[01]
NGUYÊN LÝ DUYÊN
KHỞI
TRONG GIÁO PHÁP ÐỨC PHẬT
-ooOoo-
H ễ
nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không
nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
Vì pháp Duyên khởi là nguyên lý cơ bản và thiết yếu
của sự giác ngộ.
Ðức Phật thành Phật
là do Ngài chiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt
của nguyên lý 12 Duyên khởi mà thành tựu.
Trong kinh A-hàm đức
Phật nói: "Thế nào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là
do duyên với Vô minh mà Hành khởi sinh, dù Phật có ra đời
hay không ra đời, nguyên lý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú
trong pháp giới. Như Lai tự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy
để giác tri, để thành tựu Vô thượng Bồ-đề, rồi tuyên
thuyết, rồi khai thị, rồi hiển phát cho mọi người".
(Tạp A-hàm, q.12 tr. 84b ÐTK2).
Do giác ngộ nguyên lý
Duyên khởi, đức Phật hiển nhiên trở thành Phật. Nên khi
dạy dỗ, giáo hóa chúng sanh, đức Phật đã khai thị nguyên
lý này qua nhiều dạng thức, qua nhiều cấp độ và qua
nhiều phương tiện sâu cạn khác nhau.
Kinh Pháp Hoa nói:
"Chư Phật là đấng tôn kính, đầy đủ trí tuệ và
từ bi, biết tất cả pháp luôn luôn là không có tự tánh.
Phật chủng cũng chỉ từ duyên mà khởi. Vì vậy mà tuyên
bố Nhất thừa. Sự an trú, sự định vị của tất cả pháp
là vốn như thế. Nó vốn là hình thái thường trú của
thế gian, từ đạo tràng biết một cách chân xác như thế
rồi, đấng Ðạo sư mới tùy phương tiện mà tuyên nói".
(Kinh Pháp Hoa tr. 9b ÐTK9).
Giác ngộ một cách chân
xác về nguyên lý Duyên khởi là giác ngộ rằng, tất cả các
pháp không bao giờ sinh khởi cô độc, mà nó sinh khởi trong
nguyên tắc tất yếu: "Nếu cái này hiện hữu, thì cái
kia hiện hữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không
hiện hữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi.
Nếu cái này không sinh khởi, thì cái kia không sinh
khởi".
Toàn bộ Giáo pháp
của đức Phật thuyết giảng chỉ trụ vào điểm này. Và
cũng chính ở điểm này làm nguyên lý phổ biến chung cho
sự sinh khởi của tất cả khí thế gian và tình thế gian.
Khí thế gian là mọi
sự kiện hiện hữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình
thế gian là mọi sự kiện hiện hữu và tồn tại gồm đủ
cả tâm lý và vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về tâm
lý.
Tính Duyên khởi đối
với tình thế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười
hai Duyên khởi, gồm có Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức,
Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Sáu xứ, Sáu xứ duyên
Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên
Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử.
Mười hai Duyên khởi này
làm nhân làm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân
quả, khiến con người bị đắm chìm trong sinh tử luân
hồi. Và nhân quả của 12 Duyên khởi này cứ tiếp tục
sinh khởi khắp cả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông
vô tận.
Chẳng hạn, Vô minh và
Hành là nhân của quá khứ. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc,
Thọ, Ái, Thủ, Hữu là nhân của hiện tại; Sanh, Lão tử là
quả của vị lai.
Nhân quả ba đời trong
12 Duyên khởi, cứ cái này làm duyên cho cái kia, cái kia làm
nhân cho cái này, cứ như thế sinh khởi cho đến vô cùng vô
tận.
Trong 12 Duyên khởi này,
mỗi yếu tố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có
yếu tố nào là nhân hoàn toàn hay duyên hoàn toàn.
Chính 12 yếu tố Duyên
khởi này đã làm nhân làm duyên cho nhau, để sinh khởi và
chi phối toàn bộ sinh mệnh, cũng như đời sống của con người.
Khi nào con người
hiểu được 12 yếu tố Duyên khởi này và quán chiếu thường
trực về chúng, thì khi ấy, tùy theo mức độ sâu cạn
của quán chiếu mà tầm cỡ giác ngộ được khẳng định.
Kinh Ðại Bát Niết-bàn
nói:
"Có bốn hạng giác
ngộ về nguyên lý Duyên khởi: Bậc hạ trí quán chiếu mà
không thấy được Phật tính, và do vì không thấy được
Phật tính, nên chỉ thành tựu được đạo quả Thanh văn mà
thôi.
Bậc trung trí quán
chiếu mà không thấy Phật tính, và do vì không thấy nên
chỉ thành tựu được Duyên giác mà thôi.
Bậc thượng trí quán
chiếu thật tính có sự thấy hiểu, nhưng không thấu
triệt, và do vì thấy hiểu nhưng không thấu triệt, nên
chỉ an trú vào địa vị Thập trú của Bồ-tát mà thôi.
Bậc thượng trí, quán
chiếu thật tính, do vì thấy rõ và quán triệt, nên chứng
đắc đạo quả Vô-thượng" (Ðại Bát Niết-bàn kinh -
Vol 27, tr. 524b. ÐTK 12).
Nguyên lý Duyên khởi là
một thực tại tính (Tathata) là chơn như tính hay còn gọi là
Phật tính (Buddhata). Phật tính của giác ngộ. Phật do giác
ngộ 12 Duyên khởi mà thành Phật. Vậy, 12 Duyên khởi là tính
ngộ của Phật.
Bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào, con người giác ngộ được tính ấy, thì
lúc đó và ngay đó, con người có thể tự trả lời được
câu hỏi, ta là ai? do đâu mà có? và tại sao ta bị khổ đau.
Cũng chính lúc đó, ngay đó, con người có thể tự giải
cứu những khổ đau đang triền buộc lấy chính mình.
Tùy thuận theo 12 Duyên
khởi, đây là điều kiện ắt có và đủ, để con người
luân lưu trong sanh tử luân hồi (Samsàra). Hoàn diệt và đình
chỉ 12 Duyên khởi, đây cũng là điều kiện ắt có và đủ,
để con người dứt bỏ khổ đau, đi đến Niết-bàn
(Nirvana).
Ðiều kiện ắt có và
đủ hay còn gọi là mệnh đề điều kiện (clause condition)
của "nếu và thì"; "thì" luôn luôn phản
ảnh rất trung thực đối với "nếu".
"Nếu" tác nhân như thế này, "thì" hậu
quả sẽ xảy ra như thế này; "nếu" tác nhân như
thế kia, "thì" hậu quả sẽ xảy ra như thế kia...
Nhân (heru) và quả
(phala) gắn liền và sinh khởi là do duyên (pràtitya). Nếu
thiếu duyên nhân không thể nào phát sinh ra quả được.
Trong quá trình sinh
diệt để biến thái từ nhân đến quả và biến thái từ
quả trở thành nhân, thì duyên đã đóng vai trò khá tích
cực trong sự quan hệ này.
Duyên, tiếng Phạn
gọi là Pratitya và chữ Pratitya đã được Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna)
giải thích ở trong Màdhyamika như sau: "Utpadyate pratìtyèmàn
itìme pratyayah kìla" (Màdhyamika pratyaya parìksa gàtha V).
Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, nhưng cái
này người ta gọi nó là những duyên.
Duyên hay là pratitya ở
trong văn học Abhidharma, các luận sư Phật giáo đã phân
chia thành nhiều loại, nhưng sự phân chia có tính thống
nhất, giữa các luận sư, thì duyên (pratitya) gồm có 4
loại như sau:
a. Nhân duyên (Pratyàyàhetu):
Tất cả các pháp sinh khởi và tồn tại đều do quan hệ
giữa nhân và duyên. Nhân (hetu) là năng lực động chính;
duyên (pratitya) là điều kiện hỗ tương phụ, để cho năng
lực tác động ấy được sinh khởi và hình thành.
b. Ðẳng vô gián duyên
(Anantara pratitya): Ðẳng vô
gián duyên hay còn gọi là Thứ đệ duyên. Nghĩa là tất
cả các pháp làm nhân làm duyên cho nhau một cách liên tục,
không bị gián cách.
Hay nói khác đi, pháp
trước làm nhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước,
các pháp cứ tuần tự làm nhân làm duyên cho nhau, mà sanh
khởi liên tục, nếu bị cách trở gián đoạn tức là
thiếu cái duyên này, pháp không sanh ra được.
c. Sở duyên duyên
(Alambana pratìtya): Sở duyên
tiếng Phạn gọi là Alambana; Alambana đi từ động từ gốc
Lam, có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào, vướng vào...
Như vậy, Alambana là đối tượng để cho cái khác vin vào,
dựa vào...
Alambana hay Sở duyên có
thể là thế giới khách quan, pratìtya hay duyên có thể là
thế giới nội tại, thế giới khách quan là đối tượng
(sở duyên) để cho thế giới nội tại khởi sinh sự nhận
thức.
Bất cứ cái gì hàm đủ
cả chủ thể năng phân biệt (pratìtya) lẫn đối tượng
được phân biệt (alambana), thì cái ấy gọi là Sở duyên
duyên (alambana pratìtya).
Hay nói theo trường phái
Duy thức (Vijnàptimàtrata Siddhi), cái nào có khả năng dẫn
sinh sự nhận thức và sự nhận thức ấy, mang ảnh tượng
tương tợ với chúng, thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên.
d. Tăng thượng duyên
(Adhipateyam pratìtya): Tăng
thượng duyên gồm có thuận duyên và nghịch duyên.
- Thuận duyên: là duyên
thuận chiều để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng
từ nhân đến quả.
- Nghịch duyên: là
duyên đối kháng làm trở ngại sự sinh trưởng của nhân.
Tất cả pháp có thể
sinh khởi, tồn tại hay hủy diệt, đều lệ thuộc vào
bốn duyên này.
Trong bốn duyên, thì Ðẳng
vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên là biệt
tướng, còn Nhân duyên là tổng tướng. Nên khi chúng ta nói
nhân duyên, thì có thể hàm đủ cả ba duyên kia.
Tất cả pháp là duyên
khởi, thì nhất định không có tự tính (asvabhava), do không
có tự tính nên chúng mới sinh động vô thường (anitya). Vô
thường là tính thường trực của các pháp Duyên khởi, tính
thường trực của các pháp Duyên khởi là tính không có
tự tính, do tính không có tự tính nên các pháp luôn luôn
sinh thành và luôn luôn hủy diệt.
Bởi vậy, 12 Duyên
khởi nó cũng không có tự tính cho chính nó, nên nó có
thể trở thành bất cứ tính nào. Nếu duyên xấu, nó có
thể trở thành tính xấu; nếu duyên tốt, nó có thể trở
thành tính tốt.
Do đó, trong 12 Duyên
khởi, chúng ta có thể thay thế Vô minh bằng chánh kiến,
Thức bằng chánh trí, Hành bằng chánh nghiệp v.v... để đi
đến đời sống cao thượng.
Sở dĩ chúng ta có
thể thay thế được như vậy, vì tự thân của chúng ta là
duyên khởi.
Ðứng ở mặt nhận
thức chung mà nói, nếu chúng ta chiêm nghiệm về nguyên lý
Duyên khởi, thì chúng ta có thể thấy được toàn bộ cơ
hợp của vũ trụ và chúng ta có thể chuyển đổi vũ trụ
tùy theo ý chí cá nhân và ý chí cộng đồng.
Ðứng ở mặt nhân
sinh mà nói, nếu chúng ta chiêm nghiệm nguyên lý 12 Duyên
khởi, chúng ta có thể thấy được chính chúng ta, và chúng
ta có thể sửa soạn cho chúng ta một cách sống hợp lý.
Và đứng vào lập trường
giác ngộ mà nói, nếu chúng ta quán sát về nguyên lý Duyên
khởi, chúng ta có thể thấy được Phật, vì chúng là
phẩm tính giác ngộ của Phật, chúng ta có thể thấy được
pháp thân của Phật, vì Phật lấy pháp làm bản thân và
bản thân của pháp là duyên khởi.
Chúng ta quán sát lý
Duyên khởi, chúng ta có thể thấy được thực trạng đau
khổ của cuộc đời và nguyên nhân phát sinh những đau
khổ ấy, có thể nhìn thấy con đường đi đến Niết-bàn
và cảm nhận sự tịch tịnh của Niết-bàn.
Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna)
ở trong Trung quán luận, đã mượn một thành ngữ nổi
tiếng của Trung A-hàm để nói lên ý nghĩa này:
"Thị cố kinh
trung thuyết,
Nhược kiến nhân duyên pháp,
Tốc vi năng kiến Phật,
Kiến khổ, tập, diệt, đạo".
(Trung Quán Luận, tr. 334c. ÐTK 30)
Tạm dịch:
"Vì thế trong
kinh nói,
Nếu thấy pháp Duyên khởi,
Có thể là thấy Phật,
Thấy khổ, tập, diệt, đạo".
Ðức Phật đã thấy
pháp Duyên khởi bằng hai cách quán chiếu. Ðó là cách quán
chiếu lưu chuyển và cách quán chiếu hoàn diệt.
Cách quán chiếu lưu
chuyển là cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ nó
theo chiều thuận - nghĩa là cái này sinh nên cái kia sinh - vì
Vô minh sinh khởi nên Hành sinh khởi...
Cách quán chiếu hoàn
diệt là cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ duyên
khởi theo cách đình chỉ và diệt tận. Nghĩa là do cái này
diệt nên cái kia diệt. Vì do Vô minh diệt nên Hành cũng
diệt...
Do giác ngộ duyên
khởi đủ cả hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt mà đức
Phật thành Phật.
Bất cứ ai, thấy được
pháp Duyên khởi cả hai mặt, người đó có thể thấy
Phật, có thể thấy được pháp thân của Phật và ngay
trong Duyên khởi có thể thấy được khổ, tập, diệt, đạo.
Chẳng hạn, quán
chiếu 12 Duyên khởi theo lưu chuyển, đó là cách quán
chiếu về khổ và tập, cách quán chiếu Duyên khởi theo hoàn
diệt, đó là quán chiếu về diệt và đạo.
Hay nói theo ngài Uất-lăng-ca,
thấy Vô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là thấy Tập đế; thấy
Thức, Danh sắc, Lục nhập, Thọ, Sanh, Lão tử là thấy
Khổ đế; hủy diệt 12 chi phần của Duyên khởi ấy, là
Diệt đế; hiểu biết tính chất như thật của 12 Duyên
khởi ấy, là Ðạo đế (Duyên sanh luận tr. 468a ÐTK 32).
Như vậy, chúng ta có
thể nói, chủ yếu của giáo pháp đức Phật chính là pháp
Duyên khởi và pháp Tứ đế cũng chỉ được trình bày qua
những giác khác, dễ hiểu hơn của pháp Duyên khởi mà thôi.
Ðối với tất cả loài
hữu tình, tính Duyên khởi là Phật tính (Buddhata), đối
với tất cả loài vô tình, tính Duyên khởi là Pháp tính
(Dharmata).
Phật tính hay Pháp tính
đối với tình (sattva) hay phi tình (asattva) đều là tính thường
trú, tính quyết định và tính y tha.
a. Tính thường trú:
Nguyên lý Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú - Nghĩa
là tất cả pháp trong quá khứ cũng do duyên mà khởi, hiện
tại cũng do duyên mà khởi, nơi này cũng do duyên mà khởi,
nơi kia cũng do duyên mà khởi. Bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào, pháp vốn là như thế, pháp vốn là duyên khởi, nên
tính duyên khởi là tính thường trú của tất cả pháp.
Lại nữa, tính ấy,
nếu đứng ở mặt thuần giác ngộ mà nói, thì chư Phật
trong quá khứ, như đức Phật Tỳ-bà-thi (Nipasì), Phật
Thi-khí (Sikhì), Phật Tỳ-xá-phù (Vessàbhù), Phật Câu-lưu-tôn
(Kakusandha), Phật Câu-na-hàm (Konàgamana), Phật Ca-diếp
(Kassapa), tất cả chư Phật đều do quan sát chiêm nghiệm
về lý Duyên khởi mà thành tựu Vô thượng Bồ-đề
(Anuttara Samyaksambodhi).
Ngay trong hiện tại, đức
Phật Thích-ca Mâu-ni (Sakyamuni) cũng do quán sát, chiêm
nghiệm lý Duyên khởi mà thành Phật. Và vị lai chư Phật cũng
sẽ như thế, thì không thể không quán sát nguyên lý Duyên
khởi. Vì thế nguyên lý Duyên khởi ở quá khứ nó đã
xảy ra và hiện hữu như thế. Vị lai nó sẽ xảy ra và nó
sẽ hiện hữu như thế ở nơi này, hoặc nơi kia; nó đã,
đang và sẽ xảy ra; và nó cũng đã, đang và sẽ hiện hữu
như thế.
Vì do bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào, chính Duyên khởi cũng xảy ra như vậy
cả, nên gọi chúng là pháp có tính thường trú, siêu việt
và bất tư nghị.
b. Tính chất quyết định:
Pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi, là nguyên lý có tính
cách quyết định sự hiện hữu và không hiện hữu của
tất cả pháp hay của tất cả sự vật. Nếu đủ duyên thì
các pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn.
Nói cách khác, nếu không
có duyên, thì không có một pháp nào tự thân nó duyên
khởi được.
Bởi vậy, Kinh nói:
"Tất cả pháp tự nhân duyên sinh khởi, nếu không có
nhân duyên thì không có sự sinh khởi của tất cả pháp".
(Quán Thế AÂm Bồ-tát thọ ký kinh. Tr. 353c, ÐTK 12).
Do đó, nguyên lý Duyên
khởi có tính cách quyết định sự tồn tại hay không tồn
tại của tất cả pháp hay của tất cả sự vật.
c. Tính y tha:
Pháp Duyên là pháp có tính nương tựa lẫn nhau để sinh
khởi. Do tính này, nên các pháp không bao giờ có sự tồn
tại độc lập nếu có chăng là có ở cách nói, chứ không
bao giờ thực sự có ở bản chất.
Vì tự bản chất của
chúng là hỗ tương, là nương tựa, là tác động qua lại
lẫn nhau để sinh thành và hủy diệt. Nên một sự hủy có
thể kéo theo muôn ngàn sự hủy; một sự sinh có thể kéo
theo muôn ngàn sự sinh. Và nếu chúng ta biết lắng nghe, thì
chỉ cần một cánh bướm vỗ nhẹ, cũng nghe chao động cả
ba ngàn đại thiên thế giới. Và nếu chúng ta biết ngắm
nhìn, thì chỉ cần nhìn thẳng vào một hạt cát, cũng đủ
để thấy rõ bản chất của thế giới mười phương.
Nói tắt, tính của các
pháp là tính luôn luôn nương tựa, luôn luôn tác động
lẫn nhau để sinh khởi. Vì vậy, tính y tha là tính của pháp.
Ba tính vừa nêu, có
thể nói đó là ba tính hệ trọng của pháp Duyên khởi hay
nguyên lý Duyên khởi.
Pháp Duyên khởi có
thể nói là giáo pháp chủ yếu của Phật giáo, vì pháp
ấy bao hàm đủ cả các pháp ấn vô thường (anitiya),
khổ (dukkha), không (sùnya), vô ngã (àntama).
Các pháp ấy, không có
trường phái nào trong Phật giáo, không xem chúng là giáo lý
có tính cách ngăn để.
Ðành rằng, các pháp
ấy, được các trường phái Phật giáo xem chúng là giáo lý
có tính cách ngăn để, nhưng tại sao Duyên khởi lại là giáo
lý nội hàm các pháp ấn ấy? Giáo lý Duyên khởi nội hàm
các pháp ấy, vì tất cả pháp là duyên khởi, cái gì do duyên
khởi, thì cái ấy là vô thường, cái gì vô thường, thì cái
ấy phải có thành, trụ, hoại, không. Nếu chấp chặt và
cảm thọ vào những thành, trụ, hoại, không ấy, thì nhất
định phải khổ đau.
Tất cả pháp là duyên
khởi nên không có tự tính, vì không có tự tính cho nên vô
ngã, do vô ngã nên không có thần ngã nào gọi là bất
biến và vĩnh cữu. Do không có một thần ngã nào gọi là
bất biến và vĩnh cửu, nên con người có thể tu tập, có
thể cải tạo, có thể chuyển đổi từ ngu dốt đến trí
tuệ, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ ác sang thiện, từ
ích kỷ đến vị tha, từ phàm tục đến thánh giả.
Dựa vào chừng ấy lý
do, cũng đủ để cho chúng ta có thể kết luận rằng: nguyên
lý Duyên khởi là giáo pháp chủ yếu của đạo Phật.
Chúng ta thường trực quán chiếu và thường trực thấu
triệt nguyên lý ấy, thì nhất định chúng ta sẽ là Phật
như chư Phật đã làm.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 01
| 02 | 03
| 04 | 05
| 06 | 07
| 08 | 09
| 10 | 11
| 12 | 13
| 14 | 15
| Mục lục |