| 
         [01] 
        
        NGUYÊN LÝ DUYÊN 
        KHỞI 
        TRONG GIÁO PHÁP ÐỨC PHẬT
        
        -ooOoo- 
        
        H ễ 
        nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không 
        nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa). 
        Vì pháp Duyên khởi là nguyên lý cơ bản và thiết yếu 
        của sự giác ngộ.
        Ðức Phật thành Phật 
        là do Ngài chiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt 
        của nguyên lý 12 Duyên khởi mà thành tựu. 
        Trong kinh A-hàm đức 
        Phật nói: "Thế nào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là 
        do duyên với Vô minh mà Hành khởi sinh, dù Phật có ra đời 
        hay không ra đời, nguyên lý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú 
        trong pháp giới. Như Lai tự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy 
        để giác tri, để thành tựu Vô thượng Bồ-đề, rồi tuyên 
        thuyết, rồi khai thị, rồi hiển phát cho mọi người". 
        (Tạp A-hàm, q.12 tr. 84b ÐTK2). 
        Do giác ngộ nguyên lý 
        Duyên khởi, đức Phật hiển nhiên trở thành Phật. Nên khi 
        dạy dỗ, giáo hóa chúng sanh, đức Phật đã khai thị nguyên 
        lý này qua nhiều dạng thức, qua nhiều cấp độ và qua 
        nhiều phương tiện sâu cạn khác nhau. 
        Kinh Pháp Hoa nói: 
        "Chư Phật là đấng tôn kính, đầy đủ trí tuệ và 
        từ bi, biết tất cả pháp luôn luôn là không có tự tánh. 
        Phật chủng cũng chỉ từ duyên mà khởi. Vì vậy mà tuyên 
        bố Nhất thừa. Sự an trú, sự định vị của tất cả pháp 
        là vốn như thế. Nó vốn là hình thái thường trú của 
        thế gian, từ đạo tràng biết một cách chân xác như thế 
        rồi, đấng Ðạo sư mới tùy phương tiện mà tuyên nói". 
        (Kinh Pháp Hoa tr. 9b ÐTK9). 
        Giác ngộ một cách chân 
        xác về nguyên lý Duyên khởi là giác ngộ rằng, tất cả các 
        pháp không bao giờ sinh khởi cô độc, mà nó sinh khởi trong 
        nguyên tắc tất yếu: "Nếu cái này hiện hữu, thì cái 
        kia hiện hữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không 
        hiện hữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi. 
        Nếu cái này không sinh khởi, thì cái kia không sinh 
        khởi". 
        Toàn bộ Giáo pháp 
        của đức Phật thuyết giảng chỉ trụ vào điểm này. Và 
        cũng chính ở điểm này làm nguyên lý phổ biến chung cho 
        sự sinh khởi của tất cả khí thế gian và tình thế gian. 
        Khí thế gian là mọi 
        sự kiện hiện hữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình 
        thế gian là mọi sự kiện hiện hữu và tồn tại gồm đủ 
        cả tâm lý và vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về tâm 
        lý. 
        Tính Duyên khởi đối 
        với tình thế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười 
        hai Duyên khởi, gồm có Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, 
        Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Sáu xứ, Sáu xứ duyên 
        Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên 
        Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử. 
        Mười hai Duyên khởi này 
        làm nhân làm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân 
        quả, khiến con người bị đắm chìm trong sinh tử luân 
        hồi. Và nhân quả của 12 Duyên khởi này cứ tiếp tục 
        sinh khởi khắp cả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông 
        vô tận. 
        Chẳng hạn, Vô minh và 
        Hành là nhân của quá khứ. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, 
        Thọ, Ái, Thủ, Hữu là nhân của hiện tại; Sanh, Lão tử là 
        quả của vị lai. 
        Nhân quả ba đời trong 
        12 Duyên khởi, cứ cái này làm duyên cho cái kia, cái kia làm 
        nhân cho cái này, cứ như thế sinh khởi cho đến vô cùng vô 
        tận. 
        Trong 12 Duyên khởi này, 
        mỗi yếu tố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có 
        yếu tố nào là nhân hoàn toàn hay duyên hoàn toàn. 
        Chính 12 yếu tố Duyên 
        khởi này đã làm nhân làm duyên cho nhau, để sinh khởi và 
        chi phối toàn bộ sinh mệnh, cũng như đời sống của con người. 
        Khi nào con người 
        hiểu được 12 yếu tố Duyên khởi này và quán chiếu thường 
        trực về chúng, thì khi ấy, tùy theo mức độ sâu cạn 
        của quán chiếu mà tầm cỡ giác ngộ được khẳng định. 
        Kinh Ðại Bát Niết-bàn 
        nói: 
        "Có bốn hạng giác 
        ngộ về nguyên lý Duyên khởi: Bậc hạ trí quán chiếu mà 
        không thấy được Phật tính, và do vì không thấy được 
        Phật tính, nên chỉ thành tựu được đạo quả Thanh văn mà 
        thôi. 
        Bậc trung trí quán 
        chiếu mà không thấy Phật tính, và do vì không thấy nên 
        chỉ thành tựu được Duyên giác mà thôi. 
        Bậc thượng trí quán 
        chiếu thật tính có sự thấy hiểu, nhưng không thấu 
        triệt, và do vì thấy hiểu nhưng không thấu triệt, nên 
        chỉ an trú vào địa vị Thập trú của Bồ-tát mà thôi. 
        Bậc thượng trí, quán 
        chiếu thật tính, do vì thấy rõ và quán triệt, nên chứng 
        đắc đạo quả Vô-thượng" (Ðại Bát Niết-bàn kinh - 
        Vol 27, tr. 524b. ÐTK 12). 
        Nguyên lý Duyên khởi là 
        một thực tại tính (Tathata) là chơn như tính hay còn gọi là 
        Phật tính (Buddhata). Phật tính của giác ngộ. Phật do giác 
        ngộ 12 Duyên khởi mà thành Phật. Vậy, 12 Duyên khởi là tính 
        ngộ của Phật. 
        Bất cứ ở đâu và 
        bất cứ lúc nào, con người giác ngộ được tính ấy, thì 
        lúc đó và ngay đó, con người có thể tự trả lời được 
        câu hỏi, ta là ai? do đâu mà có? và tại sao ta bị khổ đau. 
        Cũng chính lúc đó, ngay đó, con người có thể tự giải 
        cứu những khổ đau đang triền buộc lấy chính mình. 
        Tùy thuận theo 12 Duyên 
        khởi, đây là điều kiện ắt có và đủ, để con người 
        luân lưu trong sanh tử luân hồi (Samsàra). Hoàn diệt và đình 
        chỉ 12 Duyên khởi, đây cũng là điều kiện ắt có và đủ, 
        để con người dứt bỏ khổ đau, đi đến Niết-bàn 
        (Nirvana). 
        Ðiều kiện ắt có và 
        đủ hay còn gọi là mệnh đề điều kiện (clause condition) 
        của "nếu và thì"; "thì" luôn luôn phản 
        ảnh rất trung thực đối với "nếu". 
        "Nếu" tác nhân như thế này, "thì" hậu 
        quả sẽ xảy ra như thế này; "nếu" tác nhân như 
        thế kia, "thì" hậu quả sẽ xảy ra như thế kia... 
        Nhân (heru) và quả 
        (phala) gắn liền và sinh khởi là do duyên (pràtitya). Nếu 
        thiếu duyên nhân không thể nào phát sinh ra quả được. 
        Trong quá trình sinh 
        diệt để biến thái từ nhân đến quả và biến thái từ 
        quả trở thành nhân, thì duyên đã đóng vai trò khá tích 
        cực trong sự quan hệ này. 
        Duyên, tiếng Phạn 
        gọi là Pratitya và chữ Pratitya đã được Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) 
        giải thích ở trong Màdhyamika như sau: "Utpadyate pratìtyèmàn 
        itìme pratyayah kìla" (Màdhyamika pratyaya parìksa gàtha V). 
        Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, nhưng cái 
        này người ta gọi nó là những duyên. 
        Duyên hay là pratitya ở 
        trong văn học Abhidharma, các luận sư Phật giáo đã phân 
        chia thành nhiều loại, nhưng sự phân chia có tính thống 
        nhất, giữa các luận sư, thì duyên (pratitya) gồm có 4 
        loại như sau: 
        
        a. Nhân duyên (Pratyàyàhetu): 
        Tất cả các pháp sinh khởi và tồn tại đều do quan hệ 
        giữa nhân và duyên. Nhân (hetu) là năng lực động chính; 
        duyên (pratitya) là điều kiện hỗ tương phụ, để cho năng 
        lực tác động ấy được sinh khởi và hình thành. 
        
        b. Ðẳng vô gián duyên 
        (Anantara pratitya): Ðẳng vô 
        gián duyên hay còn gọi là Thứ đệ duyên. Nghĩa là tất 
        cả các pháp làm nhân làm duyên cho nhau một cách liên tục, 
        không bị gián cách. 
        Hay nói khác đi, pháp 
        trước làm nhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước, 
        các pháp cứ tuần tự làm nhân làm duyên cho nhau, mà sanh 
        khởi liên tục, nếu bị cách trở gián đoạn tức là 
        thiếu cái duyên này, pháp không sanh ra được. 
        
        c. Sở duyên duyên 
        (Alambana pratìtya): Sở duyên 
        tiếng Phạn gọi là Alambana; Alambana đi từ động từ gốc 
        Lam, có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào, vướng vào... 
        Như vậy, Alambana là đối tượng để cho cái khác vin vào, 
        dựa vào... 
        Alambana hay Sở duyên có 
        thể là thế giới khách quan, pratìtya hay duyên có thể là 
        thế giới nội tại, thế giới khách quan là đối tượng 
        (sở duyên) để cho thế giới nội tại khởi sinh sự nhận 
        thức. 
        Bất cứ cái gì hàm đủ 
        cả chủ thể năng phân biệt (pratìtya) lẫn đối tượng 
        được phân biệt (alambana), thì cái ấy gọi là Sở duyên 
        duyên (alambana pratìtya). 
        Hay nói theo trường phái 
        Duy thức (Vijnàptimàtrata Siddhi), cái nào có khả năng dẫn 
        sinh sự nhận thức và sự nhận thức ấy, mang ảnh tượng 
        tương tợ với chúng, thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên. 
        
        d. Tăng thượng duyên 
        (Adhipateyam pratìtya): Tăng 
        thượng duyên gồm có thuận duyên và nghịch duyên. 
        
          - Thuận duyên: là duyên 
          thuận chiều để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng 
          từ nhân đến quả. 
          - Nghịch duyên: là 
          duyên đối kháng làm trở ngại sự sinh trưởng của nhân. 
         
        Tất cả pháp có thể 
        sinh khởi, tồn tại hay hủy diệt, đều lệ thuộc vào 
        bốn duyên này. 
        Trong bốn duyên, thì Ðẳng 
        vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên là biệt 
        tướng, còn Nhân duyên là tổng tướng. Nên khi chúng ta nói 
        nhân duyên, thì có thể hàm đủ cả ba duyên kia. 
        Tất cả pháp là duyên 
        khởi, thì nhất định không có tự tính (asvabhava), do không 
        có tự tính nên chúng mới sinh động vô thường (anitya). Vô 
        thường là tính thường trực của các pháp Duyên khởi, tính 
        thường trực của các pháp Duyên khởi là tính không có 
        tự tính, do tính không có tự tính nên các pháp luôn luôn 
        sinh thành và luôn luôn hủy diệt. 
        Bởi vậy, 12 Duyên 
        khởi nó cũng không có tự tính cho chính nó, nên nó có 
        thể trở thành bất cứ tính nào. Nếu duyên xấu, nó có 
        thể trở thành tính xấu; nếu duyên tốt, nó có thể trở 
        thành tính tốt. 
        Do đó, trong 12 Duyên 
        khởi, chúng ta có thể thay thế Vô minh bằng chánh kiến, 
        Thức bằng chánh trí, Hành bằng chánh nghiệp v.v... để đi 
        đến đời sống cao thượng. 
        Sở dĩ chúng ta có 
        thể thay thế được như vậy, vì tự thân của chúng ta là 
        duyên khởi. 
        Ðứng ở mặt nhận 
        thức chung mà nói, nếu chúng ta chiêm nghiệm về nguyên lý 
        Duyên khởi, thì chúng ta có thể thấy được toàn bộ cơ 
        hợp của vũ trụ và chúng ta có thể chuyển đổi vũ trụ 
        tùy theo ý chí cá nhân và ý chí cộng đồng. 
        Ðứng ở mặt nhân 
        sinh mà nói, nếu chúng ta chiêm nghiệm nguyên lý 12 Duyên 
        khởi, chúng ta có thể thấy được chính chúng ta, và chúng 
        ta có thể sửa soạn cho chúng ta một cách sống hợp lý. 
        Và đứng vào lập trường 
        giác ngộ mà nói, nếu chúng ta quán sát về nguyên lý Duyên 
        khởi, chúng ta có thể thấy được Phật, vì chúng là 
        phẩm tính giác ngộ của Phật, chúng ta có thể thấy được 
        pháp thân của Phật, vì Phật lấy pháp làm bản thân và 
        bản thân của pháp là duyên khởi. 
        Chúng ta quán sát lý 
        Duyên khởi, chúng ta có thể thấy được thực trạng đau 
        khổ của cuộc đời và nguyên nhân phát sinh những đau 
        khổ ấy, có thể nhìn thấy con đường đi đến Niết-bàn 
        và cảm nhận sự tịch tịnh của Niết-bàn. 
        Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) 
        ở trong Trung quán luận, đã mượn một thành ngữ nổi 
        tiếng của Trung A-hàm để nói lên ý nghĩa này: 
        
          
          "Thị cố kinh 
          trung thuyết, 
          Nhược kiến nhân duyên pháp, 
          Tốc vi năng kiến Phật, 
          Kiến khổ, tập, diệt, đạo". 
          (Trung Quán Luận, tr. 334c. ÐTK 30) 
           
        
        Tạm dịch: 
        
          
          "Vì thế trong 
          kinh nói, 
          Nếu thấy pháp Duyên khởi, 
          Có thể là thấy Phật, 
          Thấy khổ, tập, diệt, đạo". 
           
        
        Ðức Phật đã thấy 
        pháp Duyên khởi bằng hai cách quán chiếu. Ðó là cách quán 
        chiếu lưu chuyển và cách quán chiếu hoàn diệt. 
        Cách quán chiếu lưu 
        chuyển là cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ nó 
        theo chiều thuận - nghĩa là cái này sinh nên cái kia sinh - vì 
        Vô minh sinh khởi nên Hành sinh khởi... 
        Cách quán chiếu hoàn 
        diệt là cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ duyên 
        khởi theo cách đình chỉ và diệt tận. Nghĩa là do cái này 
        diệt nên cái kia diệt. Vì do Vô minh diệt nên Hành cũng 
        diệt... 
        Do giác ngộ duyên 
        khởi đủ cả hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt mà đức 
        Phật thành Phật. 
        Bất cứ ai, thấy được 
        pháp Duyên khởi cả hai mặt, người đó có thể thấy 
        Phật, có thể thấy được pháp thân của Phật và ngay 
        trong Duyên khởi có thể thấy được khổ, tập, diệt, đạo. 
        Chẳng hạn, quán 
        chiếu 12 Duyên khởi theo lưu chuyển, đó là cách quán 
        chiếu về khổ và tập, cách quán chiếu Duyên khởi theo hoàn 
        diệt, đó là quán chiếu về diệt và đạo. 
        Hay nói theo ngài Uất-lăng-ca, 
        thấy Vô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là thấy Tập đế; thấy 
        Thức, Danh sắc, Lục nhập, Thọ, Sanh, Lão tử là thấy 
        Khổ đế; hủy diệt 12 chi phần của Duyên khởi ấy, là 
        Diệt đế; hiểu biết tính chất như thật của 12 Duyên 
        khởi ấy, là Ðạo đế (Duyên sanh luận tr. 468a ÐTK 32). 
        Như vậy, chúng ta có 
        thể nói, chủ yếu của giáo pháp đức Phật chính là pháp 
        Duyên khởi và pháp Tứ đế cũng chỉ được trình bày qua 
        những giác khác, dễ hiểu hơn của pháp Duyên khởi mà thôi. 
        Ðối với tất cả loài 
        hữu tình, tính Duyên khởi là Phật tính (Buddhata), đối 
        với tất cả loài vô tình, tính Duyên khởi là Pháp tính 
        (Dharmata). 
        Phật tính hay Pháp tính 
        đối với tình (sattva) hay phi tình (asattva) đều là tính thường 
        trú, tính quyết định và tính y tha. 
        
        a. Tính thường trú: 
        Nguyên lý Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú - Nghĩa 
        là tất cả pháp trong quá khứ cũng do duyên mà khởi, hiện 
        tại cũng do duyên mà khởi, nơi này cũng do duyên mà khởi, 
        nơi kia cũng do duyên mà khởi. Bất cứ ở đâu và bất cứ 
        lúc nào, pháp vốn là như thế, pháp vốn là duyên khởi, nên 
        tính duyên khởi là tính thường trú của tất cả pháp. 
        Lại nữa, tính ấy, 
        nếu đứng ở mặt thuần giác ngộ mà nói, thì chư Phật 
        trong quá khứ, như đức Phật Tỳ-bà-thi (Nipasì), Phật 
        Thi-khí (Sikhì), Phật Tỳ-xá-phù (Vessàbhù), Phật Câu-lưu-tôn 
        (Kakusandha), Phật Câu-na-hàm (Konàgamana), Phật Ca-diếp 
        (Kassapa), tất cả chư Phật đều do quan sát chiêm nghiệm 
        về lý Duyên khởi mà thành tựu Vô thượng Bồ-đề 
        (Anuttara Samyaksambodhi). 
        Ngay trong hiện tại, đức 
        Phật Thích-ca Mâu-ni (Sakyamuni) cũng do quán sát, chiêm 
        nghiệm lý Duyên khởi mà thành Phật. Và vị lai chư Phật cũng 
        sẽ như thế, thì không thể không quán sát nguyên lý Duyên 
        khởi. Vì thế nguyên lý Duyên khởi ở quá khứ nó đã 
        xảy ra và hiện hữu như thế. Vị lai nó sẽ xảy ra và nó 
        sẽ hiện hữu như thế ở nơi này, hoặc nơi kia; nó đã, 
        đang và sẽ xảy ra; và nó cũng đã, đang và sẽ hiện hữu 
        như thế. 
        Vì do bất cứ ở đâu 
        và bất cứ lúc nào, chính Duyên khởi cũng xảy ra như vậy 
        cả, nên gọi chúng là pháp có tính thường trú, siêu việt 
        và bất tư nghị. 
        
        b. Tính chất quyết định: 
        Pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi, là nguyên lý có tính 
        cách quyết định sự hiện hữu và không hiện hữu của 
        tất cả pháp hay của tất cả sự vật. Nếu đủ duyên thì 
        các pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn. 
        Nói cách khác, nếu không 
        có duyên, thì không có một pháp nào tự thân nó duyên 
        khởi được. 
        Bởi vậy, Kinh nói: 
        "Tất cả pháp tự nhân duyên sinh khởi, nếu không có 
        nhân duyên thì không có sự sinh khởi của tất cả pháp". 
        (Quán Thế AÂm Bồ-tát thọ ký kinh. Tr. 353c, ÐTK 12). 
        Do đó, nguyên lý Duyên 
        khởi có tính cách quyết định sự tồn tại hay không tồn 
        tại của tất cả pháp hay của tất cả sự vật. 
        
        c. Tính y tha: 
        Pháp Duyên là pháp có tính nương tựa lẫn nhau để sinh 
        khởi. Do tính này, nên các pháp không bao giờ có sự tồn 
        tại độc lập nếu có chăng là có ở cách nói, chứ không 
        bao giờ thực sự có ở bản chất. 
        Vì tự bản chất của 
        chúng là hỗ tương, là nương tựa, là tác động qua lại 
        lẫn nhau để sinh thành và hủy diệt. Nên một sự hủy có 
        thể kéo theo muôn ngàn sự hủy; một sự sinh có thể kéo 
        theo muôn ngàn sự sinh. Và nếu chúng ta biết lắng nghe, thì 
        chỉ cần một cánh bướm vỗ nhẹ, cũng nghe chao động cả 
        ba ngàn đại thiên thế giới. Và nếu chúng ta biết ngắm 
        nhìn, thì chỉ cần nhìn thẳng vào một hạt cát, cũng đủ 
        để thấy rõ bản chất của thế giới mười phương. 
        Nói tắt, tính của các 
        pháp là tính luôn luôn nương tựa, luôn luôn tác động 
        lẫn nhau để sinh khởi. Vì vậy, tính y tha là tính của pháp. 
        Ba tính vừa nêu, có 
        thể nói đó là ba tính hệ trọng của pháp Duyên khởi hay 
        nguyên lý Duyên khởi. 
        Pháp Duyên khởi có 
        thể nói là giáo pháp chủ yếu của Phật giáo, vì pháp 
        ấy bao hàm đủ cả các pháp ấn vô thường (anitiya), 
        khổ (dukkha), không (sùnya), vô ngã (àntama). 
        Các pháp ấy, không có 
        trường phái nào trong Phật giáo, không xem chúng là giáo lý 
        có tính cách ngăn để. 
        Ðành rằng, các pháp 
        ấy, được các trường phái Phật giáo xem chúng là giáo lý 
        có tính cách ngăn để, nhưng tại sao Duyên khởi lại là giáo 
        lý nội hàm các pháp ấn ấy? Giáo lý Duyên khởi nội hàm 
        các pháp ấy, vì tất cả pháp là duyên khởi, cái gì do duyên 
        khởi, thì cái ấy là vô thường, cái gì vô thường, thì cái 
        ấy phải có thành, trụ, hoại, không. Nếu chấp chặt và 
        cảm thọ vào những thành, trụ, hoại, không ấy, thì nhất 
        định phải khổ đau. 
        Tất cả pháp là duyên 
        khởi nên không có tự tính, vì không có tự tính cho nên vô 
        ngã, do vô ngã nên không có thần ngã nào gọi là bất 
        biến và vĩnh cữu. Do không có một thần ngã nào gọi là 
        bất biến và vĩnh cửu, nên con người có thể tu tập, có 
        thể cải tạo, có thể chuyển đổi từ ngu dốt đến trí 
        tuệ, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ ác sang thiện, từ 
        ích kỷ đến vị tha, từ phàm tục đến thánh giả. 
        Dựa vào chừng ấy lý 
        do, cũng đủ để cho chúng ta có thể kết luận rằng: nguyên 
        lý Duyên khởi là giáo pháp chủ yếu của đạo Phật. 
        Chúng ta thường trực quán chiếu và thường trực thấu 
        triệt nguyên lý ấy, thì nhất định chúng ta sẽ là Phật 
        như chư Phật đã làm. 
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 
        | 04 | 05 
        | 06 | 07 
        | 08 | 09 
        | 10 | 11 
        | 12 | 13 
        | 14 | 15 
        | Mục lục  |