-01- 
    Ðạo Phật 
    
    I.- MỞ ÐỀ 
    Chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ sanh tử, 
    dong thuyền ra cứu vớt họ là sự ra đời của đạo Phật. Ðêm tối vô 
    minh che phủ tất cả chúng sanh, cầm đuốc sáng soi đường cho họ là 
    trách nhiệm của đạo Phật. Ðạo Phật đến với chúng sanh trong một niềm 
    khát vọng vô biên, một sự trông chờ tột độ. Nhưng, con thuyền có giá 
    trị cứu mạng khi nào người sắp chết chìm biết bám lấy nó. Ngọn đuốc 
    là một cứu tinh, khi nào những kẻ lạc đường trong đêm tối khao khát 
    muốn ra. Con thuyền và ngọn đuốc sẽ vô bổ, nếu những kẻ sắp chết 
    chìm và người lạc trong đêm tối chấp nhận cái gì mình đang chịu. 
    Cũng thế, đạo Phật sẽ vô ích với những chúng sanh chấp nhận sanh tử 
    và an phận trong vô minh. Vì thế, đạo Phật có mặt trên thế giới này 
    đã hơn hai ngàn năm trăm năm, còn biết bao nhiêu người nhìn nó với cặp 
    mắt xa lạ. Song những kẻ đã nếm được pháp vị, thấy công đức của 
    đạo Phật đối với mình vô vàn không sao kể hết. Thật đúng với câu 
    "Phật hóa hữu duyên nhân". 
    II.- ÐỊNH NGHĨA 
    Ðứng về hành động, đạo Phật là con đường 
    đưa người trở về cố hương giác ngộ. Hoặc đạo Phật là phương pháp 
    giúp người tiến tu đến giác ngộ. Ðứng về thực thể, đạo Phật là 
    tánh giác sẵn có của tất cả chúng sanh. 
    Những kẻ phiêu lưu ở tha phương viễn xứ ước 
    mơ khao khát trở về cố hương, đạo Phật là tấm bản đồ vẽ rõ con 
    đường trở về cố hương, do bàn tay của người đồng cảnh ngộ đã trở 
    về đến tận quê nhà, đức Thích-ca Mâu-ni. Nếu ý thức được cảnh khổ 
    của người xa quê, một lòng quyết chí trở về cố hương được người 
    trao tay cho tấm bản đồ, biết rõ con đường về quê thì còn sung sướng 
    nào hơn. Không cam chìm sâu trong đêm tối vô minh, người cương quyết tiến 
    lên con đường giác ngộ, nắm vững những phương tiện tiến tu, chắc chắn 
    sớm chiều sẽ được mãn nguyện. 
    Ðứng trên bờ biển thấy toàn biển đều là 
    sóng, bởi cơn gió mạnh, người ta ngơ ngác không biết làm sao tìm ra nước 
    biển. Nếu đây là sóng thì nước biển ở đâu ? Những lượn sóng đuổi 
    nhau lặn hụp hò hét ầm ì, mặt biển là những cái biến động ấy sao? 
    Người sáng suốt nghe thế, bảo họ rằng: "Chính sóng ấy tức là nước", 
    "cái biến động kia chỉ là hiện tượng của mặt biển tĩnh lặng". 
    Hãy ngay nơi sóng, chúng ta nhận ra nước, trên cái biến động biết được 
    thể tịnh. Hiện tướng vô minh và tánh giác cũng thế. 
    Tất cả những vọng tưởng điên đảo là hiện 
    tướng vô minh, vọng tưởng lặng lẽ là tánh giác thanh tịnh. 
    Tuy hai tên hai tướng khác nhau, song không thể rời 
    vô minh tìm được tánh giác, như sóng với nước. Tánh giác là cái thể 
    chẳng sanh chẳng diệt của mỗi con người chúng ta, hằng tàng ẩn trong 
    con người vô thường sanh diệt này, như thể tĩnh lặng của mặt biển sẵn 
    có trên tướng biến động ầm ì. Bởi chúng sanh sẵn có tánh giác mà 
    quên, nên đức Thích-ca thương xót giáo hóa chỉ dạy cho thức tỉnh, đó 
    là đạo Phật. 
    Chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ, nên được 
    biểu trưng bằng phóng quang, ngọc minh châu, cây đuốc, ngọn đèn. Nói đến 
    đạo Phật là nói đến giác ngộ; mọi hình thức mê tín hiện có trong đạo 
    Phật, do người sau ứng dụng sai lầm, chớ không phải thực chất của đạo 
    Phật. 
    III.- LÝ THUYẾT 
    Phần lý thuyết của đạo Phật rất phong phú, 
    nói chung là Tam Tạng giáo điển, gồm Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. 
    Tam Tạng này hiện ấn hành có hai văn hệ: Pali Tạng, Hán Tạng. Pali Tạng 
    thuộc Nam truyền Phật giáo, Hán Tạng thuộc Bắc truyền Phật giáo. Ở đây, 
    chúng tôi nói về hệ thống Hán Tạng. Bộ Hán Tạng hiện do Nhật Bản 
    và Ðài Loan ấn hành gồm trên năm ngàn quyển. Thật là một kho tàng văn 
    hóa dồi dào, chính những người tu sĩ Phật giáo cũng chưa chắc đã đọc 
    hết. Trong ba Tạng, quan trọng nhất là tạng Kinh, vì tạng Luận là giải 
    thích lại tạng Kinh, còn tạng Luật nói rõ về nghi thức luật lệ của 
    người tu. Trong tạng Kinh tổng quát chia làm ba phần : hệ thống A-hàm, hệ 
    thống Bát-nhã, hệ thống Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm. Hệ thống A-hàm 
    giải thích về triết lý vô thường, khổ, không, vô ngã. Hệ thống 
    Bát-nhã giải thích tự tánh các pháp là Không, chỗ tánh Không ấy là tướng 
    chân thật. Hệ thống Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm giải thích chúng sanh sẵn 
    có tánh giác gọi là Trí tuệ Phật, Tri kiến Phật, Niết-bàn. 
    Tuy nhiên, vì truyền bá lâu xa khó tránh khỏi những 
    tư tưởng tập tục sai lầm chen lẫn trong chánh pháp. Chúng ta muốn phán 
    định chánh tà, trong kinh có dạy dùng Tứ pháp ấn, Tam pháp ấn, Ðệ nhất 
    pháp ấn để ấn định đúng sai. Tứ pháp ấn là vô thường, khổ, không, 
    vô ngã. Tất cả những kinh thuộc hệ thống A-hàm nói không ngoài bốn lý 
    này, nếu nói khác bốn lý này là tà thuyết. Tam pháp ấn là chư hạnh vô 
    thường, chư pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tịnh. Ðây là trùm cả Tiểu thừa 
    lẫn Ðại thừa đều nằm gọn trong ấy. Ðệ nhất pháp ấn là nhất tâm 
    chân như. Phần này chỉ riêng hệ thống Pháp Hoa..., không can hệ đến hai 
    hệ thống kia. Nắm được cái căn bản này, chúng ta tạm biết cương yếu 
    học Phật. 
    Phần lý thuyết của đạo Phật khác hẳn với 
    thuyết lý của những triết gia, học giả khác. Bởi vì họ dùng suy tư 
    nghĩ tưởng biện thuyết, còn đây do đức Phật sau khi giác ngộ thấy lẽ 
    thật như thế, tùy hoàn cảnh trường hợp đem ra chỉ dạy cho người. 
    Người khéo ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống sẽ được kết quả 
    tốt đẹp, hoàn toàn không họa hại. Cho nên, trong kinh nói "lời Phật 
    nói trước, giữa, sau đều thiện". 
    IV.- THỰC HÀNH  
    ?ng dụng phần lý thuyết trên vào cuộc sống hiện 
    tại, sẽ được kết quả tùy theo khả năng phương pháp mình thực hành. 
    Sự thực hành có chia nhiều thứ bậc: Ngũ thừa, Tam thừa, Nhất thừa. Chữ 
    thừa ở đây ví dụ cỗ xe chở người đi. Từ vị trí con người chở đến 
    con người là Nhân thừa. Từ vị trí con người chở đến quả vị chư 
    thiên gọi là Thiên thừa. Từ vị trí con người chở đến quả vị Thanh 
    văn gọi là Thanh văn thừa. Từ vị trí con người chở đến quả vị Duyên 
    giác gọi là Duyên giác thừa. Từ vị trí con người chở đến quả vị Bồ-tát 
    gọi là Bồ-tát thừa. Ðó gọi là Ngũ thừa. Bỏ hai phần Nhân thừa và 
    Thiên thừa còn lại ba thừa sau gọi là Tam thừa. Từ vị trí con người 
    phàm phu chở thẳng đến quả vị Phật gọi là Phật thừa hay Nhất thừa. 
    Từ vị trí con người đến vị trí con người 
    mai hậu là, ứng dụng tu hành Tam qui ngũ giới và những nề nếp sống hiền 
    lành chân thật của con người. Từ vị trí con người đến quả vị chư 
    Thiên, ứng dụng pháp Thập Thiện vào đời sống tu hành và thiền định 
    từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Từ vị trí con người đến quả vị Thanh 
    văn, ứng dụng pháp Tứ đế để tu hành. Từ vị trí con người đến quả 
    vị Duyên giác ứng dụng pháp Thập nhị nhân duyên tu hành. Từ vị trí 
    con người đến quả vị Bồ-tát ứng dụng pháp Lục độ tu hành. Từ vị 
    trí con người phàm phu thẳng đến quả vị Phật ứng dụng phương pháp 
    "tức tâm là Phật" tu hành. Ví như chúng ta muốn đi đến vị trí 
    nào, khi ra bến xe liền tìm xe đi về vị trí ấy leo lên, sẽ đưa chúng 
    ta đi đến đích như chỗ mong muốn. Ð?o Phật cũng thế, tùy theo sở 
    thích của người mà lập nhiều pháp môn, ưng pháp môn nào ứng dụng tu 
    hành đều kết quả đúng như sở nguyện. Ðó là phương tiện tùy cơ của 
    đức Phật trên phương pháp giáo hóa chúng sanh. Nếu nói thẳng bản hoài 
    của Ngài, chỉ muốn chúng sanh thành Phật là mục tiêu duy nhất. 
    Ðao Phật truyền sang Trung Quốc lại chia thành 
    nhiều tông phái, mỗi tông phái y cứ trên những bộ Kinh hay Luận làm chủ 
    yếu cho sự tu hành. Nếu nói rộng có cả thảy mười tông, nói hẹp theo 
    sự truyền bá hiện tại có bốn tông. Hiện nay còn bốn tông đang lưu hành 
    là Thiên Thai tông, Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông. Phật giáo Việt 
    Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc, sự lưu hành các tông phái cũng 
    tương tợ Trung Quốc. 
    V.- TRUYỀN BÁ 
    Ở đây nói truyền bá là đi thẳng vào phương 
    pháp, không căn cứ trên lịch sử. Những lời dạy của đức Phật được 
    gọi là Kinh, bởi hai lý do: hợp lý và hợp cơ. Một chân lý dù cao siêu 
    đến đâu, nếu không ứng dụng được vào cuộc đời, chân lý ấy trở 
    thành không nền tảng, chỉ lơ lửng trên không trung. Chân lý không áp dụng 
    được cho người sẽ là vô ích. Truyền bá sự vô ích thật là làm một 
    điều vô nghĩa. Lời Phật dạy đúng chân lý gọi là hợp lý, song lời dạy 
    ấy cũng phải hợp căn cơ trình độ của con người đương thời thì họ 
    ứng dụng mới được. Hợp lý hợp cơ là hai điều kiện không thể thiếu 
    trên phương diện truyền bá. Nếu chỉ dạy thích hợp sự ưa thích của 
    người mà không có chân lý sẽ đưa đến mê tín và tội lỗi. Một trọng 
    trách của người truyền bá, phải nhận định sáng suốt, để không bị 
    lỗi thời hay sai chân lý. Chính đây là ý nghĩa "tùy duyên mà bất biến" 
    của tinh thần Ðại thừa. Bất biến là hợp lý, tùy duyên là hợp cơ. Thật 
    là một hình ảnh linh động đi vào cuộc đời của chánh pháp. Người 
    truyền bá chánh pháp lúc nào cũng linh động mà không sai chân lý. Bởi cuộc 
    đời là một dòng biến thiên, mỗi thời đều mỗi khác, chúng ta không thể 
    mang hình thức cổ lỗ đi vào thời đại văn minh. Làm thế, chỉ chuốc sự 
    chán chê của thiên hạ, không lợi gì cho mình, cho chánh pháp cả. Cũng không 
    thể mang hình thức rất hợp thời trang, mà bỏ mất chân lý. Tùy duyên 
    mà bất biến, quả là chân lý ngàn đời của người đi ra giáo hóa. 
    Lại nữa, con người sống lúc nào cũng dung hòa 
    giữa tình cảm và lý trí. Tình cảm là quả tim, lý trí là khối óc. Quả 
    tim và khối óc phải nhịp nhàng hòa điệu thì con người mới thanh thản 
    an vui. Nghiêng một bên nào cũng làm mất thăng bằng, khiến con người dễ 
    mất bình thường. Ðạo Phật muốn còn mãi trên nhân gian với con người, 
    sự truyền bá cũng phải làm thỏa mãn hai phần ấy. Ðể thỏa mãn phần 
    khối óc, người truyền bá chánh pháp phải thường giảng dạy Kinh Luận 
    cho Phật tử nghe. Thấm nhuần triết lý cao siêu của Phật giáo, người Phật 
    tử mới khỏi nghi ngờ khi nghe một lý thuyết khác. Sự tu hành vững 
    chãi, cũng nhờ hiểu thấu giáo lý siêu thoát của Phật dạy. Giáo lý là 
    ngọn đuốc sáng đưa người ra khỏi rừng vô minh u tối. Có sẵn trong tay 
    ngọn đuốc sáng, người Phật tử chắc chắn sẽ thoát khỏi rừng mê. Ðể 
    thỏa mãn con tim, những hình thức nghi lễ tán tụng ở nhà chùa, giúp người 
    Phật tử niềm tin được sung mãn. Những buổi lễ tại chùa đều có mang 
    tính chất tín ngưỡng, phổ nhạc trong những lời tụng tán đều là đi 
    thẳng vào tình cảm của con người. Tuy chưa hiểu gì về Phật pháp, chỉ 
    đến chùa tụng một thời kinh, người ta cũng thấy lòng được nhẹ nhàng 
    lâng lâng. Hoặc những đêm khuya tĩnh mịch, những lời tụng tán thâm trầm 
    hòa với tiếng khánh tiếng mõ nhịp nhàng, khiến người nghe tâm hồn dường 
    như bay bổng trên không trung. Tuy nhiên như thế, hai phần lý trí và tình cảm 
    đều phải quân bình nhau, lệch một bên đều là khuyết điểm lớn. Nếu 
    chỉ có lý trí mà thiếu tình cảm trở thành khô khan. Nếu chỉ có tình cảm 
    mà thiếu lý trí trở thành mê tín. Người truyền giáo phải khéo léo 
    quân bình hai điều này. 
    VI.- KẾT LUẬN 
    Ðạo Phật có mặt ở thế giới này đã trên 
    hai mươi lăm thế kỷ, sự truyền bá này quả thật lâu dài. Sở dĩ được 
    như thế, do Phật giáo là chân lý không lý thuyết nào bẻ gãy nổi, người 
    tu hành theo Phật giáo được kết quả lợi ích thiết thực không nghi ngờ, 
    phương pháp truyền bá của Phật giáo rất linh động. Chúng ta hữu duyên 
    hữu phước mới được gội nhuần chánh pháp, đừng cô phụ phước duyên 
    của mình, mỗi chúng ta phải nỗ lực tiến tu. Có thưởng thức được pháp 
    vị rồi, chúng ta mới tùy duyên lợi ích kẻ sau. Làm thế nào cho ngọn đèn 
    chánh pháp nối tiếp mãi không tắt trên cõi thế gian này. Ðền ơn Phật 
    tổ không gì hơn cứu độ chúng sanh. Sự cứu độ thực tế nhất, phải 
    ngay cõi đời này, với những người có mặt hiện nay, khiến họ chuyển 
    mọi khổ đau trở thành an lạc. Phật giáo không phải cái gì xa vời, 
    không phải sự ước mơ viển vông, mà hiện tại thực tế. Nhận định 
    như thế, mới có thể đem đạo Phật vào cuộc đời một cách hữu hiệu. 
    -ooOoo- 
    Ðầu trang | Mục lục  |