên công chúa là Kanhà.
Vừa khi nàng lớn lên, mẫu hậu bảo:
- Này con yêu quý, phụ vương đã ban
mẹ một điều ước, mẹ đã nhận song còn trì
hoãn sự lựa chọn. Nay con hãy chọn điều gì
con thích.
Do dục tình phát triển quá độ phá tan nỗi e
thẹn của một thiếu nữ, nàng nói với mẹ:
- Con không thiếu thứ gì cả. Xin phụ vương hãy triệu tập một
đại hội để kén phò mã cho con.
Mẫu hậu kể lại chuyện này với vua. Vua phán:
- Hãy cho công chúa thứ gì nàng muốn.
Và vua ban lệnh truyền mở hội kén phò mã. Trong sân chầu, một
đám nam nhi tụ tập phục sức cực kỳ lộng lẫy.
Kanhà cầm một giỏ hoa trong tay, đứng nhìn
từ cánh cửa lầu thượng và không hài lòng về một chàng trai nào cả.
Lúc ấy Ajjuna, Nakula, Bhìmasena, Yudhitthila, Sahadeva, thuộc dòng vua
Pàndu, là năm hoàng tử của vua này, sau
khi học tập đủ các học thuật tại Takkasilà
với một vị giáo sư lừng danh thế giới, đang lãng
du đây đó với ý định tìm hiểu thông suốt
các phong tục địa phương, và vừa
đến Ba-la-nại.
Khi nghe tin loan báo vang dậy khắp kinh thành, và hỏi thăm
để biết chuyện gì đang xảy ra, họ liền
đến đứng cả năm người thành một hàng, trông hình dáng như năm
pho tượng bằng vàng. Thoạt nhìn thấy họ, Kanhà say mê luôn cả năm,
liền ném vòng hoa lên đầu của năm chàng
trai khi họ đứng trước mặt nàng và bảo:
- Tâu mẫu hậu, con xin chọn cả năm chàng.
Hoàng hậu trình việc này với vua. Vì vua đã
ban cho nàng điều ước, nên không thể
nói: "Con không được làm việc này",
nhưng lòng vua vô cùng phiền muộn. Tuy thế, sau khi hỏi nguồn gốc năm
chàng là con ai, và khi biết đó là
con vua Pàndu, vua nghênh tiếp năm chàng
vô cùng trọng thể và gả công chúa làm vợ cả năm
chàng.
Nhờ mãnh lực của dục tình nồng nhiệt, nàng chiếm
được tình yêu của năm
chàng vương tử trong cung điện bảy tầng
của nàng.
Bấy giờ nàng có một kẻ hầu cận vừa gù, vừa què và dù nàng
đã chiếm trọn con tim của năm
vương tử, ngay khi năm chàng đã
ra khỏi cung đình, nàng tìm
được cơ hội và bị lửa dục nung nấu, nên
đã phạm tội lỗi với gã nô lệ lưng gù
kia.
Trong khi trò chuyện với gã, nàng nói:
- Không có ai được ta yêu quý bằng
chàng. Ta sẽ giết năm vương tử này và
lấy máu từ cổ họ xoa vào đôi chân chàng.
Khi nàng bầu bạn với vị thái tử trong năm vị
kia, nàng thường bảo:
- Chàng thân yêu đối với thiếp hơn bốn chàng
kia. Vì chàng, thiếp sẽ hy sinh cả đến tính
mạng mình. Khi phụ vương băng hà,
thiếp sẽ trao quốc độ cho riêng chàng.
Nhưng khi bầu bạn với các chàng kia, nàng cũng làm y hệt như vậy. Các
chàng vô cùng đẹp lòng vì nàng, và suy
nghĩ: "Nàng thương yêu chúng ta và nhờ đó vương
vị này sẽ thuộc về ta".
Một hôm nàng bị bệnh, họ tụ tập quanh nàng, một người xoa
đầu, kẻ xoa tay chân, trong khi gã nô lệ
ngồi dưới chân nàng. Với vị thái tử Ajjuna đang
xoa đầu nàng, nàng lấy đầu ra hiệu ngầm
bảo: "Không ai được thiếp thương yêu hơn chàng. Bao lâu thiếp còn
sống, thiếp sẽ sống vì chàng và khi phụ vương từ trần, thiếp sẽ trao vương
quốc cho chàng", và thế là nàng chiếm trọn tim chàng.
Đới với các người kia, n àng cũng làm dấu bằng tay chân với ý nghĩa
như vậy. Nhưng đối với gã gù lưng, nàng
làm dấu bằng lưỡi với ngụ ý: "Chỉ có chàng là người duy nhất
được ta yêu quý. Ta chỉ sống vì chàng".
Nhờ những điều nàng
đã nói trước kia, tất cả bọn họ
đều hiểu các dấu hiệu này có ý nghĩa gì.
Nhưng trong khi mỗi người nhận ra dấu hiệu dành riêng cho mình, vương tử
Ajjuna vừa thấy các dấu hiệu tay, chân và lưỡi ấy liền suy nghĩ: "Trong
trường hợp ta cũng như với các người khác, chắc phải có
điều gì đó
nàng muốn chứng tỏ bằng dấu hiệu kia, vậy
đối với gã lưng gù này hẳn cũng có một
thân tình nào đây".
Thế rồi vừa đi ra ngoài với các em,
chàng hỏi:
- Các hoàng đệ có thấy công chúa năm chồng này
làm dấu với ta bằng đầu nàng chăng?
- Thưa vâng, có thấy.
- Các em có hiểu ý nghĩa của nó chăng?
- Thưa không.
- Ý nghĩa của nó là như vầy, như vầy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu
bằng tay chân của nàng với các em chăng?
- Thưa vâng, chúng em có biết.
- Nàng cũng làm dấu cho ta như vậy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu
nàng bảo gã lưng gù bằng lưỡi chăng?
- Chúng em không biết.
Chàng liền bảo họ:
- Nàng cũng phạm tội với gã đó.
Vì họ không tin chàng, chàng bảo gã lưng gù
đến và hỏi gã, gã liền kể cho chàng mọi chuyện. Khi họ nghe gã nói,
họ đều mất hết lòng say mê
đối với nàng và bảo nhau:
- Ôi rõ ràng giống đàn bà thật xấu xa
tội lỗi. Vừa rời khỏi các nam nhi như chúng ta vốn quý tộc cao sang và
đầy đủ phúc phận, nàng
đã phạm tà hạnh với một gã lưng gù gớm
ghiếc, đáng ghê tởm như thế này. Ai có
trí tuệ lại ham thích kết duyên với đám nữ nhi
vô sĩ gian tà như vậy?
Sau khi lần lượt phỉ báng nữ nhân như trên, năm
vương tử suy nghĩ: "Chúng ta đã chán chê
đời sống vợ chồng rồi". Các vị lui về ở ẩn tại vùng Tuyết Sơn, và sau
khi đã thành tựu pháp Thiền quán Kasina,
lúc mạng chung, các vị đi theo nghiệp của mình.
Chim chúa Kunàla là vương tử Ajjuna, chính vì lý do ấy, khi nêu ra
điều gì bản thân
đã thấy, chim ấy
đều bắt đầu câu chuyện với lời: "Ta đã
thấy". Khi kể lại những việc khác mà chim ấy đã
thấy thời xưa, chim ấy cũng dùng những lời ấy.
Sau đây là phần giải thích một sự
việc được nêu ra ở chuyện khởi
đầu.
*
Chuyện nữ khổ hạnh Saccatapàvì
Ngày xưa, tương truyền có một nữ khổ hạnh bạch y tên là Saccatapàvì xây
một thảo am ở một nghĩa địa gần Ba-la-nại.
Trong lúc sống ở đây, nàng nhịn luôn bốn bữa
ăn trong số năm bữa, khắp kinh thành,
danh vọng nàng sáng chói gần xa chẳng khác nào
đôi vầng nhật nguyệt. Dân chúng thành Ba-la-nại nếu có hắt hơi hay
vấp ngã đều bảo: "Cầu phúc cho Saccatapàvì!"
Bấy giờ vào ngày đầu một lễ hội, một số thợ
vàng dựng lều tại một nơi dân chúng tụ tập, và
đem theo cá thịt rượu mạnh, dầu thơm, tràng
hoa, v.v. rồi bắt đầu tiệc rượu say sưa.
Lúc ấy một gã thợ rèn nghiện rượu đang lúc
nôn tháo, đã kêu lên "Cầu phúc cho Saccatapàvì!"
Có người khôn ngoan trong bọn họ bảo:
- Ôi thật là điên rồ mù quáng, chú
đang tôn trọng một nữ nhân tính khí thay đổi
bất thường. Chú thật là đồ điên!
Gã đáp:
- Này bạn, đừng nói vậy, nếu không sẽ phạm
tội đọa vào địa ngục đấy.
Người khôn ngoan liền bảo:
- Đồ điên, hãy câm mồm lại. Hãy
đánh cuộc với ta một ngàn
đồng vàng, trong bảy ngày kể từ nay, cứ
ngồi tại chính nơi đây, ta sẽ giao tận tay chú
nàng Saccatapàvì phục sức diễm lệ cùng liên hoan rượu mạnh và ta cũng
sẽ say sưa đánh chén với nàng. Bọn nữ
nhi đều tính tình bất
định như thế.
Gã kia đáp:
- Bạn không thể có khả năng làm việc
ấy đâu.
Và gã đánh cuộc một ngàn
đồng vàng.
Thế rồi thông báo với đám thợ vàng
kia xong, sáng sớm hôm sau chàng trai giả dạng một vị khổ hạnh tiến vào
nghĩa địa, không xa nơi nàng cư ngụ và
đứng chiêm bái mặt trời. Nàng thấy chàng
lúc bắt đầu đi khất thực, và suy nghĩ:
"Chắc chắn đây là một vị khổ hạnh có
thần thông. Ta ở một bên nghĩa địa, còn
Ngài ở ngay chính giữa: tâm Ngài chắc hẳn thuần tịnh như bậc Thánh. Ta muốn
tỏ lòng ngưỡng mộ Ngài".
Thế là nàng đến gần chàng
đảnh lễ, nhưng chàng không nhìn cũng
không nói gì. Ngày hôm sau chàng cũng cứ làm vậy. Nhưng qua ngày thứ ba, khi
nàng đảnh lễ, chàng nhìn xuống và bảo:
- Hãy đi ngay.
Qua ngày thứ tư, chàng ân cần nói với nàng:
- Nàng đi khất thực có mệt nhọc chăng?
Nàng nghĩ thầm: "Ta đã
được chào hỏi ân cần rồi" và hoan hỷ ra
đi.
Ngày thứ năm nàng lại nhận
được một lời chào hỏi ân cần hơn và sau
khi ngồi nghỉ chốc lát, nàng đảnh lễ chàng
và ra đi.
Nhưng vào ngày thứ sáu, nàng lại đến đảnh lễ
chàng khi chàng ngồi đó. Chàng
nói:
- Này hiền muội, có tiếng gì ồn ào ca nhạc vang lừng ở Ba-la-nại hôm nay
thế?
Nàng đáp:
- Bạch Thánh giả, Ngài không biết có mở lễ hội trong thành và
đây là tiếng những người
đang liên hoan tại
đó ư?
Giả vờ không biết, chàng bảo:
- Phải, chắc đây là tiếng ồn ta nghe
được.
Rồi chàng lại hỏi:
- Này hiền muội, nàng nhịn ăn bao nhiêu
bữa?
- Bạch Thánh giả, bốn. Còn Thánh giả nhịn bao nhiêu bữa? Nàng hỏi.
- Này hiền muội, bảy.
Nhưng đó là chàng nói dối, vì chàng
thường ăn suốt ngày
đêm. Rồi chàng lại hỏi:
- Nàng đã thọ giới bao nhiêu năm?
Nàng nói:
- Mười hai năm, thế Thánh giả xuất gia bao
lâu?
- Đây là năm
thứ sáu - Chàng đáp.
Rồi chàng lại hỏi:
- Này hiền muội, nàng đã
đạt đến thanh tịnh của bậc Thánh chưa?
- Bạch Thánh giả, chưa, còn Thánh giả?
- Chúng ta đều chưa đạt cả - Chàng
đáp.
- Này hiền muội, chúng ta không hưởng thọ dục lạc cũng không thành tựu
viễn ly lạc. Vậy thì địa ngục nóng bỏng có
nghĩa gì với ta chứ? Chúng ta hãy theo con
đường của đại chúng đi: ta sẽ trở thành
gia chủ và vì ta có sẵn tài sản của mẹ ta, ta sẽ chẳng thiệt hại gì cả.
Khi nghe chàng nói và do thiếu tịnh tín bất
động, nàng đem lòng say mê chàng,
liền nói:
- Thưa ngài, tiện nữ cũng thấy tâm bất mãn, nếu ngài không từ chối, thiếp
xin theo về ở nhà cùng chàng.
Chàng đáp ngay:
- Ta không từ chối nàng đâu, nàng sẽ
là vợ ta.
Sau đó chàng
đưa nàng về thành và sống chung với
nàng. Khi cùng nàng đến tửu quán, chính chàng
uống rượu mạnh và giao nàng vào tay đám bạn để
chè chén say sưa tồi tệ hơn nữa. Vì thế gã trai kia thua cuộc mất một
ngàn tiền vàng, còn nàng được chàng thợ
vàng này ban cho vô số con trai con gái. Thời ấy chim Kunàla là người thợ
vàng và khi kể chuyện này, chim bắt đầu bằng
những lời: "Ta biết".
Chuyện thứ hai là một cổ tích được kể đầy đủ
trong Tiền Thân Kàkati (số 327, chương IV, tập III). Vào thời ấy,
Kunàla là chim Garuda (Kim sí điểu), và
vì lý do này, khi chứng minh điều gì
thấy tận mắt, chim ấy bắt đầu bằng lời: "Ta
biết".
*
Chuyện công chúa Kurangavi
Trong chuyện thứ ba, một thuở nọ, vua Brahmadatta giết vua Kosala và
chiếm quốc độ. Cướp mất hoàng hậu
đang có thai, vua trở về Ba-la-nại, và
dù biết rõ tình trạng của bà, vua vẫn phong bà làm hoàng hậu.
Đến kỳ khai hoa nở phụng, bà sinh một
hoàng nam giống như một bức tượng vàng ròng.
Bà suy nghĩ: "Khi con ta lớn lên, vua Ba-la-nại sẽ bảo: "Nó là con trai
của kẻ thù ta. Nó có nghĩa gì với ta đâu? Và
sẽ giết nó. Nhưng không, ta không thể để con ta
chết vì tay kẻ thù". Vì thế bà bảo nhũ mẫu:
- Này chị, hãy lấy vải thô quấn hài nhi này và
đi quẳng vào nhà xác.
Nhũ mẫu làm theo lời bà, và sau khi tắm rửa xong, liền về nhà.
Còn vua Kosala, sau khi từ trần, tái sinh làm vị thần hộ mạng hài nhi ấy,
và do thần lực xui khiến, một con dê cái của một mục tử
đang nuôi đàn dê ở vùng này, thấy
đứa bé liền đem lòng thương yêu, cho nó
bú sữa xong, đi quanh quẩn một lát rồi trở về
hai, ba hoặc cả bốn lần để cho nó bú.
Người chăn dê thấy con dê
đi quanh đó, liền đến nơi, thấy đứa bé cũng đem
lòng thương yêu và ẫm nó về cho vợ. Bấy giờ bà vợ không có con nên
không có sữa cho nó bú. Vì thế con dê cái tiếp tục cho nó bú.
Từ hôm ấy, cứ mỗi ngày đều có hai ba con dê
chết. Người chăn dê suy nghĩ: "Nếu
đứa bé này
được ta tiếp tục chăm sóc thì tất cả đàn
dê đều chết. Nó có nghĩa gì với ta chứ?"
Sau đó y đặt nó vào một nồi
đất, đậy lên một cái nắp và xoa lên mặt
nó đầy bột đậu không thừa một kẽ hở nào,
rồi thả nó xuống sông.
Đứa bé do d òng nước cuốn trôi đến bờ
thấp gần cung vua thì được một kẻ vá đồ
cũ hạ đẳng trông thấy khi đang đứng rửa mặt với vợ. Y vội vàng
chạy đến kéo cái nồi ra khỏi nước và
đặt trên bờ. Y suy nghĩ: "Ta lấy
được cái gì
đây?". Vừa mở nồi ra, y vội thấy đứa bé. Vợ y cũng không có con nên
sinh lòng thương yêu nó. Vì thế bà đem nó về nhà
săn sóc.
Khi đứa bé lên bảy tám tuổi, cha mẹ
nó thường đem nó theo mỗi khi đến cung vua. Lúc
được mười sáu tuổi, chàng trai thường
đến cung vua để vá đồ cũ. Vua và hoàng hậu có một công chúa tên
Kurangavì là một cô gái nhan sắc phi thường. Từ lúc nàng trông thấy chàng
trai, nàng đem ra luyến ái chàng và
không còn để ý đến ai nữa, nàng thường
đi đến nơi chàng làm việc. Do thường
xuyên gặp gỡ nhau, họ say mê lẫn nhau và lén lút phạm tà hạnh trong ngự
viên. Dần dần bọn thị tỳ tâu lên vua cha chuyện ấy.
Vua nổi trận lôi đình triệu tập các
cận thần lại phán:
- Tên hạ đẳng này
đã phạm các tội như vầy như vầy. Các
khanh xem phải làm gì để trị nó đi.
Các cận thần tâu:
- Tội nó nặng lắm, sau khi buộc nó chịu mọi hình phạt, ta phải xử tử nó.
Thuở ấy, cha của chàng trai là vua Kosala đã
trở thành vị thần hộ mạng của chàng, liền nhập vào thân mẹ chàng, nên nhờ
thần lực ấy, bà đến gần vua và thưa:
- Tâu Đại vương, chàng trai này không
phải là kẻ hạ đẳng đâu. Nó là con trai
thiếp sinh ra với vua Kosala. Thiếp đã
nói dối Đại vương khi bảo rằng con thiếp đã
chết. Vì biết rằng nó là con trai của kẻ thù
Đại vương, nên thiếp đã sai một
nhũ mẫu đem nó bỏ vào nhà xác. Sau
đó một người chăn dê chăm
sóc nó, nhưng khi cả bầy dê bắt đầu
chết, y đã thả nó xuống sông và do dòng nước cuốn
đến đây, nó được kẻ hạ đẳng vá đồ cũ trong cung
này tìm thấy và nuôi nấng. Nếu Đại vương
không tin thiếp, xin cứ gọi những kẻ này vào và hỏi họ.
Vua triệu đám người ấy vào, bắt
đầu với nhũ mẫu; khi chất vấn, biết rõ
các sự kiện do bà kể, vua rất hân hoan thấy chàng trai thuộc dòng quý tộc,
liền ra lệnh cho chàng đi tắm rửa, trang điểm
thật lộng lẫy và gả công chúa cho chàng. Thuở ấy, do việc chàng
đã gây ra cái chết của
đàn dê, chàng
được đặt tên Elakamàra (Bả thuốc giết
dê).
Sau đó, vua giao cho chàng xe cộ, một
đạo quân và bảo chàng lên
đường:
- Hãy đi làm chủ quốc
độ của phụ vương con ngày trước.
Vì thế chàng ra đi cùng với Kurangavì
và được tôn lên ngôi báu. Lúc ấy vua
Ba-la-nại suy nghĩ: "Con ta chẳng được học hành
gì cả", nên truyền Chalangakumara đến làm
thầy dạy chàng các môn học thuật. Khi nhận vị này làm sư trưởng, chàng lại
phong ông chức đại tướng. Dần dà,
Kurangavì thông gian với ông. Vị đại tướng có
một quan hầu cận tên Dhanantevàsì và ông nhờ kẻ ấy trao các món y
phục cùng nữ trang khác cho Kurangavì, nàng cũng thông gian với kẻ ấy. Bọn
ác nhân thật là hư hỏng vô đạo như vậy nên
ta không thể tán dương họ. Bậc Đại Sĩ dạy điều
này khi ngài kể một chuyện quá khứ, vì thuở ấy ngài là
Chalangakumàra, do đó sự kiện ngài kể là
một việc chính mắt ngài thấy.
*
Chuyện vương hậu Kosala.
Trong chuyện thứ năm này có một thời
vua Kosala chiếm quốc độ Ba-la-nại và
phong bà chánh hậu đang có thai của vua ấy lên
ngôi chánh cung rồi trở về kinh đô của mình.
Về sau, bà sinh ra một vương tử. Vì không có con riêng của mình, vua rất yêu
quý hài nhi và truyền dạy bảo chàng mọi môn học thuật.
Khi chàng trưởng thành, vua cha truyền chàng
đi làm chủ quốc độ thuộc quyền cha chàng
thuở trước. Chàng ra đi ngự trị xứ ấy.
Sau đó mẫu hậu chàng bảo bà nhớ con
trai liền xin phép vua Kosala khởi hành đến
Ba-la-nại cùng một đoàn hộ tống
đông đúc và trú chân ở một thị trấn giữa
hai nước. Tại đây có một thanh niên
Bà-la-môn tuấn tú tên gọi Pañcàlacanda đem dâng
hoàng hậu một tặng vật. Vừa thấy kẻ ấy, bà liền say mê và phạm tà dục
với y.
Sau khi ở lại đó vài ngày, bà
đến Ba-la-nại thăm hoàng tử. Lúc trở về,
bà lại trú chân ở tại thị trấn nọ và sau nhiều ngày thông gian với tình
nhân, bà trở về thành Kosala. Chẳng bao lâu sau, bà lấy cớ này cớ nọ
để đi thăm con, bà xin phép vua và
đến ở nửa tháng trong thị trấn kia để thông
gian với tình nhân. Bọn nữ nhi đầy tội
lỗi và giả dối như vậy đó.
Trong khi kể chuyện quá khứ này, ngài bắt
đầu với những lời: "Chuyện này cũng có ý nghĩa ấy."
Về sau với nhiều cách biểu lộ sự khéo léo trong khi thuyết Pháp, ngài
nói:
- Này hiền hữu Punnamukha, có bốn thứ tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh; ta
bảo bốn thứ này không được đặt vào nhà
láng giềng, đó là: bò
đực, bò cái, cỗ xe và vợ. Một người có
trí phải tránh xa việc này ra khỏi nhà mình:
7- 8. Chớ cho hàng xóm mượn bò xe,
Chớ gửi vợ ta đến bạn bè,
Bò đực chết vì làm quá
độ,
Phá xe vì chúng thiếu tay nghề,
Sữa bò cái vắt cho khô cạn,
Vợ đến bà con hỏng thói lề!
Này hiền hữu Punnamukha, có sáu điều tỏ ra
tai hại khi gặp hoàn cảnh: một cái cung thiếu dây, một cô vợ ở
gia đình bà con, một chiếc thuyền (không
lái), một chiếc xe gãy trục, một bạn thân vắng mặt, một bạn
đường độc ác, đôi khi thật tai hại.
Này hiền hữu Punnamukha, thật vậy, có tám duyên cớ khiến
đàn bà khinh bỉ chồng:
đó là do nghèo khó bệnh tật, già cả,
nghiện rượu, ngu đần, phóng túng, bôn ba đủ mọi
thứ việc, xao lãng bổn phận đối với vợ.
Thật vậy, đàn bà khinh bỉ chồng mình vì tám duyên cớ ấy.
Ở đây lại thêm vần kệ này:
9. Bệnh, nghèo, già, nghiện rượu, buông lung,
Việc quá bôn ba, hoặc độn đần,
Hoặc thấy chồng không lo bổn phận,
Vợ thường chẳng trọng đấng phu quân.
Thật vậy, do chín nguyên nhân này, một nữ nhân phạm lỗi lầm: giả sử nàng
thích lui tới các công viên, vườn hoa, bờ sông, thích thăm
viếng nhà bà con hoặc người xa lạ, ham mê trang
điểm y phục của hạng quý phái, hoặc nàng
nghiện rượu mạnh, ưa nhìn quanh quẩn bên mình, hoặc
đứng tựa cửa, thì này ta bảo, do chín
duyên cớ này, một nữ nhân phạm lỗi lầm.
Ở đây lại thêm vần kệ này:
10. Đàn bà ưa mặc áo quần sang,
Nghiện rượu, rong chơi, dạ vẫn ham
Vườn cảnh, công viên, trên bến nước,
Đến nhà người lạ hoặc thân bằng.
Nàng thường đến đứng bên khung cửa,
Lơ đãng nhìn quanh quẩn mặt
đàng,
Theo chín cách này hư hỏng sớm,
Lạc xa đường đức hạnh hiền lương.
Thật vậy, này hiền hữu Punnamukha, nữ nhân làm xiêu lòng nam nhi bằng bốn
mươi cách khác nhau: Nàng uốn người lên, nàng cong người xuống, nàng nhảy
tung tăng, nàng làm vẻ e thẹn, nàng bóp
chặt các đầu ngón tay, nàng
đặt chân này lên chân kia, nàng lấy que
cào mặt đất, nàng tung chàng trai lên
rồi hạ xuống, nàng nô đùa và khiến chàng
trai nô đùa, nàng hôn chàng và bảo chàng
hôn nàng, nàng ăn và cho chàng
ăn, nàng trao tặng hoặc cầu xin vật gì
đó, nàng nhại lại những gì chàng làm,
nàng nói với giọng lúc bổng lúc trầm, nàng cất tiếng khi rõ ràng khi khó
hiểu, nàng lôi cuốn chàng bằng múa ca đàn
địch, bằng những giọt nước mắt hay cách làm
dáng, hoặc với áo quần lộng lẫy, nàng cười cợt hay trừng mắt, nàng rủ áo hay
vén xiêm, khoe đùi ra hoặc che
đùi lại, nàng khoe ngực khoe nách, khoe
rốn, nàng nhắm mắt, nàng nhướng mày, nàng mím môi, nàng lè lưỡi, nàng thả
lỏng hay kéo sát xiêm y, nàng buông lơi hay quấn chặt khăn
trùm đầu. Quả thật nàng lôi cuốn
nam nhi bằng bốn mươi cách này.
Thật vậy này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư
đốn được biết rõ qua hai mươi lăm
cách khác nhau: nàng ca ngợi việc chồng nàng vắng mặt, nàng chẳng
thích chồng trở về, nàng chê bai chồng, nàng không lên tiếng khen chồng,
nàng làm thương tổn chồng, và không làm lợi ích chồng, nàng làm những việc
có hại cho chồng chứ không muốn làm gì giúp đỡ
chồng, nàng mặc cả xiêm y lúc đi ngủ và
nằm ngoảnh mặt làm ngơ chồng, nàng lăn lóc qua
lại, gây chuyện ầm ĩ, thở dài sườn sượt, kêu
đau nhức mình mẩy, thường hay
đi tiểu tiện, xử sự mất nết, hễ nghe tiếng
người lạ, nàng chổng tai chăm chú, nàng
phung phí tài sản của chồng, nàng giao du thân mật với bạn hàng xóm, nàng
hay đi lang thang ra ngoài, thơ thẩn dạo
phố, nàng phạm tội ngoại tình, vì khinh bỉ chồng, nàng có nhiều tư tưởng xấu
xa trong lòng.
Quả thật, này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư hỏng
được biết qua hai mươi lăm cách này.
Và đây lại thêm các vần kệ cảm thán:
11. Đồng tình sự vắng mặt phu quân
Chàng bước ra đi, chẳng não lòng,
Dạ chẳng vui mừng chàng trở lại,
Chẳng bao giờ tán thán công chồng,
Đây là dấu hiệu nêu cho rõ
Lề thói thông thường ác nữ nhân.
12. Bất tuân, tính kế hại phu quân,
Làm việc không nên, bỏ lợi chồng.
Mặt ngoảnh đi, nàng nằm xuống ngủ
Bên chàng, xiêm áo phủ hoàn toàn,
Đây là dấu hiệu nàng hư
đốn
Chắc chắn lộ ra thật rõ ràng.
13. Trằn trọc, chẳng nằm một lát yên,
Thở dài sườn sượt, lại kêu rên,
Hoặc nàng cứ giả vờ đau bụng,
Như muốn tiểu, nàng vẫn đứng lên,
Các dấu hiệu này người thấy rõ
Tính tình của phụ nữ hư hèn.
14. Độc ác trong hành
động của nàng,
Nàng làm những việc phải can ngăn,
Nghe lời người lạ cầu ân huệ,
Tài sản chồng, nàng thật phí hoang
Để được ngoại tình, là dấu hiệu
Mọi người thấy rõ tính tà gian.
15. Bạc vàng góp nhặt bởi công chồng,
Đồ đạc chất đầy thật khổ thân,
Nàng phí phạm nhanh, cùng lối xóm
Nàng thân mật quá độ dần dần,
Chính nhờ dấu hiệu này ta biết
Tính nết gian tà của nữ nhân.
16. Hãy ngắm nàng đi dạo phố phường,
Phủ phàng đối xử với phu quân
Khinh khi thô lỗ nhất trần thế,
Chẳng ngớt ngoại tình, loạn trí tâm.
Nhờ dấu hiệu này, ta thấy rõ
Bọn hồng quần quả thật tà gian.
17. Nàng vẫn đứng ngay trước cửa nàng
Coi thường mọi phép tắc đoan trang,
Khoe thân trơ trẽn cho hành khách,
Buồn bực nhìn quanh quẩn mọi phương,
Các dấu hiệu này cho thấy rõ
Thói tà gian của bọn hồng quần.
18. Như rừng cây được gỗ làm thành,
Như các dòng sông chảy uốn quanh,
Vậy cứ tạo thời cơ thuận tiện,
Nữ nhân đều lạc lối vô minh.
19. Tạo nơi kín đáo, hợp thời cơ,
Con đường đức hạnh phải rời xa,
Nữ nhân tất cả đều hư đốn
Nếu có chốn nơi, lại đúng giờ
Ví các tình nhân kia chẳng đến,
Chúng liền phạm tội với tên gù.
20. Đàn bà phục vụ thú
đàn ông,
Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
Lòng dạ chúng thường thay đổi mãi,
Dục tham chúng lại cứ buông lung.
Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
Chúng vẫn giống như là bến tắm
Thường chung chạ với mọi nam nhân.
Hơn nữa, Ngài lại kể:
*
Chuyện vương hậu Kinnarà
Ngày xưa tại Ba-la-nại, có vị vua tên là Kandan rất khôi ngô tuấn tú,
hằng ngày các cận thần đem đến dâng một ngàn
hộp nước hoa. Với nước hoa này, họ làm cho cung
điện thật cao sang thanh lịch. Sau đó họ chẻ các hộp ấy nhóm lửa thơm ngát và
nấu thức ăn với lửa ấy.
Bấy giờ vương hậu là một nữ nhân diễm lệ có tên Kinnarà và vị tế sư của
vua là Pañncalacanda, cùng tuổi với vua và rất thông tuệ. Phía trong bức
tường cạnh cung vua có một cây hồng đào,
cành lá sà xuống tận bức tường và một tên què dị dạng gớm ghiếc sống ở dưới
bóng cây ấy.
Một hôm vương hậu Kinnarà nhìn ra cửa sổ thấy gã, liền
đem lòng say mê gã. Ban
đêm, sau khi
đã chiếm
được sự sủng ái của vua nhờ các tài quyến rũ của bà, vừa khi vua ngủ
say, và thường rón rén đứng dậy sắp đặt mọi thứ
cao lương mỹ vị vào một cái bát bằng vàng và
đeo nó bên hông, bà hoàng
đu mình qua cửa sổ nhờ một sợi dây vải,
trèo lên cây hồng đào và buông mình
xuống bằng một nhánh cây, bà đưa cao lương mỹ
vị cho gã què ăn rồi giao hoan với gã,
xong bà lại trèo lên cung điện theo cách bà
đã đi
xuống. Sau khi tắm gội toàn thân bằng nước hương, bà liền nằm xuống
bên cạnh vua.
Theo cách này, bà thường xuyên phạm tà hạnh với gã què và vua không biết
tý gì cả.
Một ngày kia, sau một lễ hội oai nghi diễu quanh kinh thành, vua
đi vào cung chợt thấy tên què kia, một
sinh vật đáng thương đang nằm dưới bóng cây
hồng đào, và vua bảo vị tế sư:
- Khanh hãy nhìn con ma trên đất này.
- Tâu Đại vương, truyền việc gì chăng?
- Này hiền hữu, có thể nào một nữ nhân bị dục tình kích
động lại muốn đến gần một sinh vật đáng ghê
tởm như thế này chăng?
Nghe lời vua phán, gã què tràn đầy kiêu
mạn suy nghĩ: "Vua này nói gì thế? Có lẽ vua không biết tý nào về việc hoàng
hậu đến thăm ta". Rồi chắp hai tay về phía cây
hồng đào, gã la to:
- Tâu vị thần hộ mạng cây này, trừ ngài ra, không ai biết chuyện ấy cả.
Vị tế sư thấy hành vi của gã, nghĩ thầm: "Chắc chắn chánh hậu của vua nhờ
cây này giúp đi xuống phạm tà hạnh với
gã".
Vì thế vị ấy tâu với vua:
- Tâu Đại vương, ban đêm
Đại vương tiếp xúc với thân thể chánh hậu thì
thấy như thế nào?
- Ta không nhận thấy gì cả - Vua đáp - Song
vào canh giữa thân thể bà lạnh lắm.
- Thế thì tâu Đại vương, dù trường
hợp các nữ nhân khác ra sao đi nữa, chánh hậu
Kinnarà cũng đã thông gian với gã
kia.
- Hiền hữu nói gì thế này? Lẽ nào một nữ nhân diễm lệ thế kia lại hành
lạc cùng với con vật gớm ghiếc này ư?
- Vậy thì tâu Đại vương, ta thử tìm
chứng cớ chuyện này.
- Trẫm chấp thuận - Nhà vua bảo.
Và sau buổi cơm tối, vua nằm xuống cạnh bà
để thử việc kia. Vào giờ ngủ như thường lệ, vua giả vờ ngủ say và bà
cũng hành động như trước. Vua muốn theo dõi
bước chân bà, liền đứng nấp trong bóng cây hồng
đào. Tên què đang giận dữ với bà
hoàng và bảo:
- Tối nay nàng đến chậm quá.
Rồi gã lấy tay đánh vào chiếc vòng
tai của bà, vì thế bà đáp:
- Xin lang quân chớ giận. Thiếp phải chờ nhà vua ngủ say
đã chứ.
Nói vậy xong, bà làm mọi việc như thể đóng
vai một người vợ trong nhà gã què. Nhưng khi gã
đánh bà, chiếc vòng tai có hình
đầu sư tử, rời khỏi tai bà rớt xuống
chân vua. Nhà vua nghĩ thầm: "Chính cái này sẽ là vật tuyệt diệu cho ta".
Rồi vua lượm chiếc vòng dấu đi.
Sau khi phạm tà dục với tình nhân, bà trở về như trước và
đi vào nằm cạnh vua. Nhà vua khước từ
mọi điệu bộ gợi tình của bà và ngày hôm
sau, vua truyền lệnh:
- Hoàng hậu Kinarà phải đến chầu và
mang theo mọi món trang sức trẫm đã ban.
Bà đáp:
- Món nữ trang có hình đầu sư tử của ta đang
để ở tiệm vàng.
Và bà từ chối đi diện kiến.
Khi lệnh vua ban ra lần thứ hai, bà đến với
một chiếc hoa tai độc nhất.
Nhà vua hỏi:
- Hoa tai kia của khanh đâu?
- Ở tiệm vàng.
Vua truyền người thợ vàng đến, phán:
- Tại sao ngươi không để hoàng hậu
đeo hoa tai?
- Tâu Đại vương, hạ thần không giữ hoa tai
ấy.
Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, bảo:
- Này con tiện tỳ hư đốn kia, gã thợ
vàng của ngươi chắc hẳn là một người giống như ta.
Nói vậy xong, vua ném chiếc hoa tai ấy xuống trước mặt bà và bảo vị tế
sư:
- Này hiền hữu, khanh đã nói
đúng, hãy
đi bảo chém đầu nó ngay.
Vị ấy liền đem bà giấu ở một nơi an
toàn trong cung, và đến tâu trình vua:
- Tâu Đại vương, xin chớ giận hoàng
hậu Kinnarà, mọi nữ nhân đều như vậy cả. Nếu
Đại vương muốn thấy bọn nữ nhân vô đạo ra sao, hạ thần sẽ chỉ cho Đại vương
thấy tính gian tà và lừa dối của chúng. Thôi, ta hãy cải trang và vi
hành xuống thôn quê.
Nhà vua sẵn sàng chấp thuận, giao vương quốc cho mẫu hậu rồi lên
đường ngao du với vị tế sư.
Khi hai vị đã
đi một dặm đường và ngồi bên
đường cái, thì một phú gia nọ
đang mở hội đám rước dâu cho con trai, đã
đặt cô dâu ngồi vào một cỗ xe
đóng kín và hộ tống nàng với một
đoàn tùy tùng rầm rộ. Khi thấy
đám này, vị tế sư nói:
- Nếu Đại vương muốn, ngài có thể làm
cho cô gái này thông gian với ngài.
- Này hiền hữu, khanh nói gì thế? Với cả đoàn
tùy tùng rầm rộ này, làm sao có chuyện ấy được?
- Vậy thì xin Đại vương hãy nhìn
đây.
Rồi tiến lên phía trước, ông dựng lên một bức màn giống như một túp lều
không xa đường cái, để vua ở trong màn,
còn chính ông ngồi bên đường khóc lóc. Lúc ấy
vị phú ông thấy vậy liền hỏi:
- Tại sao hiền hữu khóc?
Ông đáp:
- Tiện nội đang thai nghén nặng nề nên
tiểu đệ lên
đường đưa nàng về nhà mẹ, đang lúc đi
đường nàng lên cơn đau đớn khổ sở trong
bức màn kia, và nàng lại không có người phụ nữ nào ở bên nàng, còn
tiểu đệ thì không thể vào
đó với nàng
được. Tiểu đệ không biết việc sẽ ra sao nữa.
- Nàng phải có một người đàn bà ở
bên cạnh. Thôi đừng khóc nữa. Ở đây có
nhiều đàn bà lắm. Một người trong bọn sẽ
đến với nàng.
- Vậy thì xin để tiểu thư này vào.
Đây sẽ là
điềm lành cho tiểu thư.
Phú ông nghĩ thầm: "Người kia nói đúng đấy.
Đây sẽ là việc lành cho con dâu ta. Nó sẽ
được phước sinh ra vô số con trai con gái". Rồi
ông đưa nàng vào trong đó.
Vừa bước vào màn, thoạt trông thấy vua, nàng
đã say mê và phạm tà hạnh với vua, rồi vua tặng nàng một chiếc nhẫn
có dấu hiệu riêng của mình.
Khi việc ấy đã xong và nàng bước ra
khỏi liều, chúng bạn hỏi:
- Bà ấy sinh con gì thế?
- Một cậu trai sắc vàng óng!
Thế rồi vị phú ông đem nàng
đi mất. Vị tế sư đến gặp nhà vua và nói:
- Tâu Đại vương, ngài vừa thấy ngay
cả một thiếu nữ cũng đã hư hỏng như vậy.
Còn nói gì các nữ nhân khác càng hư hỏng đến
đâu? Xin Đại vương cho biết ngài có ban nàng vật gì không?
- Có ta ban nàng chiếc nhẫn có tín hiệu riêng của ta.
- Hạ thần quyết không cho nàng giữ vật ấy
đâu.
Ông liền vội vã chạy theo bắt kịp chiếc xe và khi bọn họ hỏi:
- Thế này là nghĩa lý gì?
Ông đáp:
- Cô tiểu thư này ra đi với chiếc nhẫn mà
tiện nội Bà-la-môn đặt trên gối của
nàng, vậy tiểu thư hãy trả chiếc nhẫn lại đi.
Khi trao nhẫn lại, nàng cào tay vị Bà-la-môn và nói:
- Hãy cầm lấy, quân đểu giả!
Như vậy vị Bà-la-môn này dùng đủ mọi cách nêu
cho vua thấy nhiều nữ nhân khác cũng phạm tà dâm rồi nói:
- Tâu Đại vương, thế này là
đủ rồi. Chúng ta sẽ đi nơi khác thôi.
Vua đi khắp cõi Diêm-phù-đề
(Ấn Độ) và hai vị bảo nhau:
- Tất cả nữ nhân đều giống hệt nhau. Chúng
có nghĩa gì với ta đâu? Thôi ta hãy
quay về đi.
Thế rồi hai vị đi thẳng về nhà ở
Bà-la-nại. Vị tế sư nói:
- Tâu Đại vương, mọi nữ nhân đều như thế cả;
bản chất của chúng đều gian tà. Xin ngài tha tội cho chánh hậu
Kinnarà.
Thể theo lời khẩn cầu của vị tế sư, vua tha tội cho bà, song truyền
đuổi bà ra khỏi cung. Khi vua
đã tống bà ra khỏi cung rồi, vua chọn
một vương hậu khác và truyền lệnh đuổi luôn tên
què cùng chặt nhánh cây hồng đào bỏ
đi.
Vào thời ấy chúa chim Kunàla là Pañcàlacanda. Vì thế khi kể lại chuyện
ngài đã chứng kiến tận mắt, ngài ngâm kệ
để chứng minh:
21. Từ chuyện Kin-na, Kan-da vương
Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
Nữ nhân tất cả đều không thấy
Thích thú trong nhà chúng trú an;
Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
Vẫn thường đi với đàn ông khác,
Ngay với gã què cũng lạc đường.
*
Chuyện vương hậu Pañcapàpà
Đây l à một chuyện khác nữa: Ngày xưa vị vua Bà-la-nại mệnh danh là
Baka cai trị vương quốc đúng chánh pháp. Thời
ấy một người đàn ông nghèo khổ sống ở
Đông môn thành Ba-la-nại sinh được một
gái đặt tên là Pañcapàpà. Chuyện kể rằng trong một
đời quá khứ nàng làm con gái nhà nghèo
nhào trộn đất sét để đắp tường. Lúc ấy một vị
Độc Giác Phật suy nghĩ: "Ta phải tìm đất
sét ở đâu để đắp hang núi này cho sạch sẽ gọn gàng? Có thể ta tìm
được ở Ba-la-nại".
Vị ấy liền đắp y, cầm bình bát trong
tay đi vào kinh thành và
đứng không xa nữ nhân này. Nàng tức giận
nhìn vị ấy, nghĩ thầm: "Trong tâm địa xấu xa
của y chắc đang cầu xin cả đất sét lẫn thức ăn". Vị Độc Giác Phật vẫn đứng
bất động. Vì thế khi nàng thấy vị ấy
đứng yên, nàng hồi tâm, nhìn vị ấy một lần nữa và nói:
- Bạnh Tôn giả, ngài chưa có đất sét.
Rồi nàng lấy một cục đất lớn đặt vào
bình bát và với cục đất sét này, vị ấy
làm cho một vật trong hang được gọn gàng.
Và phần thưởng dành cho cục đất sét ấy là
thân thể nàng trở nên êm dịu lúc tiếp xúc, nhưng hậu quả của nét mặt giận dữ
kia là tay chân, mồm, mắt, mũi nàng trở nên xấu xí dị dạng, vì thế quần
chúng biết nàng qua biệt hiệu Pañcapapà (Ngũ ác tật).
Bấy giờ vua Ba-la-nại có dịp du hành quanh kinh thành ban
đêm và khi
đi đến chốn này, nàng đang nô đùa
với các thôn nữ khác, và vì không biết đó là
vua, nàng nắm lấy tay vua. Kết quả việc xúc chạm với nàng là vua mất hết tự
chủ và như thể bị rúng động vì xúc chạm
với thần tiên, lòng rạo rực dục tình, vua nắm lấy tay nàng mặc dù nàng trông
thật xấu xí dị dạng, và hỏi nàng là con gái nhà ai. Nàng
đáp:
- Con gái một người cư ngụ bên cổng thành.
Và nghe nàng chưa có chồng, vua bảo:
- Ta sẽ là chồng nàng. Hãy đi xin phép cha
mẹ chấp thuận.
Nàng đến gặp cha mẹ và nói:
- Có một anh chàng muốn cưới con làm vợ.
Khi cha mẹ đồng ý và bảo:
- Chắc người kia cũng nghèo khó tội nghiệp lắm mới muốn cưới cô gái như
con.
Nàng đến báo tin cho nhà vua biết cha
mẹ nàng đã bằng lòng.
Thế rồi vua ở chung với nàng ngay trong chính nhà ấy, và tảng sáng hôm
sau lại tìm về cung. Tứ hôm ấy, vua thường cải trang
đến đó và không còn quan tâm nhiều
đến bất cứ nữ nhân nào khác.
Bấy giờ một hôm cha nàng mắc bệnh lên máu. Liều thuốc chữa bệnh cho là
thường xuyên cung cấp cháo nấu với sữa, lạc, mật ong và
đường. Song vì nhà nghèo, họ không thể
kiếm đâu ra món ấy. Sau đó bà mẹ bảo con
gái:
- Này con, chồng con có thể kiếm cho ta một ít cháo này chăng?
Nàng đáp:
- Mẹ ơi, chồng con chắc còn nghèo hơn ta nữa, song dù vậy, con cũng sẽ
hỏi chàng, mẹ đừng lo gì.
Nói thế xong, vào lúc vua trở về, nàng ngồi xuống như thể
đang buồn bực. Khi vua đến hỏi tại sao nàng
buồn như vậy và nghe chuyện ấy, vua bảo:
- Này hiền thê, thế khi nào ta sẽ phải đem
về món thuốc công hiệu này?
Rồi vua suy nghĩ: "Ta không thể tiếp tục đến
đây bằng cách này mãi được, ta phải xem
xét nỗi hiểm nguy vì cứ đi lui đi tới
thế này. Song nếu ta đưa nàng về
triều, quần thần không biết nàng có được làn
da xúc chạm êm dịu, họ sẽ chế nhạo ta và nói: "Đức
vua đem về một con quỷ cái". Còn nếu ta
để cho cả kinh thành biết được xúc giác
êm dịu ấy của nàng thì ta sẽ gạt bỏ hết mọi lời chê bai chống
đối ta". Vì thế vua bảo nàng:
- Này ái thê, thôi đừng buồn bực nữa. Ta sẽ
đem cho cha nàng một ít cháo ấy.
Nói xong, sau khi hưởng lạc thú cùng nàng, vua trở về cung. Hôm sau vua
bảo nấu món cháo như nàng đã tả và lấy
lá kết thành hai cái giỏ, một giỏ đựng cháo gạo
và trong giỏ kia vua đặt một vương miện
bằng ngọc rồi buộc chặt chúng lại.
Ban đêm vua
đến bảo nàng:
- Này ái thê, chúng ta nghèo lắm. Phải khó khăn
vất vả lắm ta mới kiếm được cháo này. Nàng phải dặn cha nàng: "Hôm
nay ăn cháo trong giỏ này; ngày mai giỏ
kia".
Nàng làm theo lời dặn. Còn cha nàng, sau khi
ăn một ít cháo đã thấy thỏa mãn ngay nhờ các chất bổ dưỡng tăng
dần sinh lực, phần còn lại nàng đưa cho
mẹ và chính nàng cũng ăn một phần, nên
cả ba đều cảm thấy vô cùng sung sướng,
còn cái giỏ đựng vương miện bảo ngọc ấy, họ để
dành cho nhu cầu hôm sau.
Khi về cung thất, vua rửa mặt và bảo:
- Hãy đem vương niệm của trẫm đến đây.
Quần hầu đáp:
- Chúng thần không tìm ra vương miện.
Vua phán:
- Hãy đi tìm khắp kinh thành.
Họ đi tìm nhưng vẫn không thấy
đâu cả. Vua phán:
- Thôi được, hãy
đi tìm trong các nhà nghèo ngoại thành,
bắt đầu từ các giỏ lá đựng thức ăn.
Họ đi tìm và thấy vương miện bảo châu
trong nhà này, liền la lên:
- Cha mẹ của cô nàng này là bọn trộm!
Họ trói cả hai và đem đến trình vua.
Lúc ấy cha nàng thưa:
- Tâu Chúa thượng, chúng thần không phải bọn trộm, có một ngươi
đã mang cho chúng thần bảo vật này.
- Ai thế? Vua hỏi.
- Con rể của thần - Lão đáp.
Khi được hỏi người ấy ở đâu, lão
đáp:
- Tiện nữ biết.
Rồi lão nói chuyện với nàng:
- Này con, con biết chồng con là ai chứ?
- Con không biết.
- Nếu vậy thì chúng ta tiêu đời rồi!
- Thưa cha, chàng đến lúc trời tối và
đi trước khi trời sáng, vì vậy con không
biết hình dáng chàng, nhưng con có thể nhận ra chàng bằng cách nắm tay
chàng.
Cha nàng kể việc này với các quan và họ tâu trình vua. Vua giả vờ không
biết gì về việc này và phán:
- Được hãy
để nữ nhân này ở trong bức màn ở sân
chầu, và đục một lỗ trên màn lớn bằng
bàn tay đàn ông rồi gọi dân chúng
đến đây để tìm cho ra tên trộm bằng cách
chạm vào tay nó.
Quần thần làm theo lệnh vua. Khi đến gặp nàng
và thấy nàng như vậy, họ đều ghê tởm bảo
nhau:
- Nó là con quỷ cái.
Trong nỗi ghê tởm, họ không dám đụng vào
nàng. Nhưng họ cũng đưa nàng
đặt vào trong bức màn ở sân chầu và tập
họp dân chúng lại. Khi cầm tay mỗi người đến
dang qua lỗ hỏng, nàng bảo:
- Không phải người này.
Dân chúng đều say mê vì sự xúc chạm
thần tiên của nàng nên không thể bỏ đi được. Họ
suy nghĩ: "Nếu nàng ấy đáng bị trừng
phạt thì dù chúng ta phải lấy gậy đánh nàng,
chúng ta cũng sẵn sàng chịu đựng mọi việc phục
dịch của bọn tôi đòi vì nàng và rước nàng về nhà làm vợ chánh".
Sau đó quân hầu của vua đánh đuổi bọn họ đi
thì tất cả quần chúng bắt đầu từ vị phó
vương đều làm như lũ người điên.
Lúc ấy vua bảo:
- Thế trẫm có thể là người ấy chăng?
Rồi vua dang tay ra. Người đàn bà ấy
nắm lấy tay vua và la to:
- Ta đã bắt
được tên trộm?
Vua hỏi quần thần:
- Khi tay các khanh được nàng ấy nắm,
các khanh nghĩ sao?
Họ tâu vua giống hệt cảm giác họ đã
nhận được. Vì thế vua phán:
- Do duyên cớ này trẫm đã bảo chúng
đưa nàng về cung. Nếu dân chúng không
biết gì về xúc giác của nàng, họ sẽ khinh chê trẫm. Này các khanh
đã biết mọi sự thật nhờ trẫm, vậy hãy
nói ra nàng ấy nên ở nhà ai để làm vợ?
Quần thần đáp:
- Tâu Ðại vương, ở cung của Ðại vương.
Thế rồi cử hành lễ quán đảnh, vua phong nàng
làm chánh hậu và ban cho cha mẹ nàng quyền cao chức trọng. Từ
đó về sau, vì say mê nàng, vua không bảo
tiến hành điều tra về nàng, cũng chẳng
ngó ngàng đến nữ nhân nào khác. Các
vương phi kia tìm cách khám phá điều bí mật liên
quan đến nàng.
Một hôm, nàng nằm mộng thấy điềm nàng
làm chánh hậu của hai vị vua, liền kể giấc mộng ấy với vua. Vua triệu các
người giải mộng đến hỏi:
- Giấc mộng chánh hậu thấy như vậy có nghĩa gì?
Bấy giờ bọn họ đã nhận hối lộ từ các
vương phi kia, liền thưa:
- Việc chánh hậu ngồi trên lưng voi toàn trắng là dấu hiệu Ðại vương băng
hà, và việc lệnh bà sờ mặt trăng trong
khi cỡi trên lưng voi là dấu hiệu bà đưa
một vị địch vương đến chống Ðại vương.
- Vậy phải làm gì bây giời? Vua hỏi.
- Ðại vương không thể xử tử bà, nhưng Ðại vương phải
đặt bà lên chiếc thuyền và
đẩy xuống cho trôi sông.
Ban đêm, vua sai
đặt nàng lên thuyền cùng thức
ăn, áo quần và
đồ nữ trang rồi đẩy nàng trôi theo dòng.
Trong khi nàng được dòng nước cuốn
đi trên thuyền, nàng
đến diện kiến vua Pàvàriya, lúc ấy
đang du hí trong dòng nước.
Vị đại tướng của vua thấy chiếc thuyền liền
hỏi:
- Chiếc thuyền này thuộc về ta.
Vua bảo:
- Hàng hóa trên thuyền thuộc về trẫm.
Khi chiếc thuyền đến gần, hai vị thấy nữ
nhân kia và vua hỏi:
- Ngươi là ai mà giống như quỷ cái thế?
Nàng mỉm cười đáp nàng là chánh hậu
của vua Baka rồi kể cho vua nghe tất cả chuyện
đời nàng, rằng nàng lừng danh khắp cõi Diêm-phù-đề
với biệt hiệu Ngũ ác tật. Lúc ấy vua nắm tay nàng nhấc ra khỏi
thuyền, vừa cầm bàn tay nàng, vua liền thấy rạo rực say mê vì sự xúc chạm
ấy, bởi thế các cung tần mỹ nữ của vua chẳng còn
được xem là xứng
đáng với danh hiệu nữ nhân nữa, vua liền tôn nàng
lên địa vị chánh hậu và nàng
được vua sủng ái như chính bản thân của vua
vậy.
Khi vua Baka nghe mọi chuyện đã xảy
ra liền bảo:
- Ta không cho phép vua ấy phong nàng làm chánh hậu
đâu.
Rồi truyền triệu tập quân sĩ, vua đến đóng
quân ở một cảng đối diện bên kia sông, gửi thông
điệp với mục đích là bảo vua Pàvàriya
hoặc phải giao trả vị chánh hậu của mình hoặc ứng chiến.
Vị địch vương kia sẵn sàng lâm trận,
nhưng các quân sư của cả hai vua đều nói:
- Không cần phải chết vì một nữ nhân. Bà ấy thuộc về vua Baka vì
đó là phu quân
đầu tiên của bà, song bà ấy lại thuộc về
vua Pàvàriya vì vua này đã cứu bà ra
khỏi chiếc thuyền. Do vậy hãy để bà ấy ở
trong khoảng thời gian bảy ngày tại cung của mỗi vị vua.
Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, họ thuyết phục hai vị vua
đồng ý quan điểm này và cả hai
đều vô cùng hoan hỷ, bảo xây kinh thành
ở hai bờ đối diện của sông ấy và ngự
đến ở đó, còn nữ nhân ấy nhận
địa vị chánh hậu của cả hai vua, và cả
hai đều say mê nàng.
Bấy giờ nàng ở bảy ngày cùng một vị vua, rồi nàng lên thuyền qua sông
đến cung của vị kia, và lúc ở giữa dòng,
nàng lại phạm tà hạnh với tên lái thuyền là một lão già vừa hói vừa què.
Thời ấy chúa chim Kunàla là vua Ba ka, nên ngài kể chuyện này như việc do
chính mắt ngài trông thấy, và ngài ngâm kệ để
chứng minh điều này:
22. Pà-và chánh hậu, Ba-ka vương,
Tham dục hai vua thật khó lường,
Tuy thế, nàng kia còn phạm tội
Với tên nô lệ của chồng nàng.
Vậy còn tên hạ tiện nào khác
Nàng lại không mong thuốn phạm gian?
*
Chuyện vương hậu Pingiyànĩ.
Tuy nhiên còn một chuyện khác nữa:
Ngày xưa, vương hậu của vua Brahamadata, mệnh danh là Pingiyànĩ, mở cửa
sổ nhìn ra và thấy một người giữ ngựa của hoàng gia. Ðến khi vua
đã ngủ say, nàng trèo xuống qua cửa sổ,
phạm tà dục với y rồi lại trèo lên cung điện,
tắm rửa toàn thân với đủ loại nước hoa và
nằm xuống cạnh vua. Bấy giờ một hôm, vua suy nghĩ: "Ta không biết vì sao vào
lúc nửa đêm, thân thể hoàng hậu luôn giá
lạnh, ta muốn xem xét vấn đề này".
Vì thế một ngày kia, vua giả vờ ngủ rồi trở dậy
đi theo nàng và thấy nàng phạm tà hạnh
với gã giữ ngựa. Vua trở về bước lên nội cung và nàng cũng vậy, sau khi phạm
tội ngoại tình, liền trở vào nằm trên chiếc giường
đẩy.
Hôm sau, trước mặt quần thần, vua triệu nàng vào chầu rồi công bố tà hạnh
của nàng và phán:
- Tất cả đàn bà
đều tội lỗi như thế cả.
Rồi mặc dù tội ấy đáng hành hình, tù
đày, xẻo thịt, hoặc phanh thây, vua vẫn
tha tội cho nàng, nhưng vua lại truất phế nàng khỏi ngôi cao và phong một nữ
nhân khác làm chánh hậu.
Vào thời ấy chúa chim Kunàla là vua Brahmadatta, vì thế chính ngài kể
chuyện này như một việc ngài đã thấy tận
mắt và ngài ngâm kệ để chứng minh:
23. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
Của đấng quân vương phạm dục tà,
Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
Cả quân vương lẫn gã gia nô.
Sau khi kể tội lỗi của nữ giới trong các chuyện
đời xưa, ngài lại nói về tà hạnh của họ
bằng cách khác nữa:
24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
Chúng còn bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.
25. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công bình,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính mình.
26. Dù ở với chàng bao tháng năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành lòng bỏ
đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.
27. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong lòng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như thể bánh xe lăn vút mãi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.
28. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
Ðể đi bắt một người giàu có,
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vậy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.
29. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
Mà không tìm thấy được con đường
Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.
30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
Hoặc là đẩy gã như dòng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần!
31. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.
32. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường!
33. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn tình lang lắm của tiền!
34. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Người được phong vương và quán
đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn phòng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rõ, khó vô cùng!
35. Má hồng tài trì thật thông minh,
Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân tình!
36. Dù một nam nhân chứa bạc vàng
Cả trần gian để tặng riêng nàng
Mà tim chàng vẫn yêu thương nhất,
Nàng cũng làm ô nhục đến chàng,
Nếu có thời cơ nào thuận tiện.
Vậy nên cẩn thận kẻo e rằng
Bạn sẽ rơi vào tay độc ác
Của bọn người hèn hạ dối gian!
37. Chàng phô dáng khỏe mạnh hùng cường,
Không phạm lỗi lầm của thế gian,
Chàng đến cầu hôn cô thiếu nữ,
Chàng vừa tuấn tú lại yêu thương.
Gặp cơn hoạn nạn và đau khổ,
Nàng sẽ rời xa, sẽ bỏ chàng.
Ta chẳng bao giờ tin tưởng chúng,
Phần ta đối với bọn hồng nhan!
38. Chàng chớ tin vì cứ nghĩ rằng:
"Nàng yêu ta đó, đúng rồi chăng?"
Chàng đừng tin lẽ thường nhi nữ
Trước mặt chàng tuôn lệ ướt đầm!
39. Chớ tin cái ổ lót cành khô
Cùng các lá cây tự thuở xưa
Người bạn ngày xưa, đừng tín nhiệm,
Ngày nay có thể hóa người thù,
Chớ tin vua chúa vì suy nghĩ:
"Người ấy, bạn ta thuở trước giờ"
Và chớ tin vào người phụ nữ
Dù sinh cho bạn chục con thơ!
40. Cầu lạc chính là bọn nữ nhân,
Dục tham sao cứ mãi buông lung,
Lũ người vi phạm nền luân lý,
Bọn chúng, bạn đừng có cậy trông.
Vợ cứ giả vờ trò luyến ái
Bao la, vô hạn trước ông chồng,
Chớ tin nàng ấy,vì nhi nữ
Chung chạ như bao bến tắm sông!
41 . Sẵn sàng chém giết hoặc phân thây,
Không có việc gì chẳng nhúng tay,
Khi đã diễn xong trò cắt cổ,
Chúng còn uống máu của chàng ngay!
Bọn mày râu chớ say mê chúng,
Một lũ dục tham hạ liệt đầy,
Phóng đãng và còn chung chạ nữa
Như là bến tắm sông Hằng vầy!
42. Lời nói chúng thường chẳng biệt phân
Giữa điều chân thật với tà gian,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng kiếm tình nhân lắm bạc vàng.
43. Dụ một chàng bằng mắt, nụ cười,
Chàng kia bằng cách bước đi chơi,
Giả trang lôi cuốn vài chàng nữa
Ðám khác bằng câu chuyện ngọt bùi!
44. Hung bạo, nhẫn tâm, lại bất lương,
Song lời lẽ chúng ngọt như đường,
Không gì bọn nữ nhi không biết
Ðể gạt chàng nào chúng kết hôn!
45. Quả thật đàn bà thảy ác gian,
Việc ô nhục của chúng vô lường,
Chúng đều tham đắm và liều lĩnh
Thiêu đốt nhanh như ngọn lửa bừng.
46. Nữ nhân chẳng phải được sinh ra
Ðể thích người này, ghét kẻ kia,
Chúng tán chàng nào mà chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn thờ,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ gần lẫn bến bờ xa.
47. Vì phải đâu là chuyện ghét thương
Mà ta thường thấy ở hồng quần,
Ðàn ông chúng bám vì vàng bạc
Như bám vào cây, đám bọ trùng!
48. Kẻ làm nghề đốt xác người ta,
Hoặc quét hoa khô khỏi điện thờ,
Hoặc gã giữ voi hay giữ ngựa,
Ðến cùng là đứa giữ trâu bò,
Tuy nhiên vì bạc tiền, nhi nữ
Vẫn chạy theo phường hạ đẳng kia.
49. Bỏ rơi quý tộc nếu nghèo nàn,
Nhưng chính tên vô loại, hạ tầng,
Ðối với tên này, như xác thối,
Nếu giàu, chúng cũng chạy nhanh chân.
Như vậy, Ànanda, vị thứu vương, dựa theo những sự việc do chính ngài
biết, đã nói về những tính xấu của nữ
giới, rồi giữ im lặng. Còn Nàrada, sau khi nghe những gì Ngài cần phải nói,
cũng dựa theo những việc chính mình biết, liền kể ra những tính xấu của họ.
Ðể chứng minh điều này, bậc Ðạo Sư
bảo:
- Thật vậy, lúc ấy Nàrada, khi nghe kể đoạn
khởi đầu, đoạn giữa và
đoạn cuối của câu chuyện mà Ànanda, thứu
vương cần phải nói ra, đến đây, liền
ngâm các vần kệ này:
50. Bốn vật chẳng hề biết thỏa thuê,
Những lời ta nói, lắng tai nghe:
Ðại dương, đạo sĩ và vua chúa,
Hỡi Ðiểu vương, và bọn nữ nhi.
51. Mọi dòng trong đất gặp quê hương
Cũng chẳng làm đầy đủ đại dương,
Vẫn có cái gì còn thiếu thốn,
Dù cùng nước biển thảy hòa tan.
52. Bà-la-môn thuộc các kinh thơ,
Tri kiến theo truyền thuyết thuở xưa,
Thánh kiến, tuy nhiên, còn thiếu thốn
Và khao khát mãi, mãi chưa vừa.
53. Vị vua chinh phục cõi trần ai,
Tất cả núi đồi, các biển khơi,
Có thể gọi kho tàng bất tận
Chứa đầy tài sản của mình thôi,
Vẫn mơ thế giới bên kia biển
Vì nghĩ bên này quá nhỏ nhoi!
54. Nhi nữ kết duyên với tám chồng
Sẵn sàng tuân phục ý riêng nàng,
Anh hùng gan dạ đầy tài giỏi
Nhiệm vụ tình quân thảy vẹn toàn;
Tuy vậy nàng yêu chàng thứ chín
Bởi vì còn thiếu thốn trong lòng!
55. Ðàn bà như lửa nuốt con mồi,
Như nước lũ tuôn thảy cuốn trôi,
Tai họa, gai đâm là bọn chúng,
Chúng thường đi lạc kiếm vàng thôi!
56. Chàng kia dùng lưới đón xuân phong,
Hoặc chỉ một mình tát biển đông,
Vỗ với một tay, xưa lại dám
Ðể tâm tư hướng đến giai nhân!
57. Ðối với quần thoa có trí tài,
Thật chân là của quý trên đời,
Tính tình phức tạp như tơ rối,
Như thói các đàn cá biển khơi.
58. Nói năng dịu ngọt, khó vừa lòng,
Như thể khó đầy các lạch sông,
Chúng lắng chìm dần, dần xuống mãi,
Biết hồng quần, phải chạy nhanh chân!
59. Hồng nhan phản bội khiến mê say,
Ðệ nhất tịnh nhân phải đọa đày;
Chúng cứ chìm dần, dần xuống mãi,
Những ai biết chúng, phải xa bay!
60. Bất kỳ chúng phục vụ đàn ông
Vì bạc vàng, tham dục thỏa lòng,
Chúng đốt gã như nhiên liệu cháy
Ðược thả vào trong ngọn lửa hồng!
Khi Nàrada đã nêu ra các tội lỗi của
nữ nhân như vậy, bậc Ðại Sĩ một lần nữa dùng những thí dụ
đặc biệt chứng minh các tính xấu của họ.
*
Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo Sư nói:
- Thật vậy, chim chúa Kunàla, sau khi biết phần
đầu, phần giữa và phần kết thúc câu
chuyện Nàrada kể, đến đây liền ngâm các vần kệ
sau:
61. Người khôn dám nói một đôi lời
Với quỷ cầm gươm sắc mới mài,
Ðánh đập hung xà, song chớ bạo
Chuyện trò với gái một mình thôi!
62. Nữ sắc làm mờ trí tục nhân,
Nói, cười, ca, múa, cánh tay trần
Gây phiền lụy những tâm dao động,
Như quỷ dữ xưa giết lái buôn.
63. Ðắm say rượu thịt, cố hoài công
Kiềm chế cơn thèm, nén dục tâm
Như quái vật xưa trong biển cả
Nuốt trôi tài sản của nam nhân.
64. Chúng chiếm riêng tham dục ngũ phần,
Buông lung kiêu mạn cứ tuôn tràn,
Như sông tìm đại dương đi tới,
Bọn phóng dật làm mồi nữ nhân.
65. Trai tráng được nhi nữ thích ham,
Ðộng tâm bởi nhục dục tham lam,
Kẻ kia nung nấu vì cuồng vọng,
Chúng đốt sạch trơn tựa lửa than!
66. Kẻ nào nếu chúng biết giàu sang,
Nhào đến cướp đi, trọn bạc vàng,
Tay quấn chặt chàng bừng lửa dục,
Như dây leo quấn chặt cành Sàl.
67. Như trái vim-ba, miệng đỏ tươi,
Dùng nhiều mưu kế hại con người,
Khi thì cười lớn, khi cười nụ,
Như quỷ sam-va, chúa bẫy mồi!
68. Nữ nhi trang điểm đủ kim hoàn
Ðược họ nhà trai đón thật sang,
Cho dẫu được canh phòng cẩn mật,
Vẫn thường phạm tội phản phu quân,
Như nàng kiều nữ ngày xưa ấy
Ðã được mang trong bụng quỷ nhân.
69. Người có trí và thật nổi danh
Ðược tôn sùng dưới mắt quần sinh,
Tuy nhiên sa dưới quyền nhi nữ
Sẽ không còn tươi sáng hiển vinh,
Như cả vầng trăng vừa bị nuốt
Bởi La-hầu đại lực yêu tinh.
70. Cừu nhân trút hận xuống cừu nhân,
Hay bạo chúa phô nỗi hận sân,
Số phận còn đau hơn thế nữa
Che mờ tất cả, bởi nguồn căn
Dục tham, nên phải đành sa
đọa
Ở dưới quyền uy của nữ nhân.
71. Bị hăm cào cấu khắp thân hình,
Hoặc nắm tóc lôi kéo khỏi mình,
Dọa quất bằng roi, hay gậy gộc,
Hoặc là đấm đá khắp chung quanh,
Nữ nhi vẫn chạy đi tìm kiếm
Một gã cùng đinh kết bạn tình,
Vì thấy lạc hoan trong gã ấy
Như loài ruồi kiếm xác ương sình!
72. Tránh bọn nữ nhân ở giữa đường,
Hoặc kinh thành hoặc ở công trường
Của vua, thị trấn, thôn làng nhỏ,
Bậc có trí hiền sẽ lạc an,
Tránh được bẫy đang giăng vậy đó
Bởi Na-mu-ci, chính Ma vương.
73. Kẻ nào buông lỏng luật Sa-môn,
Tập những thói đê tiện, hạ tầng,
Kẻ khốn ngu si đành
đổi lấy
Ngục sâu thay thế cảnh thiên đường,
Giống như những kẻ nào đem đổi
Ngọc có tỳ thay ngọc vẹn toàn.
74. Ðời này, đời kế đáng khinh khi
Là kẻ cố tâm khổ lụy vì
Bọn ác nữ nhân, đi lảo đảo,
Ngã nhào liều lĩnh, thật ê chề
Như con lừa dữ cuồng điên chạy
Với chiếc xe lăn lóc mọi bề.
75. Hoặc vào rừng lụa lắm gươm dao,
Hoặc ngục Pa-ta phải đọa vào,
Ðội lốt thú rùng đi lãng vãng,
Chốn ma đói chẳng thoát thân nào.
76. Trong vườn Hỷ lạc thú vui chơi
Của các Thiên tiên ở cõi trời,
Quyền đại đế vương trên mặt
đất
Tiêu vong vì nữ giới, than ôi!
Thói phường phóng dật buông lung ấy
Ði đến sầu bi đọa xứ thôi.
77. Khó đâu thành
đạt thú thiên
đường,
Cũng chẳng khó quyền lực đế vương
Trải rộng khắp nơi trên cõi đất,
Các nàng Thiên nữ ở lầu vàng
Ðã thành tựu các điều như vậy,
Ðoạn diệt từ lâu ác dục tham.
78. Từ Dục giới này được hóa thân
Ði vào Sắc giới đủ quyền năng
Tái sinh vào cõi A-la-hán,
Những vị đã trừ diệt dục tâm.
79. Cực lạc vượt qua mọi khổ đau,
Không duyên sinh, bất động, thâm sâu,
Ðạt thành bởi những người thanh tịnh
Ðắc Niết-bàn, ly dục đã lâu.
*
Như vậy bậc Ðại Sĩ chấm dứt Pháp thoại sau khi làm cho hội chúng
đắc Ðại Niết-bàn bất diệt. Các loài yêu
quỷ mãnh xà và đồng loại ở vùng Tuyết
Sơn cùng các vị thần đứng trên không
gian, đều reo mừng tán thán:
- Lành thay! Thật là khéo nói với đầy đủ vẻ
nhiệm màu của một bậc Giác Ngộ!
Ànanda, thứu vương, Nàrada, vị thần Ba-la-môn, Punnamukha, chim sơn ca
chúa, và bậc Ðại Sĩ đều trở về trú xứ của mình.
Song các vị kia thỉnh thoảng còn trở lại nhận lời chỉ giáo từ
đôi bàn tay của bậc Ðại Sĩ và do tuân
thủ giáo pháp của ngài nên được tái sinh vào
cõi Thiên.
*
Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt bài
giảng và ngâm vần kệ cuối cùng để nhận diện
Tiền thân:
80. U-dà-yi ấy chúa Sơn ca,
Linh thứu vương là À-nan-da,
Nà-ra-da là Xá-lợi-phất,
Ku-nà-la hót chính là Ta.
Các vị phải hiểu Tiền thân này như vậy.
Bấy giờ các Tỷ-kheo này, khi đến đây, đã
đến bằng thần thông của bậc Ðạo Sư, còn
khi về, lại về bằng chính uy lực thần thông của mình. Và ở trong Ðại Lâm,
bậc Ðạo Sư đã trình bày cho các vi thấy
phương tiện để đạt được chánh định, nên
ngay hôm ấy các vị đắc quả A-la-hán. Có
một số đông chư Thiên tụ họp nơi ấy nên
đức Thế Tôn tuyên thuyết cho các vị nghe
Kinh Ðại Hội (Mahàsamaya Sutta).
-ooOoo-
537. Chuyện đại
Sutasoma (Tiền thân Mahà-Sutasoma)
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về Trưởng
lão Angulimàla (Người đeo vòng ngón
tay).
Cách vị ấy tái sinh và gia nhập Giáo hội phải
được hiểu như đã
được miêu tả
đầy đủ trong kinh Angulimàla (Trung Bộ
II).
Bấy giờ từ khi nhờ phát nguyện một hành động
nói lời Chân thật, ông cứu sống một người đàn bà sinh khó, rồi ông
kiếm được thực phẩm cúng dường thật dễ dàng.
Sau đó nhờ tu tập hạnh viễn ly, ông chứng đắc
quả A-la-hán và được công nhận là
một trong tám mươi Ðại Trưởng lão.
Bấy giờ Tăng chúng bắt đầu nói về đề tài
này, bảo nhau:
- Này các Hiền giả, thật vi diệu thay là phép thần thông do
đức Thế Tôn thị hiện để giáo hóa nhẹ nhàng
như vậy và không cần dùng chút bạo lực nào, Ngài
đã điều
phục một tướng cướp hung bạo khát máu như Angulimàla! Ôi quả thật chư
Phật đã thành tựu những việc hy hữu
thay!
Bậc Ðạo Sư ngồi trong Hương phòng, với thiện nhĩ thông, hiểu
được chuyện đang nói, và biết rằng hôm
nay Ngài đến đó sẽ rất lợi ích và sẽ
thuyết giảng một đại kinh nên với oai
nghi tối thắng của một bậc Giác Ngộ, Ngài đi
đến Chánh Pháp đường, ngồi trên sàng tọa dành cho Ngài và hỏi hội
chúng đang thảo luận đề tài gì. Khi vị
trình Ngài chuyện ấy, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, thật không kỳ diệu gì việc Ta giáo hóa vị ấy ngày nay,
khi Ta đã chứng
đắc Vô thương Chánh giác. Ta cũng đã
điều phục vị ấy khi ta còn sống trong
một đời trước với một trình
độ tri kiến hạn hẹp mà thôi.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, vua Koravya cai trị rất đúng pháp
tại thành Indapatta, trong quốc độ Kuru
(Câu-lâu). Bồ-tát ra đời làm con của vị chánh hậu, và do ngài thích
nước ép trái soma, nên được đặt tên
Sutasoma. Khi ngài đến tuổi trưởng thành,
vua gửi ngài đến Takkasilà
để thọ giáo với một vị danh sư lẫy lừng khắp
thế giới. Thế là khi nhận lãnh học phí
để trả cho thầy, ngài lên đường đến đó.
Tại Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta con vua Kàsi cũng
được cha gửi đến đó cùng mục
đích như trên và cùng lên
đường theo hướng ấy. Trong lúc du hành,
Sutasoma ngồi nghỉ trên ghế dài trong một sảnh
đường cạnh cổng thành. Vương tử Brahmadatta cùng
đến ngồi xuống cạnh ngài trên ghế
đó. Sau khi chào thân hữu xong, Sutasoma
hỏi bạn:
- Này Hiền hữu, bạn đã mệt mỏi vì
cuộc hành trình rồi đó. Bạn từ đâu đến?
Khi vị kia đáp:
- Từ Ba-la-nại.
Ngài lại hỏi vị kia là con của ai.
- Con vua Brahmadatta.
- Quý danh là gì?
- Vương tử Brahmadatta.
- Hiền hữu đến đây có mục đích gì?
- Ðể được dạy các môn học thuật.
Sau đó vương tử Brahmadatta bảo:
- Hiền hữu cũng mệt mỏi vì chuyến đi này
rồi.
Và hỏi thăm ngài tương tự như trên,
Sutasoma kể cho bạn nghe mọi chuyện về mình.
Cả hai vị đều suy nghĩ: "Chúng ta đều là
các vương tử đi thọ giáo các môn học thuật từ
tay cùng một vị thầy", liền kết bạn với nhau.
Khi vào thành, hai vị đến nhà giáo
sư, đảnh lễ thầy, và sau khi nêu rõ lai
lịch danh tánh, hai vị nói đến đây để xin thọ
giáo các môn học thuật. Vị thầy sẵn sàng nhận lời thỉnh cầu ấy.
Sau khi trao học phí xong, hai vị bắt đầu
học tập và không chỉ hai vị, mà còn nhiều vương tử khác ở xứ
Diêm-phù-đề thời ấy, lên
đến hơn một trăm vị, xin thọ giáo với vị thầy này.
Sutasoma là đệ tử lớn chẳng bao lâu đạt đến
tài năng giảng dạy, nhưng không muốn
thăm hỏi các bạn kia, ngài suy nghĩ: "Ðây là thân hữu của ta", ngài
chỉ đến với vương tử Brahmadatta mà
thôi, và trở thành thầy riêng của bạn, ngài giáo huấn bạn, trong lúc các vị
kia phải từ từ thu thập kiến thức cho mình.
Các vị ấy sau thời gian tinh cần học tập cũng từ giã sư phụ, và tập họp
thành một đoàn tùy tùng theo Sutasoma
lên đường hồi hương. Sau đó, Sutasoma đứng
trước đám đông để từ giã họ, bảo:
- Sau khi các vị chứng tỏ tài học của mình trước phụ vương, các vị sẽ ổn
định đời mỗi người trong vương quốc của mình.
Khi ổn định xong, xin nhớ tuân theo lời giáo
huấn của ta.
- Thưa Tôn sư, đó là những gì?
- Vào những ngày trăng non và trăng
tròn, phải giữ Bố-tát giới và cử sát sinh.
Chúng bạn đều đồng ý tuân lời dặn ấy. Bồ-tát
nhờ thần lực tiên tri theo tướng mạo mỗi người, biết rằng
đại nạn sẽ xảy đến với vương tử Ba-la-nại trong
tương lai, và sau khi giảng dạy đầy đủ
như vậy, ngài cho họ ra đi.
Các vị ấy đều trở về xứ sở, và sau
khi trình bày việc học hành của mình trước các phụ vương, các vị ấy lên nối
ngôi trong vương quốc của mình. Rồi để thông
báo việc này cùng việc tiếp tục tuân thủ lời dạy của ngài, các vị vua
ấy gửi thư cùng tặng vật đến Sutasoma.
Khi biết được tình hình mọi việc, bậc
Ðại Sĩ liền trả lời các thư kia cùng dặn các vị giữ vững niềm tin. Một trong
các vị ấy là vua Ba-la-nại, vốn chưa bao giờ ăn
cơm mà không có thịt, vì thế, để giữ ngày
trai giới quần hầu thường lấy thịt cất riêng một nơi.
Bấy giờ, một hôm thịt được cất riêng
như vậy, do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó khéo
nuôi của hoàng cung ăn hết. Người đầu
bếp không tìm ra thịt vội cầm một nắm tiền
đi quanh quẩn vẫn không mua được thịt gì
cả, tự nhủ: "Nếu ta dọn cơm không có thịt, ta sẽ chết mất. Ta phải làm gì
đây?" Nhưng lại nghĩ: "Còn có một cách".
Ðến chiều tối, y ra nghĩa địa phơi đầy xác
chết, lấy một ít thịt đùi của một người mới chết, y nướng thịt thật
chín và dọn lên làm thức ăn.
Khi một lát thịt vừa chạm vào đầu lưỡi vua
thì nó gây rung động khắp bảy ngàn
dây thần kinh vị giác và tiếp tục tạo ra sự xáo trộn cả toàn thân. Tại sao
vậy? Ðó là do trước kia, vua đã từng
dùng thịt này rồi. Vì truyện kể rằng trong đời
sống ngay trước đời này, vua đã
là một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) từng ăn nhiều thịt
người nên nó hợp khẩu vị vua. Vua suy nghĩ: "Nếu ta giữ im lặng mà
ăn thịt này, y sẽ không nói cho ta biết
đó là thịt gì". Vì thế, khi nhổ ra, vua
để rơi một miếng thịt xuống đất. Người đầu bếp
thưa:
- Tâu Ðại vương, xin ngài dùng thịt này, không sao cả
đâu.
Vua ra lệnh mọi quân hầu lui ra và bảo:
- Trẫm biết rõ lắm nhưng đó là thịt
gì?
- Ðó là thứ thịt Ðại vương đã thưởng
thức các lần trước.
- Chắc chắn các lần khác thịt không có mùi thơm này.
- Tâu Ðại vương, hôm nay thịt được nấu kỹ
lắm ạ.
- Chắc chắn trước kia ngươi cũng nấu giống thế này chăng?
Rồi khi thấy y im lặng, vua phán:
- Hoặc là phải nói thật với trẫm hoặc ngươi phải chết.
Thế là y cầu khẩn vua cam đoan không trừng
phạt và kể đúng sự thật. Vua bảo:
- Ðừng nói gì việc ấy nữa. Ngươi sẽ phải ăn
thịt nướng thường lệ và chỉ nấu thịt người cho trẫm.
- Tâu Ðại vương, chắc chắn việc này khó lắm ạ.
- Ðừng sợ, chẳng có gì khó cả.
- Thế tiểu thần kiếm đâu ra thường xuyên
thứ thịt ấy?
- Chả có bọn tù nhân trong ngục đó sao?
Từ đó, y làm theo lời vua dặn. Dần
dần, khi thiếu tù nhân, y trình:
- Tiểu nhân phải làm gì bây giờ?
Vua phán:
- Hãy ném xuống đường cái một gói có ngàn
đồng tiền rồi bắt lấy kẻ nào lượm gói ấy
như kẻ trộm và xử tử nó đi.
Y tuân lệnh. Dần dần, không tìm ra kẻ nào có ý nhìn
đến gói tiền ấy nữa, gã thưa:
- Tiểu thần phải làm sao đây?
- Vào lúc trống điểm canh khuya, kinh thành
thật đông người. Vậy ngươi hãy xuống vào
trong một chỗ nứt ở tường nhà hay ở ngã tư, hạ thủ một người và cắt
đi vài miếng thịt.
Từ đó, y thường trở về với một ít thịt mỡ và
nhiều nơi trong kinh thành phát hiện nhiều xác chết. Tiếng than khóc vang
lên: "Tôi đã mất cha, mất mẹ, mất anh em
rồi".
Dân trong thành kinh hoàng bảo nhau:
- Chắc chắn sư tử, cọp beo hay quỷ dữ đã
ăn thịt các người này.
Khi quan sát các tử thi, họ thấy có chỗ giống vết thương hở miệng liền
nói:
- Kìa, ắt hẳn một người nào đó ăn thịt chúng
đấy.
Dân chúng tụ tập ở sân chầu và kêu than. Nhà vua hỏi:
- Này các hiền hữu, có chuyện gì thế?
- Tâu đại vương, trong kinh thành này
có kẻ cướp ăn thịt người. Xin ngài ra
lệnh bắt nó.
- Làm sao trẫm biết đó là ai
được? Trẫm phải đi quanh quẩn kinh thành
này mà canh giữ chăng?
Dân chúng bảo nhau:
- Nhà vua không quan tâm đến kinh thành.
Chúng ta sẽ báo cáo việc này lên vị đại tướng Kàlahatthi.
Họ đến trình vị tướng ấy việc này và
nói:
- Xin Ðại tướng tìm cho ra tên cướp này.
Vị ấy đáp:
- Hãy đợi bảy ngày ta sẽ tìm ra tên
cướp và giao cho các vị.
Khi giải tán quần chúng xong, ông ra lệnh cho các tướng lãnh:
- Này các hiền hữu, dân chúng bảo có tên cướp
ăn thịt người trong thành này. Các hiền
hữu, hãy mai phục ở nhiều nơi và bắt nó.
- Ðược lắm - Họ đáp.
Từ ngày ấy họ vây quanh toàn thành. Bấy giờ người
đầu bếp đang ẩn mình trong cái lỗ ở
tường nhà kia đã giết một phụ nữ và bắt
đầu nhét đầy thịt này vô giỏ của y. Vì
thế đám tướng lãnh chụp y,
đấm đánh túi bụi và vừa trói y ra sau,
vừa la lớn:
- Chúng ta đã bắt
được tên trộm
ăn thịt người rồi!
Một đám đông vây quanh họ. Rồi vừa đánh đập
y một trận mê tơi vừa buộc giỏ thịt trên cổ y, họ
đem y đến trước vị đại tướng. Khi thấy y, vị ấy
suy nghĩ : "Có thể là kẻ này ăn thịt
người hay trộn nó với các thứ thịt khác rồi đem bán, hoặc y giết người theo
lệnh ai khác chăng?" và để hỏi vấn đề này,
ông ngâm vần kệ đầu:
1. Hỡi người sành các món cao lương,
Ðòi hỏi gì sao thật khẩn trương
Ðã giục ngươi làm điều khủng khiếp?
Chỉ vì thực phẩm hoặc tiền vàng
Ngươi tàn sát những người này vậy,
Hỡi kẻ khốn kia lạc bước đàng?
Ðầu bếp:
2. Chẳng vì thê tử hoặc thân bằng,
Quyến thuộc, bản thân hoặc bạc vàng,
Thần giết bà này vì Chúa thượng,
Vì vua ngự trị cả giang san
Vẫn ăn thịt ấy, thần gây tội
Chính là do lệnh của vua ban.
Tướng quân:
3. Nếu do mua chuộc để chìu lòng
Thèm khát tham tàn của Chúa công,
Ngươi đã phạm hành vi khủng khiếp,
Vậy ngày mai đến lúc hừng đông,
Chúng ta tìm Chúa công tham kiến,
Ðưa cáo trạng ra trước mặt rồng.
Ðầu bếp:
4. Kà-la đại tướng đáng tôn sùng,
Thần sẽ tuân lời của tướng công,
Ðến rạng đông thần tìm Chúa thượng
Và đưa cáo trạng trước sân rồng.
Thế rồi vị đại tướng bảo đặt y xuống, trói
thật chặt và rạng ngày mai, ông bàn bạc với tướng lãnh xong, và khi
tất cả đều đồng ý, liền cho đóng quân
canh mọi hướng. Khi đã kiểm soát kinh
thành thật kỹ, ông buộc giỏ thịt vào cổ người
đầu bếp và đưa y
đến cung điện, còn cả kinh thành náo
động lên.
Vua đã dùng
điểm tâm ngày hôm trước, nhưng
đã bỏ cơm tối và suốt
đêm cứ ngồi mãi, chờ
đợi người
đầu bếp từng giây phút. Vua suy nghĩ: "Hôm nay nữa, gã
đầu bếp cũng không đến, và ta nghe tiếng
náo động khắp kinh thành. Chuyện gì sắp
xảy ra chăng?" Vừa nhìn ra cửa sổ, vua
thấy người ấy bị kéo đến đây như đã tả
trên, và nghĩ rằng mọi sự đã bị phát
giác, vua thu hết can đảm đi đến ngồi trên
ngai. Khi tướng quân Kàlahatthi đến gần hỏi
chuyện, vua đáp lời.
*
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
5. Vầng nhật vừa lên, mới rạng đông,
Ðem theo đầu bếp đến sân rồng,
Kà-la tiến lại gần thiên tử,
Tâu những lời này với chúa công:
6."Hỏa đầu quân, có đúng vậy chăng
Ðưa lệnh vua ra tận phố phường,
Tàn sát nam nhi cùng phụ nữ,
Ðể dâng chúa thượng món cao lương
7."Ðiều này thật đúng đấy, Kà-la,
Việc ấy được làm bởi lệnh ta,
Sao khiển trách tên đầu bếp nọ,
Vì làm theo lệnh của ta mà?".
Khi nghe vầy, đại tướng suy nghĩ: "Chính
miệng nhà vua thú nhận việc ấy, ôi thật là con người hung bạo! Bấy
lâu nay vua đã và
đang ăn thịt người. Ta phải ngăn
chặn việc này mới được" và ông
đáp :
- Tâu Chúa thượng, chớ làm việc này, xin chớ
ăn thịt người!
- Này Kàlahatthi, khanh nói gì thế? Trẫm không thể ngừng
được.
- Tâu Chúa thượng, nếu ngài không ngừng việc này lại, ngài sẽ hủy diệt cả
mạng rồng cùng giang san này đấy.
- Cho dù vương quốc ta bị tiêu diệt, ta cũng không thể ngừng việc ấy
được đâu.
Lúc ấy vị đại tướng muốn làm vua tỉnh
trí hơn, liền kể một chuyện quá khứ để chứng
minh.
*
Chuyện Thủy quái Ànanda
Ngày xưa có sáu thủy quái sống ở đại dương.
Trong số đó có Ànanda, Timanda, Aijhohàra, ba con này dài năm
trăm dặm; và Titimiti, Mingala, Timivapingala, ba con này dài một
ngàn dặm; cả bọn chúng tự nuôi sống bằng rong biển sevala mọc trên da.
Trong bọn có Ànanda sống ở một phía đại
dương và được nhiều loài thuỷ tộc
đến viếng. Một hôm chúng suy nghĩ: "Các loài
vật hai chân và bốn chân đều có vua, nhưng
chúng ta không có. Vậy ta muốn tôn thủy quái này làm vua". Thế là
chúng đồng lòng tôn Ànanda lên làm vua,
từ đó sáng chiều chúng đều đến bày tỏ
lòng tôn kính vua mình.
Bấy giờ một hôm, Ànanda ở trên núi nọ ăn
rong sevàla và vô ý ăn nhằm một con cá,
vì tưởng đó là rong. Thịt nó thật
ngon miệng nên thủy quái tự hỏi thứ gì mà ngọt ngào như vậy, liền lấy ra
khỏi mồm, và nhìn thấy đó là một miếng
cá. Nó suy nghĩ: "Bấy lâu nay ta không hề biết nên chẳng
ăn thứ này, mọi sáng chiều loài cá vẫn
thường đến để bày tỏ lòng tôn kính ta,
ta sẽ ăn một hai con thôi, vì nếu khi
chúng đang bị ta ăn và ta lộ rõ mọi việc
cho chúng biết, thì không có con nào dám bén mảng
đến gần ta, bọn chúng sẽ chuồn hết cả".
Thế rồi nằm ẩn mình, thủy quái chụp những con cá nào
đang bơi lùi lại phía sau và
ăn thịt chúng. Khi số cá giảm dần, chúng suy
nghĩ: "Hiểm họa này đe dọa chúng ta từ
phía nào đây?"
Rồi một con cá tinh khôn trong bọn suy nghĩ: "Ta không hài lòng với việc
Ànanda đang làm. Ta muốn tìm hiểu rõ vị
ấy sắp làm gì đây". Khi bầy cá đến kính lễ
Ànanda, con cá tinh khôn kia ẩn mình trong lỗ tay Ànanda. Lúc bảo
đàn cá quay về, Ànanda vồ lấy những con
nào bơi lùi phía sau. Con cá khôn ngoan thấy việc này, thuật lại cho bọn
kia, chúng đều kinh hoảng chạy trốn hết.
Từ ngày ấy, Ànanda thèm mùi cá không chịu ăn
các thứ khác. Khi phát bệnh vì đói, nó
suy nghĩ: "Ðàn cá đi đâu cả trên
đời này? Trong lúc tìm chúng, nó thấy
một ngọn núi và suy nghĩ: "Vì sợ ta, chắc đàn
em đang sống trong núi này. Ta sẽ bao
vây núi và canh chừng thật kỹ". Thế là vừa vây quanh núi với
đầu đuôi cuộn tròn cả hai phía, nó suy
nghĩ: "Nếu chúng ở đây, chúng sẽ trốn thoát".
Khi nhìn thấy chính đuôi nó cuộn tròn
quanh núi, nó lại nghĩ: "Con cá này sống gần núi và
đang cố tránh ta". Trong cơn cuồng nộ, nó chụp
lấy đuôi mình dài năm mươi dặm mà
tưởng là bắt được cá, nó ngấu nghiến kêu
ken két, do đó phải chịu đau đớn hành hạ
khủng khiếp.
Khi ngửi mùi máu, đàn cá tụ tập cùng
nhau kéo từng mảnh đuôi của Ànanda ra
ăn hết cho đến tận đầu. Vì thân xác
khổng lồ như vậy, nó không thể nào trở mình
được nên phải mạng chung. Rồi ở đó có
một đống xương cao như núi.
Các vị nam nhi Thánh giả khổ hạnh khi du hành qua không gian, trông thấy
đống xương, liền kể cho dân chúng nghe nên
dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ)
đều biết chuyện ấy. Kàlahatthi kể chuyện
này để chứng minh và ngâm kệ:
8. A-nan ăn cá biết bao loài,
Lúc đám tùy tùng trốn thoát rồi,
Nó cắn đuôi mình nhai ngấu nghiến
Ðến khi thủy quái phải lìa đời.
9. Nô lệ dục tham, chẳng biết gì
Thú vui nào khác, kẻ ngu si
Ðui mù, phóng dật, gây đau khổ
Hủy diệt họ hàng, cả thiếu nhi,
Rồi biến thân thành mồi béo bở
Cho lòng tham quái ác ly kỳ.
10. Nghe lời thần nói, tấu Quân vương,
Món thịt người, xin chúa chờ ăn,
Việc ác kiêng làm, e ngại phải
Cùng chung số phận thật kinh hoàng
Của con thủy quái và đành
để
Ðất nước Chúa công phải mạt tàn.
Khi nghe vậy, vua bảo:
- Này Kàlahatthi, ta cũng biết một ví dụ như khanh. Rồi kể một chuyện cổ
làm ví dụ chứng minh tính thèm thịt người của mình, vua ngâm kệ:
11. Nam nhi thừa kế Su-jà-ta
Ðòi quả hồng đào, cứ hét la,
Cậu bé buồn phiền vì mất chúng,
Phải đành thiệt mạng, hóa ra ma.
12. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lẽ
Không còn đời sống để lo toan.
*
Chuyện Nam tử của phú ông Sujàta
Tương truyền ngày xưa một vị địa chủ trưởng
giả có tên Sujàta ở Ba-la-nại làm chỗ cư trú trong hoa viên của mình
và cung phụng năm trăm vị ẩn sĩ đến đấy từ vùng
Tuyết Sơn để tìm muối và dấm. Trong nhà
ông luôn có thực phẩm dọn sẵn mời các vị ấy, nhưng các vị thỉnh thoảng vẫn
đi khất thực trong vùng quê và
đem về những miếng hồng đào lớn
để ăn.
Trong lúc các vị ấy đang ăn hồng đào
đã đem về,
Sujàta nghĩ thầm: "Hôm nay là ngày thứ ba hay thứ tư rồi mà các Thánh
giả này chưa đến nhà ta
đây. Không biết các ngài
đã đi đâu
trên đời này?" Thế rồi bảo cậu
con trai cầm tay mình, ông đi đến đó trong lúc
các vị ấy đang dùng bữa ăn. Lúc ấy một
chú tiểu đang đưa nước để các vị trưởng lão súc miệng và chú
đang ăn một miếng đào
đỏ. Sujàta
đảnh lễ các ẩn sĩ và khi đã an
tọa, liền hỏi:
- Thưa các Tôn giả, các ngài đang dùng
gì thế?
- Thưa gia chủ, những miếng đào
đỏ lớn đấy.
Cậu bé nghe vậy cảm thấy thèm, vì thế vị trưởng chúng ẩn sĩ bảo cho cậu
một miếng nhỏ. Cậu bé ăn đào và quá say
mê mùi vị thơm ngon ấy nên cứ nằn nì đòi
các vị cho thêm miếng nữa. Ông phú hộ đang nghe
Pháp, liền bảo:
- Thôi đừng khóc, khi về nhà, con sẽ
được ăn một miếng.
Ông đánh lừa cậu bé như vậy vì sợ các
Thánh giả kia sẽ mệt nhọc bởi tiếng kêu khóc của con. An ủi cậu bé xong, ông
từ giã hội chúng ẩn sĩ và về nhà. Từ lúc đến nhà,
cậu bé cứ lãi nhải kêu to:
- Cho con một miếng.
Còn các ẩn sĩ lại bảo:
- Chúng ta đã ở
đây lâu ngày rồi.
Và họ ra đi về vùng Tuyết Sơn. Vì
không thấy cậu bé trong hoa viên, các ẩn sĩ gửi cho cậu một món quà gồm
nhiều miếng xoài, đào, mít, chuối và vài
trái cây khác nữa, tất cả trộn chung với đường
mịn. Món trái cây trộn đường vừa đặt lên
đầu lưỡi cậu bé liền gây tác dụng như một thứ thuốc độc giết người. Suốt bảy
ngày cậu không ăn gì
được và chết sau
đó.
Vua kể chuyện này như một cách tự chứng minh. Lúc ấy Kàlahatthi nghĩ
thầm: "Ông vua này thật quá tham ăn của ngon
vật lạ. Ta sẽ kể nhiều ví dụ khác nữa", và nói:
- Tâu Ðại vương, xin chừa món này đi.
- Không thể được. - Vua đáp.
- Nếu ngài không chừa được, ngài sẽ
bị gia tộc từ bỏ dần và tước mất hết vương quyền vinh hiển. Xin hãy nghe
đây.
*
Chuyện Nam tử Bà-la-môn.
Ngày xưa cũng tại chính trong kinh thành Ba-la-nại này có một gia
đình Bà-la-môn tuân hành Ngũ giới. Nhà
này chỉ sinh được một con trai độc nhất nên
được cha mẹ yêu quý và là niềm vui của
hai thân, một cậu trai thông minh, am hiểu thấu suốt ba tập Vệ-đà.
Cậu thường đi chu du cùng
đám thanh niên
đồng tuổi với cậu. Các người kia trong đám ấy
thường ăn cá thịt cùng các thức tương tự và uống rượu mạnh. Còn cậu
trai này không ăn thịt cũng không uống rượu
mạnh. Chúng bạn chợt suy nghĩ: "Thằng bé này vì không uống rượu mạnh
nên không phải trả tiền, ta phải lập mưu bắt nó uống mới
được".
Thế rồi bọn chúng tụ tập nhau lại, bảo:
- Này hiền hữu, chúng ta hãy tổ chức đám
hội.
Cậu đáp:
- Các bạn uống rượu mạnh nhưng ta thì không, vậy các bạn cứ
đi mà không có ta.
- Này hiền hữu, ta sẽ lấy sữa để bạn uống.
Cậu đồng ý nói:
- Ðược rồi.
Bọn trai lêu lổng ấy ra vườn lấy một ít rượu mạnh buộc vào một ngọn lá
làm thành cái chén và đặt nó giữa đám lá sen.
Thế rồi khi họ bắt đầu uống, họ cho cậu trai một ít sữa. Một tên ranh
mãnh trong bọn kêu lớn:
- Hãy đem cho ta một ít mật hoa sen.
Sau khi đã bảo
đem mật ấy vào, y
đục một lỗ dưới đáy ngọn lá nằm giữa đám sen
kia và đưa lên miệng hút vào. Bọn
kia cũng bảo đem một ít cho họ uống. Cậu trai
hỏi đó là thức gì, và uống một ít rượu mạnh cứ tưởng
đó là mật hoa sen.
Sau đó họ lại đưa cho cậu một ít thịt hầm và
cậu cũng ăn luôn.
Khi cậu đã say vì uống nhiều ngụm
rượu liên tiếp họ bảo cậu:
- Ðây không phải mật hoa sen đâu. Rượu mạnh
đấy.
Cậu đáp:
- Bấy lâu nay ta chưa hề biết vị ngọt là thế nào cả. Này ta bảo, hãy
đem cho ta thêm rượu mạnh nữa
đi!
Họ mang rượu đến và một lần nữa trao
cho cậu vì cậu rất thèm khát. Sau đó khi cậu đòi
thêm nữa, họ bảo cậu hết sạch rượu rồi.
Cậu nói:
- Mau lên, ta bảo kiếm thêm cho ta nữa đi.
Và cậu đưa cho họ chiếc nhẫn có tín hiệu của
cậu.
Sau khi uống với họ suốt ngày, cậu say túy lúy, mắt
đỏ ngầu như máu, người run rẩy, nói lảm nhảm,
cậu về nhà nằm vật xuống. Lúc ấy cha cậu nhận thấy cậu
đã uống rượu,
đến khi hiệu lực của rượu đã qua hẳn,
ông bảo cậu:
- Này con, con đã làm một việc rất
sai lầm, là người trong gia tộc Bà-la-môn mà con uống rượu mạnh, từ nay
đừng bao giờ làm vậy nữa.
- Cha bảo sao? Suốt đời con, chưa bao giờ
con nếm được vị gì ngon ngọt đến thế.
Vị Bà-la-môn cứ nài nỉ con chừa rượu. Cậu
đáp:
- Con không thể bỏ được.
Sau đó vị Bà-la-môn suy nghĩ: "Nếu
như vậy thì truyền thống gia tộc ta sẽ bị hủy hoại và tài sản ta cũng tiêu
tan". ông liền ngâm kệ này.
13. Nam tử La-môn tộc quý cao,
Là trai khả ái, lại thanh tao,
Con đừng uống vật đầy ghê tởm
Không một La-môn hưởng thụ nào.
Sau những lời này, ông lại bảo:
- Này con yêu, phải chừa rượu đi, nếu không
cha sẽ tống con ra khỏi nhà và xin vua
đuổi con khỏi vương quốc này.
Cậu trai đáp:
- Cho dù vậy, con cũng không thể bỏ rượu mạnh.
Và cậu ngâm hai vần kệ:
14. Bởi vì cha muốn cản ngăn con,
Uống thứ này hương vị tuyệt ngon,
Con sẽ đi xa bất kể số,
Tìm nơi đâu rượu vẫn trường tồn!
15. Con sẽ ra đi vội bước chân,
Chẳng còn ở lại với song thân,
Vì nay thấy mặt con, e hẳn
Cha ghét con cay đắng bội phần!
Cậu lại còn nói thêm:
- Con quyết sẽ không chừa rượu đâu. Cha cứ làm
gì tùy ý.
Lúc ấy vị Bà-la-môn đáp:
- Ðược rồi, nếu con từ bỏ cha mẹ thì cha mẹ cũng từ bỏ con luôn.
Và ông ngâm vần kệ này:
16. Ta sẽ tìm vài cậu thiếu niên
Ðể cho thừa kế mọi kim tiền,
Cút đi, đồ khốn, nơi ta chẳng
Nghe thấy tên ngươi đáng rủa nguyền!
Sau đó, đem cậu con ra tòa án, ông
truất quyền thừa kế của cậu và sai đuổi chàng
ra khỏi nhà. Cậu trai về sau làm kẻ khốn khổ cùng bần, mặc áo quần vải thô,
cầm bát khất thực trong tay đi lang thang xin
ăn rồi dựa vào một bức tường và chết.
Kàlahatthi kể chuyện này để làm bài
học răn vua, và bảo:
- Tâu Ðại vương, nếu ngài từ chối nghe lời chúng thần, thì họ sẽ sai
người đuổi ngài ra khỏi quốc
độ này.
Nói vậy xong, ông ngâm kệ:
17. Vậy lắng nghe này, tấu Ðại vương,
Tuân theo lời dặn của ngu thần,
Nếu không sẽ giống chàng say rượu
Ngài bị đuổi ra khỏi thổ cương.
Ngay sau ví dụ được Kàlahatthi dẫn
chứng như vậy vua cũng không thể từ bỏ thói quen của mình, và kể một chuyện
khác để chứng minh:
18. Ðồ đệ của chư Ðại Thánh hiền,
Su-jà ta, cổ tích lưu truyền,
Nhịn luôn thực phẩm cùng đồ uống,
Vì đã
đắm say một nữ tiên.
19. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương
So với mọi nguồn nước đại dương,
Cũng vậy tình người đem sánh với
Ái tình dâng tặng một tiên nương.
20. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lý
Không còn đời sống để lo toan.
*
Chuyện Phú ông Sujàta.
Chuyện này cũng giống như chuyện đã
kể trên.
Tương truyền phú ông Sujàta này thấy rằng các vị ẩn sĩ kia không trở về
vào thời các vị đang ăn những miếng hồng đào
lớn, liền nghĩ thầm: "Ta không biết tại sao các vị ấy không trở về. Nếu các
vị đi nơi khác, ta sẽ đi tìm cho ra, hơn
nữa, ta lại muốn nghe các vị thuyết Pháp".
Thế rồi ông ra hoa viên nghe vị Trưởng hội chúng ấy thuyết Pháp, và khi
mặt trời lặn, dù ông được bảo ra về, ông vẫn
nói:
- Ðệ tử muốn ở lại đây hôm nay.
Và đảnh lễ hội chứng hiền nhân xong, ông vào
am tranh của mình nằm xuống. Ban đêm,
Sakka Thiên chủ được cả đoàn thiên nhân
hộ tống, cùng với các thị nữ của ngài, đến đảnh
lễ đám Thánh nhân kia khiến cả vùng thảo am sáng rực lên.
Sujàta không biết chuyện gì, đứng dậy nhìn
qua khe hở của am tranh, nhìn thấy Sakka đến
đảnh lễ hội chúng Thánh nhân và được cả
đám tùy tùng tiên nữ Apsarasas hộ tống. Vừa thấy các nàng tiên lòng
ông đã bùng lên dục vọng như lửa
đốt. Thiên chủ Sakka an tọa và sau khi
nghe thuyết Pháp xong, trở về cõi của ngài.
Hôm sau vị địa chủ đến đảnh lễ các ẩn sĩ và
hỏi:
- Bạch các Tôn giả, vị nào đêm qua
đến đảnh lễ các vị?
- Thưa tôn ông, đó là Sakka Thiên
chủ.
- Thế các vị vây quanh ngài là ai?
- Ðó là các tiên nữ Apsarasas.
Sau khi đảnh lễ các vị khổ hạnh, ông về nhà
và từ lúc đó, ông cứ điên cuồng kêu gào:
"Cho ta một nàng tiên Apsaras".
Ðám quyến thuộc vây quanh ông, tự hỏi không biết ông có bị quỷ ám chăng,
và họ búng tay.
Ông bảo:
- Không phải ta nói đến chuyện búng tay này
đâu mà chuyện các nàng tiên Apsaras kia.
Khi họ mặc y phục chỉnh tề và đưa vào
cho ông một bà vợ hay thậm chí một kỹ nữ sang trọng và nói:
- Ðây là một nàng tiên Apsaras.
Ông đáp:
- Ðây không phải là tiên Apsaras, mà là con quỷ cái!
Rồi ông cứ lảm nhảm la hét điên
cuồng.
- Cho ta một nàng tiên Apsaras!
Sau đó không chịu ăn uống gì cả, ông
chết đi.
Khi nghe vậy, Kàlahatthi tự nhủ: "Ông vua này thật là kẻ
đại tham của lạ. Ta quyết làm cho vua
tỉnh trí hơn lên". Rồi ông nói:
- Những chim kim nga bay qua không gian cũng chết vì
ăn thịt đồng loại của chúng.
Và để chứng minh việc này, ông ngâm
hai vần kệ:
21. Như các thiên nga có sắc vàng
Du hành qua giữa cõi không gian,
Thảy đều phải chết vì sinh sống
Bằng thực phẩm kia trái lẽ thường.
22. Cũng vậy, xin ngài hỡi Ðại vương,
Lắng nghe thần nói thật tinh tường;
Vì ăn thực phẩm này phi pháp
Dân sẽ đuổi ngài khỏi thổ cương.
*
Chuyện đàn Kim Nga.
Tương truyền ngày xưa chín mươi ngàn thiên nga sống ở Kim
động trên
đỉnh núi Cittakùta. Suốt bốn tháng mùa mưa, chúng không di chuyển ra
ngoài. Nếu chúng làm vậy, đôi cánh chúng sẽ ướt
sũng nước, chúng sẽ không thể bay xa và sẽ rơi xuống biển. Do
đó chúng không đi ra ngoài. Nhưng khi
mùa mưa đến, chúng nhặt thóc lúa hoang ở một
cái hồ thiên nhiên đem về chất đầy hang
và sống bằng thóc lúa.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi không vào hang, thì một con nhện
unnanabhi to bằng cái bánh xe ở cửa hang vẫn thường giăng
tơ hằng tháng, mỗi sợi tơ của nó to bằng sợi dây thừng bò. Ðàn thiên
nga cho một thiên nga còn trẻ hai phần thức ăn
vì nghĩ rằng nó có thể phá thủng màn nhện kia.
Khi trời trở nên quang đãng, con
thiên nga trẻ này đứng trước chúng phá hủy màn
nhện và cả đoàn thoát ra bằng cách này.
Bấy giờ có một mùa mưa kéo dài năm tháng nên
lương thực của đàn thiên nga cạn dần,
chúng hỏi ý kiến nhau phải làm gì, rồi nói:
- Nếu muốn sống, chúng ta phải lấy trứng.
Trước hết, chúng ăn trứng, rồi đến lượt
ngỗng con và kế đó là ngỗng già.
Sau năm tháng mùa mưa chấm dứt, con nhện
đã giăng
năm màn lưới to tướng, còn đàn
thiên nga, vì ăn thịt đồng loại chúng, đã
trở nên yếu đuối. Con ngỗng trẻ kia đã
nhận phần ăn gấp đôi, cố phá vỡ được bốn màn
nhện, nhưng không thể phá nổi màn thứ năm và
bị dính chân vào đó. Thế rồi con nhện cắt đầu
nó và hút máu. Hết ngỗng đầu rồi đến
lượt ngỗng thứ hai đến phá màn nhện, con nhện suy nghĩ: "Ðây lại thêm
một con ngỗng nữa dính vào chỗ ấy", và hút máu cả bầy, thời bấy giờ dòng
giống thiên nga dhatarattha phải tuyệt diệt, tương truyền như vậy.
*
Vua nôn nóng kể thêm một chuyện chứng minh, nhưng
đám thị dân đứng lên nói:
- Thưa Ðại tướng, ngài đề nghị phải làm
gì? Ngài sẽ tiến hành ra sao vì nay ngài đã
bắt được tên
ăn thịt người dã man ấy? Nếu y không từ
bỏ việc ấy, hãy sai người đuổi y ra khỏi vương
quốc này.
Và quần chúng không chịu để cho vua nói lời
nào nữa. Khi nghe câu chuyện chung của quần chúng, vua kinh hoảng
không nói gì thêm, và một lần nữa vị đại tướng
hỏi vua:
- Tâu Ðại vương, ngài có thể từ bỏ việc ấy chăng?
- Không thể được. - Vua đáp.
Thế rồi vị đại tướng sắp vào một phía
tất cả hậu cung của vua, gồm các vương tử và công chúa trang sức thật lộng
lẫy và nói:
- Tâu Ðại vương, hãy ngắm vòng quyến thuộc,
đám cận thận và cảnh huy hoàng vương giả của ngài, xin
đừng để ngài phải tiêu tan tất cả, mà
xin ngài hãy ngừng ăn thịt người.
Vua đáp:
- Tất cả mọi thứ này không còn thân thiết với ta hơn món thịt người.
- Vậy xin Ðại vương hãy ra đi khỏi kinh thành
và quốc độ này.
- Kàlahatthi, - vua đáp - ta không cần quốc
độ, ta sẵn lòng ra đi nhưng hãy
cho ta một ân huệ: hãy cho ta lấy thanh kiếm và người
đầu bếp của ta.
Do đó, họ cho vua lấy một cây kiếm, một cái
nồi để nấu thịt người, và một cái thùng cùng người
đầu bếp, họ đuổi vua ra khỏi xứ sở.
Ðem theo người đầu bếp, vua ra khỏi kinh thành,
đi vào rừng làm chỗ cư trú dưới gốc cây
đa. Khi sống ở đó vua thường đứng trên
con đường đưa vào rừng, và giết người,
đem xác về đưa cho người đầu bếp, y nấu thịt,
dọn lên và cả hai đều sống theo cách ấy.
Mỗi khi vua xông ra, hét lớn: "Ta đây là
tên cướp ăn thịt người!" không ai đứng vững
được nữa, họ đều ngã xuống đất, người nào
vua thích thì vua cứ tóm lấy, xách chổng ngược chân lên trời hay không
đều có thể cả, rồi đưa cho người đầu bếp.
Một hôm, vua không tìm ra người nào trong rừng cả khi về nhà, người
đầu bếp hỏi:
- Tâu Ðại vương, thế nào đây?
Vua bảo y đặt nồi lên lò lửa.
- Nhưng thịt đâu, tâu Ðại vương?
- Ồ ta sẽ tìm ra thịt mà. - Vua đáp.
Người đầu bếp suy nghĩ : "Thôi chết ta rồi?
" và vừa run rẩy, y vừa nhóm bếp và đặt
nồi lên lò. Sau đó kẻ ăn thịt người giết
y với một nhát kiếm và nấu thịt ăn. Từ
đó vua hoàn toàn cô độc và phải
nấu ăn cho mình.
Tiếng đồn vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề
(Ấn Ðộ): "Kẻ ăn thịt người kia giết hại
khách qua đường". Thời ấy có một vị Bà-la-môn giàu
đang đi buôn với năm trăm cỗ xe hàng hóa
từ Ðông sang Tây và suy nghĩ: "Dân chúng đồn
rằng kẻ ăn thịt người ấy giết người trên xa lộ. Ta sẽ
đi xuyên qua rừng này bằng cách trả tiền
mãi lộ".
Thế là ông trả một ngàn đồng tiền cho đám
dân sống ở lối đi vào rừng, dặn họ chở ông an toàn qua khu rừng rồi
lên đường cùng với họ. Ông
đặt cả đoàn xe
đi trước và sau khi tắm gội, xoa dầu
thơm và phục sức lộng lẫy, ông ngồi vào chiếc xe êm ái do
đôi bò trắng kéo, và
được cả đoàn hộ tống, ông khởi hành cuối
cùng.
Kẻ ăn thịt người trèo lên cây ngồi
rình đợi người, nhưng dù y không cảm
thấy thèm ăn bất cứ người nào trong
đoàn xe, vừa chợt thấy vị Bà-la-môn thì
nước miếng trong mồm y nhỏ ra vì thèm ăn thịt
vị ấy. Khi vị Bà-la-môn đến gần, y xưng
danh hiệu thét lớn:
- Ta là tên cướp ăn thịt người đây?
Vừa vung kiếm lên giống như một người tung cát mù mắt kẻ khác, y nhào tới
đoàn người và không ai có khả năng
chống cự lại y, mà tất cả đều ngã
sống soài xuống đất.
Vừa chụp lấy chân vị Bà-la-môn đang ngồi trên
chiếc xe êm ái kia, tên cướp ném ông lên lưng mình,
đầu dốc ngược xuống đất, đập mạnh vào
gót chân y trong khi kéo ông đi xa. Ðám
người kia đứng dậy kêu nhau:
- Này bạn hãy dậy mau lên. Ta đã nhận
một ngàn đồng tiền từ tay vị Bà-la-môn.
Ai trong bọn ta ra dáng nam nhi đây? Cả bọn ta
dù mạnh hay yếu, đều phải đuổi theo nó
một đoạn đường.
Họ đuổi theo y và kẻ
ăn thịt người dừng lại nhìn lui khi
không thấy ai, lại tiếp tục đi chầm chầm. Lúc
ấy một người bạo gan chạy hết tốc lực bắt kịp y. Khi thấy gã kia, kẻ
cướp nhảy lên một hàng rào, dẫm nhầm một mảnh gỗ cây keo nhô ra ở
đầu bàn chân khiến y bị thương, phải lê
bước trong khi máu rỉ ra từ vết thương.
Lúc ấy người đuổi theo thấy vậy liền nói:
- Chắc chắn ta đã làm y bị thương,
các bạn cứ bám sát theo, ta sẽ bắt được y.
Họ thấy y yếu sức quá liền họp sức đuổi bắt
y. Khi thấy mình bị đuổi theo y, kẻ cướp
thả vị Bà-la-môn và tìm cách thoát thân.
Ðám người hộ tống vị Bà-la-môn suy nghĩ ngay khi cứu
được ông: "Chúng ta phải làm gì với kẻ
cướp này nữa?", rồi quay về.
Còn kẻ ăn thịt người đi đến gốc đa, nằm
xuống giữa đám cây con và khấn vái thần cây này:
- Lạy nữ thần cây, nếu trong bảy ngày bà có thể làm lành vết thương của
ta, thì ta nguyện sẽ tẩm thân cây bằng máu lấy từ cổ họng của một trăm
lẻ một vương tử khắp cõi Diêm-phù-đề, và
treo ruột gan chúng quanh thân cây rồi dâng lễ tế
đàn bằng năm
loại thịt ngon ngọt.
Bấy giờ do y không có gì để ăn uống, thân
thể y hao mòn dần và trong bảy ngày, vết thương
đã lành. Y nhận thấy y lành bệnh là nhờ
nữ thần cây đa, và chỉ trong vài ngày, y
phục hồi sức mạnh bằng cách ăn thịt người, nên
y suy nghĩ: "Vị thần đã giúp
đỡ ta rất nhiều. Ta phải thực hiện lời thề
nguyện ấy".
Y cầm kiếm xông ra từ gốc cây và lên đường
với mục đích đem về các vương tử.
Bấy giờ, một thần Dạ-xoa, đã từng làm
bạn đường cùng
đi đây đó với y và cùng
ăn thịt người, vì trong một tiền kiếp, y
cũng đã là một Dạ-xoa, chợt trông thấy y
và biết rằng trong một tiền kiếp y chính là bạn mình, liền hỏi:
- Này bạn có nhận biết ta chăng?
- Ta không biết.
Sau đó Dạ-xoa kể cho kẻ cướp nghe một việc mà
cả hai đã cùng làm trong
đời trước, kẻ ăn thịt người nhận ra bạn và
chào hỏi ân cần. Khi được hỏi tái sinh thời nào,
ở đâu, y kể cho bạn nghe nơi sinh trưởng của mình,
trước kia đã bị
đuổi ra khỏi vương quốc ra sao và hiện
đang ở đâu. Y còn kể thêm cho bạn nghe y
đã bị thương vì mảnh gỗ như thế nào và
bây giờ y đang viễn du để giải lời thề với vị
nữ thần cây.
- Ta sẽ phải vượt qua nỗi gian khổ này nhờ sự trợ giúp của bạn: này bạn,
chúng ta hãy cùng đi. - Y nói.
- Ta không đi được, nhưng có việc này
ta có thể giúp bạn. Ta biết chắc chắn một lá bùa
đặc biệt có lời quý vô giá. Nó giữ vững sức
mạnh, tốc độ của đôi chân và tăng cường
uy lực. Hãy học bùa chú này.
Y đồng ý ngay và vị quỷ thần trao bùa
cho y rồi ra đi. Kẻ ăn thịt người học thuộc lòng
thần chú ấy, từ đó y đi nhanh như gió và
rất gan dạ. Trong vòng bảy ngày y tìm được một
trăm lẻ một vị vua đang đi trên đường
tới ngự viên và nhiều nơi khác, y chồm lên các vị ấy nhanh như gió
cuốn, xưng danh hiệu xong, y nhảy quanh và hét lớn khiến họ kinh hoảng. Rồi
y nắm lấy chân họ, dốc ngược đầu xuống đất,
mang đi thật nhanh như gió cuốn.
Kế đó, y đục lỗ trong lòng bàn chân
họ và treo họ lên bằng dây trên cây đa, gió
đánh lên họ khi họ vừa chạm đầu ngón
chân xuống đất, họ treo lủng lẳng trên cây, quay cuồng như chuỗi hoa
héo trong giỏ.
Nhưng kẻ ăn thịt người lại suy nghĩ:
"Sutasoma là thầy giáo riêng của ta. Ðừng
để cho toàn cõi Diêm-phù-đề
phải suy tàn". Vì thế y không mang vị ấy về.
Khi có ý định dâng lễ tế thần cây, y nhóm
lửa và ngồi xuống mài cọc nhọn. Vị nữ thần cây suy nghĩ: "Y chuẩn bị
dâng lễ tế đàn cho ta, nhưng không phải
chính ta đã chữa lành vết thương của y.
Nay y sắp làm một việc sát sinh trọng đại. Phải
làm gì đây? Ta không đủ khả năng ngăn
cản y".
Vì thế bà vội đi kể với Tứ Ðại Thiên
vương về sự việc này và xin các vị ngăn cản y.
Khi các vị đáp không thể làm việc ấy, bà
đến yết kiến Sakka Thiên chủ, kể cho ngài toàn thể câu chuyện và xin
ngài ngăn cản y. Ngài nói:
- Ta không thể làm việc ấy, nhưng ta sẽ chỉ cho ngươi một người có thể
làm được.
- Ðó là ai? Bà hỏi.
- Trong thế giới chư Thiên và loài người, không có ai khác ngoại trừ
Sutasoma, vương tử xứ Kuru ở trong kinh thành Indapatta. Ngài sẽ giáo hóa
cho y thuần thục, sẽ điều phục y để cứu mạng
các vua kia, chữa cho y khỏi bệnh ăn thịt người và tưới nước cam lồ
khắp cõi Diêm-phù-đề. Nếu ngươi muốn cứu mạng
các vua kia, hãy bảo y trước tiên phải
đem Sutasoma đến rồi dâng lễ tế đàn lên cây.
- Thật chí lý. - Vị thần đáp.
Rồi bà vội vàng ra đi, giả dạng một ẩn sĩ
đến gần kẻ ăn thịt người. Nghe tiếng chân, y nghĩ thầm: "Một vua nào
đó đã trốn thoát
được chăng?" Vừa nhìn lên thấy ẩn sĩ, y
lại nghĩ: "Các ẩn sĩ chắc chắn đều là
Sát-đế-lỵ (quý tộc). Nếu ta bắt được nó, ta sẽ
làm tròn con số một trăm lẻ một vua và
dâng lễ".
Y đứng lên mang kiếm trong tay
đuổi theo ẩn sĩ nhưng dù y
đã săn lùng
vị ấy suốt ba dặm đường, y vẫn không bắt kịp vị
ấy và mồ hôi đổ ròng ròng khắp tứ
chi. Y nghĩ thần: "Trước kia ta từng đuổi theo
và bắt được voi, ngựa hoặc xe chạy hết
tốc lực, nhưng hôm nay dù ta đã
chạy hết sức mình cũng không thể bắt được vị ẩn
sĩ này vẫn đang đi thật tự nhiên.
Vì lý do gì vậy?" Rồi y lại nghĩ: "Các ẩn sĩ thường có thói quen vâng lời:
nếu ta bảo vị ấy dừng lại và vị ấy làm theo, ta sẽ bắt lấy". Y liền kêu lớn:
- Thánh giả, hãy đứng lại:
- Ta đang đứng đây. - Vị ấy đáp - Ngươi cũng
thử đứng lại nào.
Y đáp:
- Ô kìa, các ẩn sĩ dù có phải cứu mạng mình cũng không nói dối, nhưng
ngài lại nói dối đấy.
Và y ngâm kệ:
23. Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,
Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,
Ngài lại thét: "Này! Ta đứng đó!"
Chắc là ngài nói dối ta đây.
Chuyện này quả thật không phù hợp.
Ẩn sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,
Ngài phải giả làm tên bất hại
Ðiểm lông chim hạc trắng, con mây.
Kế đó nữ thần đáp đôi vần kệ:
24. Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,
Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,
Cường gian đây sống đời phù phiếm,
Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.
25. Can đảm lên
đi, hỡi Chúa công,
Bắt So-ma vĩ đại anh hùng,
Ðem về đây để ngài dâng lễ
Sẽ đạt thiên
đường, có biết không?
Cùng với những lời này, nữ thần cởi lớp áo giả dạng ẩn sĩ và xuất lộ
nguyên hình, chói sáng giữa bầu trời như vầng nhật. Kẻ
ăn thịt người nghe bà nói và ngắm hình
dung bà, liền hỏi bà là ai. Khi nghe bà đáp bà
ra đời làm vị thần cây này, y thích thú
nghĩ thầm: "Ta đã trông cậy thần hộ mạng
của ta rồi" và nói:
- Thưa nữ thần tiên, xin đừng lo ngại về
Sutasoma, mà xin ngài hãy nhập vào thân cây lần nữa.
Vị thần nhập vào thân cây ngay trước mắt y. Vừa lúc ấy mặt trời lặn và
mặt trăng lên. Kẻ
ăn thịt người vốn tinh thông các kinh Vệ-đà
và các sách bổ sung vào kinh ấy, lại quen với cách vận hành của các thiên
thế, nên khi nhìn lên trời, y suy nghĩ: "Ngày mai sẽ có chòm sao Phussa xuất
hiện, Sutasoma sẽ đến tắm ở ngự viên và
ta sẽ ra tay với vua ấy". Nhưng vì vua ấy có một vệ sĩ lực lưỡng và dân
chúng khắp cõi Diêm-phù-đề sẽ đến hộ vệ vua
trong vòng ba dặm, vậy vào canh một trước khi vệ sĩ
đóng quân, ta sẽ đến ngự viên Migàcira,
xuống hồ hoàng gia và đứng đó".
Thế rồi y xuống hồ và đứng đó, che đầu bằng
ngọn lá sen. Do uy lực vĩ đại của y, các loài cá, rùa
đều lùi lại phía sau và bơi quanh từng
đàn lớn bên bờ nước. Ta có thể hỏi: Do
đâu y lại có cảnh vinh quang này? Ðó là
do lòng mộ đạo của y trong đời trước.
Vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), y bắt
đầu phân phát sữa theo phiếu. Nhờ vậy, y trở thành người rất có thế
lực, và sau khi bảo Tăng chúng dựng sảnh đường
để đốt lửa chống mùa lạnh, y cúng dường lửa, củi và cái rìu chẻ củi.
Do kết quả việc này, y rất nổi tiếng. Vì thế bây giờ, khi y vào ngự viên,
trời chỉ vừa rạng đông, quân sĩ đã canh
phòng suốt ba dặm đường chung quanh, còn
vua Sutasoma, sau buổi điểm tâm lúc sáng sớm, đã
ngự lên mình voi được tô điểm yên cương
thật lộng lẫy, với bốn đội quân hùng hậu
hộ giá tiến ra khỏi kinh thành.
Ngay lúc ấy, một Bà-la-môn tên Nanda đi từ
Takkasilà, mang theo bốn vần kệ, mỗi vần
đáng giá một trăm đồng tiền, vừa đến kinh thành sau cuộc hành trình,
dài một trăm hai mươi dặm, và trú ngụ ở
một vùng ngoại ô.
Vừa rạng đông, vị ấy vào thành thấy
vua đang ngự xa giá đi qua đông môn, liền giơ
tay lên hô lớn: "Vạn tuế Ðại vương!" Bấy giờ vua bị viễn thị, trong
khi đang cỡi voi, vua thấy cánh tay giơ lên
của vị Bà-la-môn đang đứng trên một mô
đất cao, liền tiến đến gần trên mình voi
vừa ngâm kệ vừa hỏi như sau:
26. Trẫm hỏi ngài sinh ở xứ nào,
Ðến đây, Ðạo sĩ hỡi, vì sao?
Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng
Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.
Kế đó vị Bà-la-môn đáp lời vua:
27. Bốn vần thi kệ, tấu Quân vương,
Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,
Mang đến đây, xin nghe thật kỹ
Cao siêu huyền bí thảy am tường.
Vị ấy tiếp:
- Tâu Ðại vương, bốn vần thi kệ này do đức
Phật Kassapa dạy tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Sau khi
nghe xong, nếu Ðại vương muốn dâng tế lễ nước trái cây soma, tiểu
thần sẽ đến chỉ dẫn Ðại vương.
Vua vô cùng hân hoan phán:
- Này Tôn sư, ngài khéo làm việc này lắm, nhưng hôm nay trẫm không trở về
triều được. Hôm nay là ngày giao hội của
chòm sao Phussa, là ngày trẫm đi gội đầu. Khi
trở về, trẫm sẽ nghe lời ngài. Xin đừng
phật ý vì trẫm.
Cùng với những lời này, vua ra lệnh đám quần
thần:
- Các khanh đến nhà một Bà-la-môn nào
đó chuẩn bị một sàng tọa và sắp
đặt một nơi ăn dưới mái hiên.
Xong vua đi vào ngự viên. Khu vườn
được bao bọc bởi một tường thành cao
mười tám cubit (1 cubit: 45cm) và được bầy voi
canh phòng chung quanh đứng kề sát nhau.
Kế tiếp là bầy ngựa, đoàn xe,
cuối cùng là đám xạ thủ và các bộ binh
khác; thật giống như cả đại dương dậy sóng là
đạo quân được di chuyển đến đây.
Sau khi đã trút bỏ các vật trang sức
nặng nề và được cạo râu, gội đầu với dầu thơm
rồi, vua đi tắm hồ sen trong dáng diện uy nghi cao quý, và khi bước
ra khỏi nước, vua đứng đó trong bộ áo tắm, quân
hầu liền đem vòng hoa thơm ngát đến
trang điểm cho ngài.
Kẻ ăn thịt người suy nghĩ: "Khi đã
phục sức đầy đủ, nhà vua hẳn sẽ nặng
lắm. Ta muốn bắt lấy vua khi còn nhẹ để mang
đi". Thế rồi vừa thét lớn vừa nhảy quanh và vung kiếm trên
đầu nhanh như chớp, y xưng danh hiệu xong liền
nói to:
- Này, ta đây là kẻ cướp
ăn thịt người.
Rồi đặt ngón tay trên trán vua, y
bước ra khỏi nước.
Ngay khi nghe tiếng thét, các quản tượng cùng
đàn voi, các kỵ mã cùng
đàn ngựa, các quản xe cùng
đàn xe đều
ngã xuống đất, cả đoàn quân sĩ
đều thả vũ khí đang cầm và nằm sát xuống
bụng.
Kẻ ăn thịt người chụp lấy Sutasoma dựng ngài
thẳng đứng lên. Tất cả
đám vương tử trước kia, y đều bắt lấy từ bàn
chân và dốc ngược đầu xuống đất, rồi kéo lê
họ đi khiến đầu họ đập vào gót chân y,
nhưng nay đến gần Bồ-tát, y cúi xuống nhắc ngài
lên và đặt trên vai mình.
Nghĩ rằng có lối đi quanh qua cổng thành,
y nhảy lên bức thành cao mười tám cubit, ngay tại
điểm đối diện con đường ấy, y vừa tiến lên
vừa dẫm chân lên trán bầy voi làm rỉ ra chất dịch, lật nhào chúng xuống như
thể các đỉnh núi. Kế đó y dẫm chân lên
lưng bầy ngựa, dù thường ngày chúng nhanh như gió và quý vô cùng, rồi cũng
đạp chúng ngã xuống
đất.
Sau đó, y bước lên mặt trước của các
cỗ xe lộng lẫy chẳng khác gì người quay con vụ (con cù), hay như thể người
dẫm nát cây phalaka xanh biếc hay đám lá bàng,
và thoắt một cái, y đã chạy xa ba dặm.
Rồi muốn biết có ai chạy theo để cứu
Sutasoma không, y nhìn lên và thấy không ai, y lại
đi chầm chậm. Khi nhận ra những giọt nước rơi
xuống mình từ tóc Sutasoma, y nghĩ thầm: "Không ai sống mà khỏi sợ
chết. Chắc có lẽ Sutasoma cũng đang khóc vì
sợ đấy", và y ngâm kệ:
28. Những bậc uyên thâm, các trí nhân
Tư duy cao cả phát sinh luôn,
Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú
Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.
29. Có phải vợ con hoặc họ hàng,
Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,
Ðã làm lệ chảy, So-ma hỡi,
Ðại đế Ku-ru, đáp rõ ràng.
Sutasoma đáp:
30. Không khóc gì cho chính bản thân,
Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,
Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,
Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.
31. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ
Danh dự cứu xong, trở lại ngài!
Kẻ ăn thịt người đáp lại:
32. Ta chẳng tin rằng có thế nhân
Vận may thoát móng tử ma thần,
Trở về nộp mạng cho cừu địch,
Nếu để ngài đi, chẳng phục hoàn.
33. Thoát kè sát nhân ác, trở về
Hoàng cung, mộng ước đẹp tràn trề,
Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn
Hồi phục cho ngài phải đắm mê.
Vì lý do gì trên thế giới
Mà ngài trở lại với ta hề?
Khi nghe lời này, bậc Ðại Sĩ vẫn gan dạ như sư tử,
đáp:
34. Vô tội, con người thích chết hơn
Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,
Nếu vì cứu mạng, buông lời dối
Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.
35. Gió có thể lay chuyển núi cao,
Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,
Thưa ngài, và mọi dòng sông cạn,
Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.
Dù Ngài nói vậy, kẻ ăn thịt người vẫn không
tin ngài. Do đó, Bồ-tát suy nghĩ: "Kẻ này
không tin ta; ta quyết làm cho y tin bằng một lời thề", và bảo:
- Thưa Tôn giả ăn thịt người, xin hãy
thả ta xuống khỏi lưng, ta sẽ thề nguyền khiến ngài tin ta.
Sau những lời này, ngài được kẻ ăn thịt
người đưa xuống, đặt trên mặt đất và
ngài phát nguyện:
36. Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,
Thề nguyện trang nghiêm trước mặt ngài,
Hãy thả ta và ta thoát nợ,
Cứu xong danh dự, trở về đây.
Lúc ấy kẻ ăn thịt người nghĩ thầm: "Vua
Sutasoma này thề chịu hình phạt nếu vi phạm luật lệ dòng Khattiya
(Sát-đế-lỵ, võ tướng). Ta còn muốn gì
với vị ấy nửa? À, ta cũng là một vua Sát-đế-lỵ.
Ta sẽ lấy máu từ chính cánh tay mình và tế lễ thần cây. Ðây thật là
một chàng trai rất nhát gan". Rồi y ngâm kệ:
37. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ngài trị nước với quyền oai,
Lời kia, ta phải bắt ngài giữ,
Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.
Sau đó bậc Ðại Sĩ nói:
-Này Hiền hữu, xin chớ phật lòng. Sau khi ta
đã nghe bốn vần kệ kia, mỗi vần đáng giá
một trăm đồng tiền, và dâng lễ cúng dường vị Pháp sư xong, ta sẽ trở
lại vào lúc rạng đông.
Và ngài ngâm kệ này:
38. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ,
Danh dự cứu xong, trở lại ngài.
Kẻ ăn thịt người đáp:
- Ngài đã thề chịu hình phạt nếu vi
phạm phong tục của dòng Sát-đế-lỵ. Ngài
hãy cẩn thận hành động cho đúng phép.
Ngài nói:
- Này hiền hữu ăn thịt người, ngài
đã biết ta từ bé: trước kia ta chưa bao
giờ nói dối dù để đùa chơi, còn nay ta
đã được lên
ngai vàng và biết điều phải trái thì sao
ta nói dối được? Hãy tin ta, ta sẽ dâng
lễ vật tế đàn cho hiền hữu.
Ðược thúc giục phải tin tưởng ngài, y đáp:
- Thôi được, Ðại vương hãy ra
đi, và nếu Ðại vương không trở lại thì
sẽ không có tế lễ và thần cây cũng không chấp nhận lễ nếu không có Ðại
vương. Vậy đừng làm trở ngại việc dâng
lễ của ta.
Rồi y để bậc Ðại Sĩ ra
đi.
Giống như mặt trăng thoát khỏi móng vuốt của
thần Rahu (La-hầu) và với sức mạnh của một chú voi còn trẻ, ngài
nhanh chân về đến kinh thành.
Còn đám quân sĩ của ngài suy nghĩ:
"Ðại vương Sutasoma là bậc hiền trí và là vị Pháp sư tuyệt hảo. Nếu Ngài có
thể nói một hai lời với y, ngài sẽ cảm hóa y và trở về như con voi dũng mãnh
thoát khỏi mồm sư tử". Rồi họ lại nghĩ: "Dân chúng sẽ khiển trách chúng ta
và nói: Sau khi bỏ mặc đức vua của các ông cho
kẻ ăn thịt người, các ông còn trở lại với bọn này ư?"
Vì thế họ cắm trại ngoài kinh thành và khi chợt thấy ngài từ xa
đi đến, họ bước ra đón ngài,
đảnh lễ ân cần và thưa:
- Tâu Ðại vương, ngài không khiếp sợ kẻ ăn
thịt người ấy ư?
Ngài đáp:
- Kẻ ăn thịt người ấy đã làm một việc
khó khăn hơn bất cứ việc gì song thân ta
đã làm. Là một kẻ hung tàn bạo ngược như
vậy mà sau khi nghe ta thuyết Pháp, y đã
để ta đi.
Sau đó, quân hầu trang điểm xiêm y
cho ngài xong, đưa ngài lên lưng voi và
hộ tống ngài về kinh. Khi thấy ngài, dân chúng hân hoan, và do lòng nhiệt
thành của ngài đối với Pháp, ngài không
đi viếng song thân mà lại nghĩ: "Ta sẽ
thăm cha mẹ sau", và ngài vào cung
điện ngự lên ngôi báu.
Rồi ngài triệu vị Bà-la-môn đến, ra lệnh cạo
râu cho ông, sau khi râu tóc được tỉa xong, ông được tắm rửa, xoa dầu thơm và
phụ sức xiêm y lộng lẫy và họ đưa ông đến trước
ngôi vua.
Khi vị Bà-la-môn đã
được đưa vào yết kiến, chính vua
Sutasoma cũng đi tắm gội, sau đó và ra
lệnh đem ngự thiện của ngài dâng vị
Bà-la-môn. Ðến khi vị Bà-la-môn đã thọ
thực xong, chính vua mới dùng phần ngự thiện ấy.
Sau đó, ngài
đặt vị Bà-la-môn lên một bảo tọa và
để tỏ lòng tôn kính, ngài cúng dường vị
ấy các tràng hoa thơm cùng các lễ vật tương tự, rồi chính ngài ngự trên một
bảo tọa thấp và thỉnh cầu vị kia:
- Thưa Tôn sư, chúng ta muốn nghe các vần kệ mà Tôn sư
đã đem đến
cho chúng ta.
*
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn
đề:
39. Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,
Ðến Ðạo sĩ, người bạn thiết thân,
Ngài bảo: "Chúng ta đều ước muốn
Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,
Nếu ngài chiếu cố ban lời dạy,
Lợi lạc chúng ta được hưởng phần".
*
Khi Bồ-tát thỉnh cầu, vị Bà-la-môn liền rửa tay với nước hoa rồi rút ra
một quyển sách đẹp từ túi xách, cầm sách cả hai
tay và nói :
- Tâu Ðại vương, xin hãy nghe bốn vần kệ của tiểu thần, mỗi vần
đáng giá một trăm đồng tiền. Chúng đã
được đức Phật Kassapa dạy cho tiểu thần. Chúng
có đặc tính hủy diệt tham đắm, kiêu mạn và các ác hạnh tương tự,
chúng tạo cho con người khả năng tiêu
trừ dục vọng, an tịnh các căn, thậm chí đưa đến
Niết-bàn có uy lực vĩnh cửu, đoạn diệt
khát ái, chặt đứt vòng luân hồi và nhổ tận gốc chấp thủ.
Cùng với những lời này, ông nhìn vào sách và ngâm các vần kệ sau:
40. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
41. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
42. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
43. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Ðạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
*
Như vậy vị Bà-la-môn đã dạy ngài bốn
vần kệ, mỗi vần trị giá một trăm đồng, đúng như
trước kia đã được đức Phật Kassapa
thuyết giảng, rồi ông ngồi yên lặng. Bậc Ðại Sĩ rất hoan hỷ nghe kệ
và bảo:
- Chuyến đi của ta về đây không phải là
không được phần thưởng xứng đáng.
Rồi ngài suy nghĩ: "Những vần kệ này không phải chỉ là lời của một
đệ tử hay một Thánh nhân, cũng không phải là
tác phẩm của một thi sĩ, mà đó chính là
do một đấng Toàn Tri Kiến nói ra; ta
không biết chúng đáng giá ra sao. Dù ta
có dâng toàn thế giới trải dài lên tận cõi trời Phạm thiên, sau khi chất
đầy cả thế giới ấy với bảy báu vật, ta cũng
không thể đền đáp xứng đáng những vần kệ này. Chắc chắn ta có thể
trao vương quyền cho vị ấy tại kinh thành Indapatta rộng bảy dặm trong
đất nước Kuru trải dài hơn ba trăm
dặm này. Dĩ nhiên số phần vị ấy xứng
đáng làm vua".
Nhưng khi nhìn ông với khả năng tiên
đoán tương lai của một người theo hình
dáng bề ngoài, ngài không thấy các dấu hiệu như thế. Rồi ngài lại nghĩ
đến ông với chức vụ đại tướng quân hay những
chức vụ tương tự, nhưng cũng không thấy ông có tướng cầm đầu dù chỉ
một ngôi làng nhỏ.
Kế đó, khi xem xét trường hợp hưởng thọ tài
sản, bắt đầu từ mười triệu đồng, ngài
thấy vị ấy đáng được hưởng bốn ngàn
đồng, và nghĩ cách làm vinh dự vị ấy với
chỉ số tiền này thôi, ngài ban tặng vị ấy bốn cái túi, một túi
đựng một ngàn
đồng tiền và bảo:
- Thưa Tôn sư, khi ngài dạy các vương tử khác những vần kệ này, ngài nhận
được bao nhiêu?
-Tâu Ðại vương, mỗi vần một trăm đồng vậy
chúng chỉ đáng giá một trăm thôi.
Bậc Ðại Sĩ bảo:
- Thưa Tôn sư, ngài không biết tính chất vô giá của món hàng mà ngài
đem bán đâu. Từ nay phải xem là chúng
đáng giá một ngàn
đồng tiền.
Nói vậy xong, ngài ngâm kệ này:
44. Các kệ này không chỉ bốn trăm,
Ðúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,
Bốn ngàn đây, Ðạo Sư, cầm lấy,
Ðem chúng đi ngay, hãy vội vàng.
Sau đó ngài
đưa vị ấy đến một cỗ xe êm ái và ra lệnh
cho quan hầu:
- Hãy đưa vị Bà-la-môn này về nhà an
toàn.
Rồi ngài bảo ông đi về. Lúc này có
tiếng tung hô tán thán nổi lên cùng tiếng kêu lớn:
- Hoan hô! Hoan hô! Ðại vương Sutasoma đã
tôn vinh các vần kệ này rất trọng thể, khi nghĩ rằng mỗi vần kệ
đáng giá một ngàn
đồng tiền mà trước kia chỉ
đáng giá một trăm.
Song thân của vua nghe tiếng ồn, hỏi chuyện gì, và khi nghe sự thật của
việc ấy, do lòng tham lam, hai vị nổi giận với bậc Ðại Sĩ. Còn ngài, sau khi
cho vị Bà-la-môn ra về, liền đến thăm song thân
và đảnh lễ hai vị. Sau đó, phụ vương
bảo:
- Này vương nhi, con đã thoát khỏi
tay của kẻ được xem là tướp cướp hung
bạo.
Rồi thay vì lộ vẻ vui mừng khi thấy ngài, do lòng tham tiền, vua cha hỏi:
- Có thật chúng nói con ban bốn ngàn đồng
tiền vì nghe bốn vần kệ chăng?
Khi nghe ngài thú nhận là đúng, vua cha ngâm
kệ này:
45. Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,
Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,
Song hởi So-ma, nên tự chủ,
Một ngàn là giá kệ chưa từng!
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ muốn thúc giục vua cha nhìn sự vật theo cách khác, liền
nói:
- Tâu phụ vương, chính là con không muốn tăng
thêm tài sản, mà tăng thêm kiến
thức thôi.
Và ngài ngâm các kệ này:
46. Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,
Bầu bạn thiết thân với Thánh nhân,
Chẳng có sông nào đầy biển cả,
Thiện ngôn con học mãi không cùng.
47. Như lửa khát khao réo củi rơm,
Biển đòi sông, lạch
đổ nhiều hơn,
Hiền nhân cũng vậy, tâu Hoàng thượng,
Khao khát nghe lời nói thiện chơn.
48. Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe
Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,
Lời kia con nhận đầy cung kính,
Ðạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.
Sau khi nói vậy xong, ngài bảo:
- Xin phụ vương đừng chỉ vì tiền mà
trách móc con. Con đã về
đây, sau khi thề nguyền rằng con sẽ trở lại đó
khi đã nghe Pháp xong. Nay con sẽ trở lại với quái nhân kia, xin phụ
vương nhận lấy vương quyền.
Ngài trao chủ quyền cho phụ vương và ngâm kệ:
49. Ðất nước của cha lắm bạc vàng,
Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,
Sao còn khiển trách khi con bỏ
Dục lạc, chết vào tay sát nhân?
Lúc này tim vua cha nóng rực lên và ngài bảo:
- Này, vương nhi Sutasoma yêu quý, con nói gì thế? Cha sẽ
đi cùng tất cả bốn
đạo quân và sẽ bắt
được kẻ cướp ấy.
Rồi ngài ngâm kệ:
50. Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!
Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,
Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,
Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!
Lúc ấy phụ vương mẫu hậu ngài, mắt đẫm lệ,
năn nỉ ngài:
- Này vương nhi, chớ đi, con không thể đi
được.
Rồi mười sáu ngàn cung nữ ca múa cùng đám
cận thần than khóc:
- Tâu Ðại vương, sao Ðại vương nở đến đó, bỏ
chúng thần bơ vơ?
Và khắp kinh thành, không ai giữ được niềm
xúc động, họ bảo nhau:
- Người ta nói ngài đã trở về
đây sau khi đã hứa lời với kẻ
ăn thịt người; giờ đây ngài
đã nghe bốn vần kệ, mỗi vần
đáng giá một trăm đồng, và
đã bày tỏ lòng cung kính trọng thể
đối với vị Pháp sư, cùng từ giã song
thân, ngài sẽ quay lại lần nữa với kẻ ăn thịt
người ấy.
Rồi cả kinh thành náo động dữ dội. Còn
ngài khi nghe cha mẹ bảo thế, liền ngâm kệ này:
51. Hành động cừu nhân ăn thịt người
Bắt con, rồi thả, thật cao vời,
Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,
Ðã hứa, làm sao con nuốt lời?
Ngài lại an ủi song thân:
- Phụ vương và mẫu hậu yêu quý, xin đứng lo
âu vì con. Con đã làm một việc
công đức, nên việc
điều phục ngũ dục tham không phải là vấn
đề khó khăn gì
đâu.
Vừa từ giã song thân, ngài vừa khuyến giáo quần chúng và ra
đi.
*
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
52. Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,
Chân thành nhắn nhủ cả quân, dân,
Giữ lời thệ ước, không lừa dối,
Vội trở về bên kẻ sát nhân.
*
Lúc ấy kẻ ăn thịt người suy nghĩ: "Nếu hiền
hữu Sutasoma của ta muốn trở về, thì cứ
để bạn trở về, không thể khác được, và mặc vị thần cây muốn làm gì
tùy ý, còn ta sẽ giết các vương tử này và dâng tế lễ tế
đàn bằng thịt của chúng với năm
món ngon ngọt nữa".
Thế rồi kẻ ấy chất đống củi hỏa thiêu
và châm lửa, nghĩ rằng phải đợi cho đến khi
than nóng đỏ lên. Trong lúc y ngồi mài cái xiên thịt thì Sutasoma
đến.
Vừa thấy ngài, kẻ ăn thịt người vui mừng
trong lòng, liền hỏi:
- Này Hiền hữu, bạn đã
đi làm được
những gì bạn muốn rồi chứ?
Bậc Ðại Sĩ đáp:
- Thưa vâng, này Ðại vương, ta đã
nghe những vầng kệ do đức Phật Kassapa dạy vị Bà-la-môn
kia, ta đã tỏ lòng tôn kính trọng thể
đối với vị Pháp Sư và vì thế ta
đã trở lại sau khi làm xong việc ta cần
làm.
Ðể chứng minh điều này, ngài ngâm kệ:
53. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Nay ta đã trọn lời thề ước,
Danh dự cứu xong, trở lại rồi.
Vậy hãy giết ta và tế lễ
Dâng thần cây gỗ của nhà ngài,
Hay là thỏa mãn lòng tham muốn
Ðộc ác bạo hung với thịt người!
Nghe lời vầy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ:
"Vua này không sợ, vị ấy nói lên với lòng
đã xua tan mọi nỗi kinh hoàng chết chóc.
Ta muốn biết uy lực này phát xuất từ đâu. Không
thể có gì khác được. Vị ấy nói: "Ta đã
nghe các vần kệ mà đức Phật Kassapa dạy bảo.
Chắc hẳn uy lực siêu phàm này phát xuất từ
đây. Ta sẽ bảo vị ấy ngâm kệ này cho ta
nghe và do đó ta cũng sẽ thoát bất cứ nỗi sợ hãi
nào".
Khi đã quyết
định như vậy xong, y ngâm kệ này:
54. Dù ta trì hoãn một hai ngày,
Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,
Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,
Thịt quay than nóng thật ngon thay!
Các vần kệ giá trăm đồng chẵn
Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!
Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Kẻ ăn thịt
người này là kẻ phạm tội ác. Ta sẽ khiển trách y
đôi lời và làm y biết ô nhục vì những
lời của ta". Ngài liền bảo:
55. Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,
Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,
Vần kệ dạy cho ta Chánh lý,
Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?
56. Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,
Bàn tay đã nhúng máu
đầy tràn,
Lợi gì Thánh kiến này đem đến,
Phát xuất từ đâu lẽ Chánh Chân
Cho dù được nghe nói các lời này, kẻ
ăn thịt người cũng không tức giận. Vì
sao vậy? Ðó là do uy lực từ tâm của bậc Ðại Sĩ. Vì thế y nói:
- Này Hiền hữu Sutasoma, chỉ một mình ta là bất chánh thôi sao?
Và y ngâm kệ:
57. Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng
Ðể làm thành món thịt thơm lừng,
Và người kia giết người đồng loại
Lấy thịt bà con để nấu ăn,
Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,
Sao riêng ta bị trách cùng hung?
Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ ngâm kệ này để phá tan
tà kiến ấy:
58. Trong ngũ thú, loài có móng, răng,
Khôn ngoan, vương tử cứ dùng ăn,
Còn ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,
Này Ðại vương ôi, thật bạo hung!
Khi nghe lời khiển trách trên, y thấy không còn
đường nào thoát
được cả, liền cố tìm cánh che dấu tội
lỗi của mình và ngâm kệ:
59. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,
Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,
Sao còn nộp mạng cho cừu địch,
Ngài chắc tinh thông đạo lý trời?
Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ đáp:
- Này hiền hữu, một người như ta chắc hẳn phải thông thạo kiến thức
truyền thống Khattiya (Sát-đế-lỵ: võ
tướng, quý tộc). Ta hiểu rõ lắm chứ, nhưng ta không hướng dẫn hành
động của ta theo đó.
Và ngài ngâm kệ:
60. Ai thông đạo Khat-ti-ya vầy,
Ðều xuống ngục sâu sống đọa đày,
Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,
Theo lời đã hứa, trở về đây.
Hãy làm tế lễ và ăn thịt
Ta trọn, Ðại vương khủng khiếp này.
Kẻ ăn thịt người hỏi:
61. Ðất rộng, cung đình, bò, ngựa,
trâu,
Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,
Ðại vương đầy đủ bao điều ấy,
Chánh pháp ngài tìm hạnh phúc đâu?
Bồ-tát đáp lại:
62. Mọi lạc thú mà cõi thế gian
Tặng ta, chẳng có thú nào hơn
Niềm vui Chánh pháp ta tìm thấy:
Ẩn sĩ, La-môn vẫn trú an
Trong đạo Chánh chân và giải thoát
Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.
Như vậy bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng
cho kẻ ấy về hạnh phúc trong Chánh pháp. Lúc ấy kẻ
ăn thịt người, nhìn vào mặt ngài sáng
rực rỡ như đóa sen nở hay vầng trăng tròn
đầy, lại suy nghĩ: "Vua Sutasoma này
thấy ta đang sửa soạn một đống than hồng và
mài nhọn cái xiêng nướng thịt, tuy nhiên không hề tỏ ra chút mảy may sợ hãi.
Có thể đây là thần lực của các vần kệ
đáng giá một trăm đồng kia hay là nó
phát xuất từ một chân lý nào khác? Ta sẽ hỏi vị ấy". Và y ngâm kệ theo hình
thức câu hỏi:
63. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người
Về cung, tràn mộng ước xin tươi,
Sao còn trở lại thăm thù
địch?
Vương tử chắc không sợ chết rồi,
Ðể giữ trọn lời ngài đã hứa,
Bỏ qua dục lạc ở trên đời.
Bậc Ðại Sĩ đáp lại:
64. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
Lễ dồi dào được danh tiếng lừng vang,
Ðến đời sau, ta giữ thẳng con đường,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
65. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công
đức,
Lễ dồi dào được danh vọng vẻ vang,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
66. Song thân, ta đã thương yêu khắng khít,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Ðến đời sau ta chọn lối quang vinh,
Ai sợ chết khi trú an Ðạo giáo?
67. Song thân, ta đã phụng thờ chu
đáo,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên
đình,
Hãy tế lễ và xé mồi ngon ngọt.
68. Ta phục vụ đám thân bằng quyến thuộc,
Cai trị công bình được mọi người khen,
Không ăn năn, ta chọn lối thăng thiên,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn gấp.
69. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp:
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan
Ðến đời sau, ta chọn lối thiên
đàng,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
70. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp,
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan,
Không ăn năn, ta tiến tới thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
Nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: "Vua
Sutasoma này là bậc thiện nhân tài trí: giả sử ta
ăn thịt vị ấy, sọ đầu ta sẽ vỡ ra bảy mảnh,
hoặc quả đất sẽ há miệng nuốt ta mất", và y hoảng sợ nói:
- Này Hiền hữu, bạn không phải hạng người mà ta phải
ăn thịt đâu.
Và y ngâm kệ:
71. Thuốc độc kẻ nào uống chủ tâm,
Ðộc xà hung bạo, lấy tay cầm,
Tan thành bảy mảnh ngay đầu nó,
Người chẳng dối lời, lại dám ăn!
Y nói với bậc Ðại Sĩ như vầy:
- Ta chắc bạn như thể là thứ thuốc độc chết
người, ai dám ăn bạn chứ?
Và nóng lòng muốn nghe các vần kệ, y van xin ngài ngâm kệ cho y. Nhưng
khi muốn tỏ lòng cung kính cao trọng đối với
đạo Thánh hiền, lời thỉnh cầu của y bị bậc Ðại Sĩ từ chối vì lý do
rằng y không phải là kẻ xứng đáng nhận vần kệ
đầy đạo đức vẹn toàn như vậy, y tự nhủ: "Khắp cõi Diêm-phù-đề
(Ấn Ðộ) không có vị hiền nhân nào như thế này, vì khi vị ấy thoát
được tay ta, vị ấy đi về nghe kệ, và sau
khi bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị
Pháp sư, vị ấy trở lại đây với dấu hiệu thần chết in trên trán. Các
vần kệ này chắc hẳn có giá trị siêu phàm". Lòng y vẫn tràn
đầy ước vọng cung kính nghe kệ ấy, y van xin
bậc Ðại Sĩ và ngâm kệ này:
72. Những người nghe giáo lý như chân,
Thiện, ác sẽ mau chóng biệt phân,
Có lẽ nếu nghe vần kệ ấy,
Tâm ta sẽ hỷ lạc vô ngần.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Nay kẻ ăn thịt
người mong muốn nghe kệ: ta sẽ ngâm kệ cho y", và ngài nói:
- Thôi được, này hiền hữu, hãy lắng
nghe thật kỹ.
Sau khi đã làm kia chú ý, ngài ngâm
nga các vần kệ đúng như ngài
đã được Bà-la-môn
Nanda thuyết giáo, trong lúc chư Thiên thần ở sáu cõi trời Dục giới
đều đồng thanh hô lớn và Thiên chúng
đều hoan nghênh tán thán, bậc Ðại Sĩ
thuyết Pháp cho kẻ ăn thịt người như vầy:
73. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
74. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
75. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
76. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Ðạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
Nhờ các vần kệ được bậc Ðại Sĩ khéo
ca tụng và cũng chính vì kẻ ăn thịt người có
trí khôn ngoan, y nghĩ thầm: "Quả thật các vần kệ này là lời của
đức Phật Toàn Tri kiến". Và toàn thân y
rúng động vì năm
thứ hỷ lạc, y cảm thấy một niềm từ ái đối với Bồ-tát và nhìn ngài
theo cách một người cha sẵn sàng ban chiếc lọng trắng của hoàng gia cho con
mình. Rồi y lại nghĩ: "Ta không có tặng vật bằng vàng ròng
để tặng Sutasoma, nhưng ta sẽ ban một điều ước
cho mỗi vần kệ ấy". Và y ngâm kệ:
77. Ý nghĩa chứa chan, giọng sáng trong,
Lọt tai, vương tử, các chân ngôn,
Tâm ta hoan hỷ, ta thích thú,
Muốn tặng bạn hiền bốn đặc ân.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ lại quở trách y:
- Này quả thật còn điều ước nào bạn
muốn ban cho ta nữa ư?
Và ngài ngâm kệ:
78. Người chẳng biết gì phận bản thân,
Ðiều lành, điều ác chẳng hề phân,
Chẳng phân địa ngục cùng thiên giới,
Nô lệ cho lòng dục hám ăn,
Sao kẻ đê hèn như bạn vậy
Biết ban ân huệ đến tha nhân?
79. Nếu bảo:"Cho ta ân huệ này",
Rồi ngài lấy lại lời thề ngay,
Ai khôn ngoan muốn đành lòng chịu
Liều lĩnh phân tranh vậy hỡi ngài?
Kẻ ăn thịt người tự nhủ: "Vị ấy không tin
ta. Ta muốn làm vị ấy tin", rồi y ngâm kệ:
80. Chẳng ai đòi tặng một hồng ân,
Rồi lại nuốt lời hứa, giả nhân,
Bạo dạn chọn hồng ân, hỡi bạn,
Dù ta mất mạng, vẫn ban phần.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Kẻ này nói như một vị anh hùng và hứa làm
những gì ta nói, ta sẽ nhận lời đề nghị của y.
Nhưng nếu ta chọn ngay điều ước đầu tiên là y phải chừa
ăn thịt người, chắc y sẽ đau lòng lắm.
Vậy trước hết ta sẽ chọn ba điều ước khác, sau
đó sẽ chọn điều này", và ngài ngâm kệ:
81. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân
Ta nguyện cầu ngài luôn tráng kiện,
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Ðây lời cầu nguyện đầu tiên vậy,
Ta muốn ngài ban tặng đặc ân.
Kẻ ăn thịt người nghe vậy, suy nghĩ: "Người
này, dù ta đã
đẩy ra khỏi vương quyền, nay vẫn cầu chúc
trường thọ cho ta, một kẻ cướp lừng danh thèm khát thịt người và muốn
làm hại vị ấy. Ôi! Thật là một người đầy thiện
ý đối với ta". Y thấy lòng hân hoan, mà không biết rằng lời ước này
được chọn để đánh lừa y và sẽ có lợi cho
ngài, y liền ngâm kệ ban lời ước:
82. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân.
Ngài nguyện cầu ta luôn tráng kiện
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Trước lời cầu nguyện đầu tiên ấy
Hoan hỷ ta ban tặng đặc ân.
Tiếp theo, Bồ-tát nói:
83. Các vua bị bắt dưới tay ngài
Nhiều nước phong vương, quán đảnh rồi,
Những vị vua hùng trên cõi đất
Chớ nên ăn thịt, Ðại vương ôi!
Ðây là điều kế ta cầu khẩn
Như một lời nguyền ước thứ hai.
Như vậy trong khi lựa chọn đặc ân thứ hai ngài
đã đạt ước
nguyện đem lại mạng sống cho hơn một trăm vị vua Sát-đế-lỵ, và kẻ
ăn thịt người ngâm kệ ban ngài
điều ước ấy:
84. Các vua bị bắt dưới tay ta
Nhiều nước phong vương, quán đảnh xưa,
Những vua hùng mạnh, ta thề nguyện,
Ta sẽ không ăn thịt nữa mà.
Ước thứ hai này ta cũng tặng
Thể theo lời bạn nguyện cầu ta.
Như thể các vị vua ấy có nghe được những gì
hai vị này nới chăng? Họ chẳng nghe được gì
cả vì khi kẻ ăn thịt người châm lửa, và
sợ khói lửa làm hại cây, y bước lùi một khoảng xa cây ấy. Bậc Ðại Sĩ
đàm luận với y, ngồi ở khoảng giữa cây
và đống lửa, cho nên các vua không nghe
mọi chuyện hai vị nói, mà chỉ nghe một phần và an ủi lẫn nhau:
- Thôi đừng sợ hãi, nay Sutasoma
đang cải hóa kẻ ăn thịt người.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ:
85. Hơn trăm vua ấy bị ngài giam
Ðều bị trói tay, lại khóc than,
Xin trả mỗi người về cố quốc,
Ðệ tam ân huệ, ước ngài ban.
Như vậy trong khi chọn điều ước thứ ba, bậc
Ðại Sĩ xin cho các vị vua được phục hồi
quê quán, mỗi vị về vương quốc mình. Tại sao vậy? - Bởi vì kẻ
ăn thịt người kia, giả sử không ăn thịt họ,
nhưng vì sợ các vua thù oán y, sẽ giam cầm họ lại và bắt họ ở trong
rừng hoặc giết họ rồi phơi thây, hoặc đem họ ra
vùng biên địa bán làm nô lệ. Do
đó ngài chọn
điều ước cho các vua phục hồi cố quốc, và
kẻ ăn thịt người ngâm kệ chấp thuận lời thỉnh
cầu này:
86. Hơn trăm vua ấy bị ta giam,
Ðều bị trói tay, lại khóc than,
Ta sẽ phục hồi về cố quốc,
Ðệ tam ân huệ được ta ban.
Bấy giờ Bồ-tát ngâm kệ chọn điều thứ tư:
87. Vương quốc hãi kinh, hóa dại cuồng,
Trốn ngài, dân chúng ẩn trong hang,
Thịt người, Chúa thượng, xin kiêng ky,
Ấy nguyện thứ tư, ước được ban.
Khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người vỗ
tay cười lớn:
- Này Hiền hữu Sutasoma, quả thật đây là
điều bạn muốn nói không? Làm sao ta có
thể ban cho bạn đặc ân này chứ? Nếu bạn
muốn nhận một đặc ân khác, thì hãy chọn
một điều nữa đi.
Rồi y ngâm kệ này:
88. Ta thấy món này, hợp vị ta,
Nếu ta ẩn náu chốn rừng già,
Làm sao lạc thú ta kiêng kỵ,
Nguyện ước thứ tư, chọn lại mà!
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:
- Vì ngài thích thịt người nên ngài nói: "Ta không thể từ bỏ nó
được". Người nào làm ác chỉ vì thú vui
thì thật là kẻ ngu si.
Và ngài ngâm kệ:
89. Vua chúa như ngài chẳng được chơi,
Hy sinh cuộc sống chỉ vì vui.
Hãy tìm ý nghĩa cao siêu nhất
Cuộc sống tặng ban quý tuyệt vời
Lạc thú vị lai đời kế tiếp
Rồi ngài hưởng phước đức này
thôi.
Khi những lời này được bậc Ðại Sĩ nói
xong, kẻ ăn thịt người bị nỗi kinh hoàng
trấn áp và suy nghĩ: "Ta không thể từ chối lời ước mà Sutasoma lựa chọn,
cũng không thể chừa ăn thịt người. Vậy ta phải
làm gì đây?"
Với đôi mắt đẫm lệ, y ngâm kệ này:
90. Ngài biết ta yêu thích thịt người,
Su-ta Ðại Sĩ, thế này thôi,
Ta không bỏ nó bao giờ nữa,
Suy nghĩ, chọn điều khác, bạn ôi!
Bồ-tát lại đáp:
91. Người nào luôn hưởng thú vui chơi,
Hủy diệt cuộc đời để được vui,
Như kẻ say dùng liều thuốc độc,
Về sau phải chịu khổ không nguôi.
92. Người quyết tâm chừa lạc thú đời,
Con đường phận sự khó theo hoài,
Như người đau uống liều điều trị,
Sống lại đời sau cực lạc thôi.
Sau khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người
đau đớn khóc than, ngâm vần kệ:
93. Ngũ lạc phát sinh tự giác quan,
Ta đều từ bỏ cả song thân,
Ta vào rừng ở vì nhân ấy,
Lời bạn ước sao có thể ban?
Bậc Ðại Sĩ ngâm kệ đáp:
94. Trí nhân không thể nói hai lời,
Ta biết thiện nhân đúng ước thôi:
"Hiền hữu chọn đi vài nguyện ước"
Là điều ngài
đã bảo ta rồi,
Giờ đây những chuyện ngài
đang nói
Khó hợp điều này, Chúa thượng ôi!
Một lần nữa, kẻ ăn thịt người vừa khóc vừa
ngâm kệ:
95. Tổn đức, ô danh, khổ nhục tràn,
Tham lam, tà hạnh, tội muôn vàn,
Ta đều phạm, để ăn đồng loại,
Lời bạn ước, sao ta phải ban?
Bậc Ðại Sĩ lại nói:
96. "Không ai đòi tự nguyện ban ân,
Rồi lấy lại lời, kẻ giả nhân,
Bạo dạn chọn ân này, bạn hỡi,
Dù ta mất mạng, cũng ban phần.
Khi ngài đã
đưa ra vần kệ do chính kẻ ăn thịt người cảm
khái thốt lên trong giai đoạn đầu, ngài
lại ngâm kệ để khích lệ y can đảm ban điều ước
ấy:
97. Thiện nhân đành mất cả dòng
đời
Song giữ lời xưa, dẫu thiệt thòi,
Chúa thượng, nếu ngài ban ước nguyện,
Làm ngay chuyện ấy trọn công ngài.
98. Ai đem tài sản cứu tay chân,
Sẽ bỏ tay chân cứu lấy thân,
Tài sản, tứ chi, thân sẽ mất,
Chỉ còn Chân lý khẩn cầu ân.
Như vậy bậc Ðại Sĩ dùng nhiều phương tiện an trú kẻ
ăn thịt người vào Chánh pháp, và bây giờ
ngài ngâm kệ để giải thích việc cần phải tôn
trọng danh hiệu của ngài:
99. Miệng kẻ nào minh chứng Thật chân,
Ðoạn nghi nhờ các bậc hiền nhân,
Kẻ ấy chính là nơi ẩn trú,
Chính là điểm tựa, chốn nương thân.
Lòng hiền nhân mến thương người ấy
Sẽ chẳng bao giờ phải diệt vong.
Sau khi ngâm kệ xong, ngài bảo:
- Này Hiền hữu ăn thịt người, nếu bạn vi
phạm lời dạy của một bậc Ðạo Sư Tối thắng như vậy, thì thật không hợp
lẽ phải, và hơn nữa, khi bạn còn trẻ, ta đã
làm vị trợ giáo cho bạn, đã chỉ bảo bạn
nhiều rồi, nay ta dùng uy lực của một bậc Giác Ngộ ngâm cho bạn nghe các vần
kệ trị giá mỗi vần một trăm đồng: vậy bạn hãy
vâng lời ta.
Khi nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ:
"Sutasoma đã là thầy dạy ta, vừa là bậc
đa văn uyên bác và ta đã ban cho
vị ấy chọn điều ước. Ta phải làm gì
đây? Cái chết quả thật là một sự dĩ
nhiên trong cuộc đời mỗi người. Vậy ta sẽ không
ăn thịt người nữa nhưng phải ban ân huệ mà ngài yêu cầu".
Với dòng lệ tuôn tràn từ đôi mắt, y đứng lên
và quỳ xuống chân Sutasoma, ngâm kệ ban ân:
100. Thực phẩm ngọt ngon, thú vị thay,
Vì duyên cớ ấy, ẩn rừng cây,
Nhưng nay bạn bảo ta làm vậy,
Ta tặng bạn - thầy ân huệ đây.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:
- Này Hiền hữu, mong được như vậy.
Ðối với người đã
đứng vững vàng trong giới hạnh, thì ngay
cái chết cũng là một ân huệ. Thưa Ðại vương, ta xin nhận
đặc ân mà ngài
đã ban ta. Ngay từ hôm nay, ngài
được an trú trong con đường của một bậc
Ðạo Sư hướng dẫn, và vì vậy, ta xin ngài một
đặc ân này nữa: nếu ngài có lòng thương mến ta, xin ngài chấp nhận
Ngũ giới.
Y đáp:
- Tốt lành thay, xin Hiền hữu dạy ta Ngũ giới.
- Xin Ðại vương học Ngũ giới từ ta.
Thế rồi y đảnh lễ bậc Ðại Sĩ với năm
phần thân thể sát đất và ngồi xuống một bên, và bậc Ðại Sĩ an trú y
vào Ngũ giới.
Lúc ấy các địa thần tụ họp lại, bảo nhau:
- Không ai từ các chúng sinh trong địa ngục
Avìci (A-tỳ: Vô gián) đến chư Thiên
tối cao trong các cõi Vô sắc mà vì lòng thương mến
đối với bậc Ðại Sĩ, có thể làm cho kẻ
ăn thịt người này từ bỏ việc sát nhân
ấy. Ôi! Sutasoma đã thị hiện một phép
thần thông vị diệu thay?
Các vị hoan nghênh làm rừng cây vang dội với những tiếng reo hò lớn, và
khi nghe huyên náo, Tứ Ðại Thiên vương cũng reo lớn như vậy toàn thế giới
vang rền tiếng tán thán đến tận cõi Phạm
thiên.
Các vị vua bị treo trên cành cây nghe tiếng náo
động reo mừng của chư Thần, và nữ thần
cây vẫn còn đứng ở nơi trú ẩn cũng thốt ra âm
thanh hưởng ứng. Như vậy người ta nghe tiếng reo hò của các vị Thần,
nhưng không thể thấy được hình dáng các
vị.
Khi nghe tiếng reo lớn hoan nghênh của chư Thần, các vị vua suy nghĩ:
"Nhờ Sutasoma chúng ta được cứu mạng, Sutasoma
đã thị hiện phép thần thông để giáo hóa
kẻ ăn thịt người ấy", và các vị cũng dâng lên lời tán tụng Bồ-tát.
Còn kẻ ăn thịt người đứng sang một bên
sau khi đảnh lễ dưới chân Bồ-tát. Bậc
Ðại Sĩ bảo y:
- Này Hiền hữu, hãy thả các vương tử này.
Y suy nghĩ: "Ta là kẻ thù của họ. Nếu họ
được ta thả ra, họ sẽ nói: "Hãy bắt y, y là kẻ thù của chúng ta", và
sẽ làm hại ta. Nhưng dù có mất mạng sống, ta cũng không thể phạm vào giới
hạnh mà ta đã nhận từ tay Sutasoma. Ta
sẽ đi cùng ngài và thả họ ra, như thế ta
sẽ được bình an". Rồi vừa
đảnh lễ Bồ-tát, y vừa nói:
- Này Sutasoma, chúng ta hãy cùng đi thả các
vương tử.
Và y ngâm kệ:
101. Ngài là thầy giáo của riêng ta,
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Hãy ngắm, thưa ngài, lời bạn bảo
Ta vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ngài thực hiện lời ta bảo:
Ta sẽ đi cùng thả các vua.
Bồ-tát đáp:
102. Ta là thầy giáo của ngày xưa
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Quả thật, thưa ngài, lời dạy bảo
Ngài vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ta thực hiện lời ngài bảo:
Ta sẽ cùng đi thả các vua.
Khi đến gần các vua kia, ngài nói:
103. Các ngài bị trói trên cây này,
Nước mắt chảy tuôn đã ngập
đầy,
Vì ác quỷ này làm hại vậy,
Song ta vẫn muốn các ngài hay
Một lời ước hẹn cùng vua ấy
Chẳng có bao giờ đụng ngón tay.
Các vị vua đáp liền:
104. Khóc than vì bị trói trên cây,
Ác quỷ hại người, đáng ghét thay,
Tuy thế, chúng ta long trọng hứa:
Nếu còn sống, chẳng hại người này.
Lúc ấy Bồ-tát nói:
- Tốt lành thay, xin hãy hứa lời này với ta.
Và ngài ngâm kệ:
105. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước các ngài như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
Các vị vua cũng đều đồng ý việc này
và ngâm kệ:
106. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước chúng ta như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
Như vậy bậc Ðại Sĩ đã
đòi các vị ấy thề ước xong, ngài gọi kẻ
ăn thịt người đến và bảo:
- Hãy đến thả các vương tử này ra.
Kẻ ăn thịt người cầm kiếm cắt dây trói một
vua trong số đó. Vì vua này đã
nhịn ăn suốt bảy ngày cùng chịu
đau khổ đến điên cuồng, nên vừa
được cắt dây thả ra, vị ấy ngã nhào
xuống đất. Bậc Ðại Sĩ thấy vậy
động lòng từ bi, liền nói:
- Này Hiền hữu ăn thịt người, đừng cắt dây
thả họ xuống như vậy.
Rồi ôm lấy một vị vua thật chặt trong đôi
tay, ngài ôm sát vị ấy vào ngực mình và nói:
- Bây giờ hãy cắt dây đi.
Như vậy, kẻ ăn thịt người cắt dây trói họ
với thanh kiếm và bậc Ðại Sĩ, nhờ có sức mạnh phi thường, liền ôm mỗi
vị vua vào ngực, và đưa xuống nhẹ nhàng
như thể đó là con mình, rồi
đặt vị ấy nằm sát xuống đất. Cứ vậy ngài
đặt tất cả các vị vua xuống đất và sau
khi rửa các vết thương, ngài nhẹ nhàng kéo các dây trói khỏi tay họ, giống
như thể sợi dây ở tai trẻ con, ngài chùi sạch máu
đông, làm cho các vết thương không nhiễm
độc. Rồi ngài bảo kẻ
ăn thịt người:
- Này Hiền hữu, hãy giã một ít vỏ cây kia trên hòn
đá rồi mang đến cho ta.
Sau khi ngài bảo y đi tìm vỏ cây về,
ngài thực hiện một lời Thề Chân lý và chà xát lòng bàn tay các vua ấy, thì
các vết thương lành lặn ngay lập tức.
Kẻ ăn thịt người lấy một ít gạo đã
chà vỏ, nấu thành một thứ thuốc phòng bệnh, rồi hai vị
đưa cho một trăm lẻ một vương tử Sát-đế-lỵ uống
như thuốc phòng bệnh, vì vậy mọi người
đều hân hoan vừa lúc mặt trời lặn.
Hôm sau, vào lúc rạng đông, giữa trưa và
xế chiều, hai vị đều cho họ uống nước cháo,
nhưng ngày thứ ba, hai vị cho họ ăn cháo
gạo và cơm chín, cứ thế cho đến khi họ bình
phục. Sau đó bậc Ðại Sĩ hỏi xem họ
đủ mạnh hẳn đề về nhà chưa và khi họ
đáp họ có thể lên
đường, ngài bảo:
- Này, Hiền hữu ăn thịt người, chúng ta cùng
đi về vương quốc của mình.
Nhưng y vừa khóc, vừa quỳ xuống chân bậc Ðại Sĩ và kêu to:
- Xin Hiền hữu đem các vua này ra
đi, còn ta sẽ tiếp tục ở
đây sống bằng củ quả rừng.
- Này Hiền hữu, bạn muốn làm gì ở đây thế?
Vương quốc bạn là nơi đầy lạc thú.
Hãy đi về cai trị ở Ba-la-nại.
- Này Hiền hữu nói gì thế? Ta không thể về
đó được. Toàn dân kinh thành đều là
kẻ thù của ta. Họ sẽ phỉ báng ta và nói: "Kẻ này
đã ăn thịt
mẹ, cha ta, hãy bắt tên cướp này", và họ sẽ lấy hòn
đất đoạt mạng sống ta, nhưng còn ta
đã quyết nhờ Hiền hữu an trú vào Ngũ
giới, ta không thể giết ai được cả, cho dù
để cứu mạng mình. Ta không muốn
đi đâu. Vì ta từ bỏ thói
ăn thịt người, ta sẽ sống bao lâu nữa đây? Và
giờ đây ta cũng sẽ không còn thấy Hiền
hữu nữa.
Kẻ ấy vừa khóc vừa nói:
- Thôi bạn hãy ra đi.
Bậc Ðại Sĩ vỗ lưng y và bảo:
- Này Hiền hữu, ta tên là Sutasoma: trước
đây ta vừa cải hóa một người độc ác như bạn, và nếu bạn hỏi bạn sẽ
phải kể chuyện gì ở Ba-la-nại, tại sao ta muốn an trú bạn ở
đó, hoặc chia đôi vương quốc của ta, thì
ta sẽ giao bạn một nửa đất nước ấy.
- Trong kinh thành của bạn cũng có những kẻ thù của ta. - Y
đáp.
Sutasoma nghĩ thầm: "Khi vâng lời ta, người này
đã hoàn thành một nhiệm vụ thật khó khăn.
Vậy ta phải dùng phương tiện nào đó đưa
y về cảnh vinh quang ngày trước".
Và để chiêu dụ y, ngài ca tụng cảnh
huy hoàng vĩ đại trong kinh thành của y
như sau:
107. Thú vật, chim muông, đủ mọi nơi,
Ngày xưa thịt của chúng ngài xơi
Do đầu bếp khéo tài
đun nấu,
Thật đúng cao lương vị tuyệt vời
Tạo nỗi hân hoan như Đế Thích
Hưởng bao tiên thực ở trên trời.
Tại sao ngài bỏ rơi tất cả,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
108. Cung nữ cao sang, dáng mảnh mai,
Xiêm y lộng lẫy khoác hình hài,
Chung quanh Chúa thượng ngày xưa ấy,
Cả đám vây quanh chật ních người,
Như Ðế Thích trong Thiên chúng nọ,
Ngài đi, lòng hạnh phúc vui tươi,
Sao ngài lìa bỏ đời như vậy,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
109. Giữa vương sàng rộng rãi mênh mông,
Ngài ngự, ngày xưa, hỡi Chúa công,
Nhiều lớp chăn màn lông thú quý,
Chất lên cao phủ cả mình rồng,
Dưới đầu ngài gối màu hồng thắm,
Giường nệm sạch tinh, trắng tựa bông,
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc ở trong rừng?
110. Nơi kia nhiều lúc giữa đêm thanh,
Ngài vẫn thường nghe tiếng trống canh,
Và những âm thanh siêu thế tục
Vẫn thường vang dội đến tai mình,
Lời ca, tiếng nhạc đồng hòa
điệu,
Khơi dậy tâm tư rộn rã tình.
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc giữa rừng xanh
111. Ngài có hoa viên đẹp đắm say,
Nơi kia phong phú cỏ hoa đầy,
Mi-gà vốn đã từng danh tiếng
Là chốn ngự viên, đô thị này,
Xa pháo dập dìu vô số kể,
Ngựa, voi lũ lượt đứng từng bầy,
Sao ngài lại bỏ rơi tất cả,
Tìm thú rừng hoang cô độc vầy.
Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Có lẽ khi người này nhớ lại hương vị các món cao
lương mà y đã thưởng thức ngày xưa, y sẽ
mong muốn trở về với ta". Vì thế ngài chiêu dụ y trước tiên bằng thức
ăn, kế đó là lôi cuốn các sắc dục của y,
thứ ba là ý nghĩ về sàng tọa, thứ tư là ca múa nhạc, thứ năm
là gợi lại ngự viên và kinh thành.
Ngài làm cho kẻ ấy mê mẩn với những ý tưởng trên rồi nói:
- Thưa Ðại vương, ta sẽ đi cùng ngài
về Ba-la-nại và ổn định ngài tại
đó xong, ta mới trở về vương quốc ta. Nhưng nếu
chúng ta thất bại trong việc ổn định vương quốc Ba-la-nại, thì ta sẽ
tặng bạn một nữa giang sơn của ta. Ngài còn làm gì với cuộc sống ở rừng nữa
chứ" Chỉ cần làm theo lời ta dặn ngài là được.
Sau khi nghe lời ngài, kẻ ăn thịt người nôn
nóng đi với ngài và suy nghĩ: "Sutasoma mong muốn ta an lạc quả thật
là người đầy nhân từ. Trước tiên ngài
đã an trú ta trong giới
đức, nay lại bảo sẽ phục hồi vinh quang cũ cho
ta và ngài có khả năng làm việc
đó. Ta cần phải đi với ngài. Ta còn làm
gì với rừng hoang nữa chứ?"
Lòng đầy hoan hỷ, y ước mong ca ngợi
Sutasoma về đức hạnh của ngài, liền nói:
- Này Hiền hữu Sutasoma, không gì tốt đẹp
hơn kết giao với bạn hiền, không gì xấu xa hơn kết giao với bạn ác.
112. Giống như trong nửa tháng đêm
đen,
Mặt nguyệt mỗi ngày một khuyết thêm,
Cũng vậy kết giao cùng kẻ ác
Chịu bao hủy hoại, hỡi vua hiền!
113. Như ta kết bạn hỏa đầu quân,
Kẻ tối liệt trong bọn hạ tầng,
Ta đã phạm vào bao ác nghiệp
Kịp thời xuống địa ngục đày thân.
114. Ví như trong nửa tháng trời quang,
Mặt nguyệt ngày thêm một sáng dần,
Cũng vậy, kết giao cùng bậc thiện,
Ðại vương ôi, sẽ chẳng suy tàn.
115. Như với bạn, ta được kết đôi,
Này Su-ta, phải biết ngay thôi:
Sau khi thành tựu điều chân chánh,
Tất cả an vui đến cõi trời.
116. Như lũ lụt tràn mặt đất khô,
Thấy thường tạm bợ, chóng trôi qua,
Cũng vầy kết bạn cùng người ác
Là việc phù du, nước nổi mà.
117. Song nước lụt tràn khắp hải dương
Thấy bền lâu ấy chuyện bình thường
Cũng như giao kết cùng người thiện,
Là chuyện lâu dài, hỡi Ðại vương.
118. Giao kết thiện nhân chẳng chóng qua,
Tình huynh đệ vững suốt đời ta,
Kết giao kẻ ác mau tàn lụi,
Kẻ ác thường đi lạc hướng tà.
Như vậy kẻ ăn thịt người ca tụng bậc
Ðại Sĩ qua bảy vần kệ trên. Còn ngài đem kẻ ấy
và các vua kia đi đến một làng
biên địa. Khi thấy bậc Ðại Sĩ, quần
chúng vào kinh thành thông báo việc ấy. Quần thần của vua
đi cùng một
đạo quân hộ tống bậc Ðại Sĩ và ngài cùng
đoàn tùy tùng này vào vương quốc Ba-la-nại.
Trên đường đi, dân chúng mang quà
đến tháp tùng ngài, thế rồi cả
đám đại chúng theo ngài
đến Ba-la-nại.
Thời ấy vương tử của kẻ ăn thịt người đang làm
vua và Kàlahatthi vẫn là đại tướng quân, nên
dân kinh thành đến trình vua việc này:
- Tâu Ðại vương, nhiều người kể với chúng thần rằng vua Sutasoma
đã giáo hóa kẻ
ăn thịt người và
đang đến đây với y, chúng thần không muốn cho
phép y vào kinh thành đâu.
Họ vội vàng đóng cổng thành và
đứng đó với binh khí trong tay. Khi thấy cổng
thành đã
đóng, bậc Ðại Sĩ
để kẻ ăn thịt người và một trăm
lẻ một vua kia ở lại rồi cùng với vài cận thần
đi kêu lớn:
- Ta là vua Sutasoma, hãy mở cổng ngay.
Các tướng lãnh đi tâu trình vua và
vua ra lệnh mở cổng thành lập tức để bậc
Ðại Sĩ vào thành. Vua cùng vị đại tướng Kàlahatthi
ra nghênh tiếp ngài và đưa ngài cùng lên
thượng lầu của cung điện.
Bậc Ðại Sĩ an tọa trên ngai vàng, triệu tập bà chánh hậu của kẻ
ăn thịt người cùng cả
đám cận thần đến, rồi ngài bảo
Kàlahatthi:
- Này Kàlahatthi, tại sao khanh không cho vua ấy vào thành?
Vị này đáp:
- Ðó là một kẻ cùng hung cực ác, trong khi làm vua cai trì kinh thành
này, đã ăn
thịt nhiều người, làm điều phi pháp đối
với các vị vua Sát-đế-lỵ và làm tan nát toàn cõi Diêm-phù-đề:
đó là lý do khiến chúng thần hành động
như vậy.
Ngài đáp:
- Các khanh chớ nghĩ rằng bây giờ kẻ ấy còn hành
động như thế nữa. Ta đã giáo hóa y và an
trú y vào giới đức. Y sẽ không làm tổn
hại ai cho dù để cứu mạng mình
đi nữa. Các khanh không còn gì nguy hiểm
do y gây ra cả, vậy các khanh đừng hành
động như thế. Thực ra các con phải chăm sóc cha
mẹ: ai yêu quý cha mẹ sẽ lên thiên giới, còn các người khác sẽ xuống
địa ngục.
Ngài khuyên răn vương tử như thế, trong lúc
vị ấy ngồi trên một bảo tọa thấp bên cạnh ngài. Rồi ngài giáo huấn vị
đại tướng:
- Này Kàlahatthi, khanh là bạn thân cũng là tùy tướng của vua, ngày trước
khanh đã
được vua phong quyền cao chức trọng, vậy khanh cũng phải hành
động vì quyền lợi của vua.
Ngài lại khuyến giáo vương hậu:
- Này vương hậu, bà xuất thân dòng quý tộc và tự tay vua bà
đã đạt ngôi
vị chánh hậu, lại đầy đủ con trai con gái với vua ấy. Vậy bà cũng
phải hành động vì quyền lợi của vua.
Rồi ngài thuyết giảng Chánh pháp để đưa vấn
đề này lên hàng đầu:
119. Không vua nào được quyền chinh phục
Người chẳng nên xâm phạm suốt đời;
Không bạn nào nên lừa dối bạn
Bằng hành vi bội bạc tình người.
120. Nàng nào có ý sợ phu quân,
Ta bảo chẳng là vợ chánh chân;
Khi phụ thân già không cấp dưỡng,
Làm con chẳng đúng với danh xưng.
121. Chẳng phải là nơi chốn hội trường,
Nếu hiền nhân chẳng vãng lai luôn,
Những ai không giảng bày Chân lý
Rộng khắp, chẳng là bậc trí nhân.
122. Những bậc ly tham dục, hận sân,
Si mê, là những Thánh hiền nhân
Chẳng hề quên giảng bày Chân lý
Cho các thế nhân khắp mọi vùng.
123. Bậc hiền ở giữa đám ngu đần,
Nếu lặng thinh, ai biết trí nhân,
Vị ấy nói lên thì tất cả
Nhận ra Thầy dạy Pháp như chân.
124. Thuyết giảng, tôn vinh Pháp chánh chân,
Giương cao cờ hiệu của hiền nhân,
Thánh nhân biểu tượng là lời thiện,
Ngài phất ngọn cờ Chánh pháp luôn.
Vua và vị đại tướng nghe ngài thuyết
Chánh pháp đều rất hoan hỷ, liền nói:
- Chúng ta hãy đi rước Ðại vương về
đây.
Sau khi truyền đánh trống báo cáo khắp kinh
thành, hai vị triệu tập dân chúng lại và bảo:
- Ðừng sợ nữa, chúng ta nghe tin đức vua đã
được an trú vào Chánh pháp. Chúng ta hãy
đi đón ngài về
đây.
Thế rồi hai vị cùng quần chúng được bậc
Ðại Sĩ dẫn đầu đi đảnh lễ vua kia. Họ
đưa các thợ cạo đến và khi tóc râu được
cạo sạch xong, vua ấy tắm rửa, mặc xiêm y sang trọng vào, họ
đặt vua ngồi trên một
đống bảo ngọc, làm lễ quán
đảnh (rảy nước phong vương), rồi rước vua vào
thành.
Vị vua ăn thịt người làm lễ cung kính
chào một trăm lẻ một vua Sát-đế-lỵ và
bậc Ðại Sĩ. Khắp nước Diêm-phù-đề chấn động vì
tin loan truyền rằng Sutasoma, chúa thượng của loài người,
đã giáo hóa kẻ
ăn thịt người kia và phục hồi vương vị
cho y.
Còn dân chúng thành Indapatta dâng sớ cầu xin vua trở về. Bậc Ðại Sĩ ở
lại đó đúng một tháng và thuyết giáo vua
kia:
- Này Hiền hữu, chúng ta sắp ra đi, hãy
chăm lo tinh cần làm thiện pháp và
truyền xây năm bố thí đường ở các cổng thành
và tại cung vua, tuân hành Thập vương pháp (mười
đức tính của vua hiền) và tránh xa ác
đạo.
Rồi tứ một trăm lẻ một kinh thành,
các đạo quân đông đảo tụ tập lại, cùng
với đoàn hộ tống này, ngài lên
đường về Ba-la-nại. Vị vua ăn thịt người cũng
tiễn đưa ngài đến nửa đường thì
dừng lại. Bậc Ðại Sĩ tặng ngựa cho những ai không có ngựa
để cỡi rồi cho phép tất cả ra đi. Họ trao đổi
những lời từ giã thân tình với ngài và sau các nghi lễ ôm nhau thắm
thiết, họ trở về xứ sở riêng của mỗi người.
Bậc Ðại Sĩ cũng đến thành Indapatta
trong cảnh uy nghi trọng thể, kinh thành ấy
được dân chúng trang hoàng giống như kinh thành của chư Thiên. Sau
khi cung kính đảnh lễ song thân, và bày
tỏ nỗi hân hoan được gặp lại cha mẹ, ngài
đi lên thượng lầu của hoàng cung.
Trong thời gian thực hành nền cai trị chân chánh tại vương quốc, tư tưởng
này chợt nảy ra trong trí ngài: "Vị thần cây thật ích lợi cho ta; ta muốn vị
ấy được cúng dường lễ vật".
Vì thế ngài truyền xây một hồ nước rộng ở gần cây
đa và di chuyển nhiều gia
đình đến đó
dựng một ngôi làng. Chẳng bao lâu nó trở thành một vùng rộng lớn có
được tám mươi ngàn tiệm buôn.
Và bắt đầu từ mút xa nhất của các cành
cây, ngài bảo san bằng mặt đất quanh gốc cây và
xây một hành lang bao bọc có các cửa vòng cung và cổng ra vào thế là thần
cây được lợi lộc.
Chính nhờ việc thiết lập ngôi làng trên địa
điểm quỷ ăn thịt người được giáo hóa, vùng ấy trở thành thị trấn với
tên là Kammàsadamma (Kiềm-ma-sắc-đàm:
Nơi có quỷ ăn thịt người).
Còn các vị vua kia tuân theo lời giáo huấn của bậc Ðại Sĩ, thực hành các
thiện sự như bố thí và nhiều việc khác, nên về sau
được lên thiên giới.
*
Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp
thoại và nói:
- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Ta mới cải hóa Angulimàla, mà
ngày xưa nữa, vị ấy cũng được ta cải hóa.
Và Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị vua ăn thịt người là
Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay),
đại tướng Kàlahatthi là Sàriputta
(Xá-lợi-phất), Bà-la-môn Nanda là Ànanda (A-nan), thần cây là Kassapa
(Ca-diếp), Sakka Thiên chủ là Anuruddha (A-na-luật-đà),
quần thần của các vua là hội chúng của đức
Phật, song thân của vua là các vị trong hoàng gia của Ðại vương, và
vua Sutasoma trong chuyện chính là Ta.
-ooOoo-
Đầu trang | Mục lục |
01 | 02 |
03 | 04 | 05 | 06 |