Chiếu
Kiến Nghiệp Xứ - Vipassana Kammatthana
Tỳ Kheo Giác Chánh
Nhâm Thân, P.L. 2536 - 1992
Chương Năm Chư Hành Vô ThườngHành giả vẫn tiếp tục luyện tập SATI (Niệm) cho thuần thục, tinh nhuần. Sati càng được vững, càng tốt. Trong những lúc luyện tập Sati, ghi nhận biết rõ bốn đại oai nghi và các tiểu oai nghi (co tay, duỗi chân,...). Thỉnh thoảng sẽ bị lãng quên sự Niệm (theo dõi thân tâm). Hay nói cho đúng hơn, trong buổi đầu, hành giả thường bị phóng tâm, thất niệm, tức là trong khi theo dõi hơi thở vô, hơi thở ra chẳng hạn, thì hành giả có thể suy nghĩ đến một vấn đề gì, nhớ lại một sự vật gì, hay nhận thức một ngoại cảnh (như tiếng động chẳng hạn), hoặc thỏa thích hay buồn chán một việc gì đó. Khi chợt nhớ lại "Nãy giờ mình đã phóng tâm" thì hành giả không cần phải làm lại động tác đã bị bỏ quên (như phóng tâm trong lúc đang đi kinh hành) mà chỉ cần ghi nhận "quên niệm", hay ghi nhận rằng "suy nghĩ" (nếu hành giả vừa suy nghĩ), hay ghi nhận "nhớ tưởng" (nếu hành giả vừa nhớ tưởng), hay ghi nhận "biết" (nếu hành giả vừa nhận thức một ngoại cảnh), hay ghi nhận "cảm thọ" (nếu hành giả vừa thỏa thích, hay buồn chán). Nói tóm lại, hành giả quên Niệm do nguyên nhân nào thì phải ghi nhận ngay nguyên nhân đó, tức là trạng thái Thân hay Tâm vừa sinh diệt. Hành giả nên biết rằng đối với Thân (Sắc - Rupa) có thể nhận thức ngay khi chúng đang diễn tiến (như thân đau nhức, ngứa ngáy...), nhưng với Tâm của mình thì chỉ có thể ghi nhận Tâm cận hiện tại mà thôi, vì Tâm không thể đồng thời sinh diệt hai thứ Tâm cùng một lúc (một sát na - Khana). Thí dụ: khi trông thấy một đối tượng (cảnh tướng phần) khả ái, sự ưa thích khởi lên (tâm tham), hành giả ghi nhận "tham ái" thì tâm tham ái ấy đã diệt và đã trở thành sở tri (bị biết, chỗ biết), sở quán (bị xét, chỗ xét) của tâm thiện hợp trí (tâm thiện dục giới). Như vậy là khi trông thấy cảnh đẹp, tâm tham ái sinh khởi, thì cảnh đẹp là sở tri, còn tâm tham ái là năng tri. Khi tâm thiện nhận thức tâm tham ái, thì tâm tham ai là sở tri, tâm thiện là năng tri. Và khi tâm thiện sinh, thì tâm tham ái diệt, chứ không thể nào hai tâm cùng tồn tại (các thứ tâm khác dù cùng một loại như tâm thiện biết tâm thiện, tâm bất thiện biết tâm bất thiện thì cũng theo cơ chế đó). Ðó là định lý cố nhiên (Cittaniyama), cho nên niệm tâm hay quán tâm là "tâm hiện tại nhận biết tâm cận hiện tại" mà thôi. Khi hành giả trông thấy một cảnh Sắc (vật bị mắt thấy) nào đó, nếu thích Niệm về Căn thì ghi nhận rằng "Thấy" (thấy đây là cách trông thấy của mắt, thuộc về Sắc). Nếu thích Niệm về Cảnh thì ghi nhận rằng "Sắc" (vật bị thấy, chỗ thấy, sở kiến), nếu thích Niệm về Thức thì ghi nhận rằng "Biết" (sự biết của mắt năng tri). Khi hành giả nghe một tiếng động nào đó, nếu thích Niệm về Căn thì ghi nhận rằng "Nghe", nếu thích Niệm về Cảnh thì ghi nhận "Tiếng " hay "Thinh" (vật bị nghe), nếu thích niệm về Thức (Danh) thì ghi nhận rằng "Biết" (sự biết của tai). Khi hành giả ngửi phải hơi mùi nào đó (như thơm, thúi), nếu thích Niệm về Căn (Nội Sắc hay nội Xứ) thì ghi nhận rằng: "Ngửi", nếu thích Niệm về Cảnh thì ghi nhận "Mùi" (cảnh khí), nếu thích niệm về Thức (Danh) thì ghi nhận rằng "Biết" (sự biết của mũi). Khi hành giả ăn hay uống, nếu thích Niệm về Căn thì ghi nhận rằng "Nếm", nếu thích Niệm về Cảnh thì ghi nhận rằng: "Vị", nếu thích niệm về Thức (Danh) thì ghi nhận rằng "Biết" (sự biết của lưỡi). Khi hành giả đụng chạm chỗ nằm, chỗ ngồi, chỗ đi, chỗ đứng, hay chạm nhằm vật nóng, lạnh v.v., nếu thích Niệm về Căn thì ghi nhận rằng "Ðụng", nếu thích Niệm về Cảnh thì ghi nhận "Xúc" (cảnh xúc: đất, lửa, gió), nếu thích niệm về Thức (Danh) thì ghi nhận rằng "Biết " (sự biết của thân). Khi hành giả suy nghĩ về một sự
việc gì, nếu thích Niệm về Căn thì ghi nhận rằng "Suy Nghĩ"
(hai Tâm Tiếp Thân và Ngũ Môn hướng Tâm), nếu thích Niệm
về Cảnh thì ghi nhận rằng "Pháp" (52 Tâm Sở, 16 Sắc
tế), nếu thích niệm về Thức (Danh) thì ghi nhận rằng "Biết"
(sự biết của ý: 108 Tâm Ý-Thức-Giới). Quán Vô Thường Sau một thời gian luyện tập Sati thuần thục trong sự phân biệt rõ ràng về 6 Căn, 6 Cảnh và 6 Thức (tức 18 Giới), hành giả bắt đầu tập Quán (Vicarana) cho thấy trạng thái vô thường của Căn, Cảnh, Thức. Nên lưu ý rằng Quán ở đây không phải là Tuệ trực giác thật biết về Sắc Danh, nhưng phải Quán vì có Quán mới có Tuệ trực giác sinh khởi. Trong khi Quán tức là ngưng Niệm, đừng tưởng lầm Quán là Niệm (Niệm là sự ghi nhận rõ ràng về sự hiện hữu của Danh và Sắc; Quán là suy xét về bản chất của Danh và Sắc; Tuệ Trực giác là thấy rõ tính chất của Danh và Sắc). Hành giả nên tự đặt ra câu hỏi như sau: "Vật này là thường hay vô thường?" Rồi tự đưa ra biện chứng để giải đáp: "Nếu vật này là Thường thì nó không bị sinh diệt đổi thay". Tới đây hành giả cố dùng trí tuệ suy xét coi vật ấy có bị sinh diệt đổi thay hay không, nếu thấy rõ nó bị sinh diệt đổi thay thì tự hành giả kết luận rằng: "Như vậy, vật này là vô thường". Cứ như thế, hành giả quán sát từ vật nầy đến vật khác. Sẽ có nhiều vật, tướng vô thường của nó rất vi tế, nghiêm nhặt hay ẩn khuất mà hành giả chưa có thể thấy được thì hãy tập quán các vật nào dễ thấy, dễ nhận, lần lần cho đến khi có Trí Tuệ sắc bén và vững mạnh, rồi thì chẳng những khối sắt, hòn đá mà cả trái đất (địa cầu) hành giả sẽ thấy rõ bản chất, tướng trạng vô thường của nó, đúng như Phật ngôn: Sabbe Sankhara Aniccati (Các Pháp hữu vi đều là vô thường). Khi hành giả trông thấy một Cảnh Sắc như đóa hoa chẳng hạn, hành giả tự hỏi: "Cảnh Sắc này là Thường hay Vô Thường?" Muốn quán như vậy, trước hết hành giả phải hiểu biết cho thật đúng và thật rõ ý nghĩa của tiếng Thường và Vô Thường. Thường (nicca) là hằng có, hằng còn, hằng tồn tại. Trái lại là Vô Thường (Anicca) tức là luôn luôn tiêu hoại, đổi thay. Nếu hành giả thấy được trạng thái biến đổi của đóa hoa thì hành giả sẽ kết luận một cách chính xác Cảnh Sắc (đóa hoa, vật bị mắt thấy) là Vô Thường. Hoặc khi hành giả trông thấy Cảnh Sắc (như đóa hoa) hành giả Niệm "thấy" rồi có thể dừng Niệm chuyển qua Quán bằng cách tự hỏi "Mắt là Thường hay Vô Thường?" Hành giả đừng vội tự đáp theo thành kiến (thói quen) của sự đọc kinh sách mà nên quan sát (Vicarati) cho thấy rõ thật sự về trạng thái vô thường của mắt như nhìn đóa hoa lâu, mắt bị mỏi là vô thường; hoặc mỗi cái chớp mắt thì cái trông thấy bị gián đoạn là vô thường; hoặc tâm suy nghĩ việc khác khiến cái thấy ấy bị gián đoạn là vô thường; hoặc do Cảnh Sắc (đóa hoa) thay đổi khiến cái thấy cũng thay đổi theo. Ðó là chưa nói đến sự thay đổi khó thấy hơn như tế bào, máu... trong mắt thay đổi liên tục từ khoảnh khắc. Ðến lúc nào thật sự hành giả thấy rõ trạng thái thay đổi của mắt thì mới nên đi đến kết luận "Mắt là vô thường" Hoặc khi hành giả trông thấy Cảnh Sắc (như đóa hoa). Nếu hành giả niệm "Biết" tức là ghi nhận về Nhãn Thức thì hành giả có thể tạm ngưng Niệm để chuyển qua Quán bằng cách tự hỏi "Nhãn Thức là Thường hay Vô Thường?" Rồi hành giả quan sát cho thật thấy rõ sự vô thường của nhãn thức như: "Cái biết của Mắt không thể thường hằng vì dòng Tâm thức luôn luôn chuyển biến, nhãn thức sinh lên chỉ tồn tại ba thời điểm: Sinh, Trụ và Diệt." Kế đến là những sát na Tâm khác như Tiếp thâu, Quan Sát v.v. cho đến hết một lộ trình tâm (Citta Vithi), nếu đầy đủ là 17 sát na. Dù Tâm Nhãn Thức có được sinh tiếp tục sau đó thì cũng phải sinh ở một tiến trình khác (lộ trình tâm khác) chứ không thể trong một lộ trình tâm có hai sát na Tâm Nhãn Thức được sinh khởi liên tục bao giờ. Ðó là xét về vô thường vi tế đối với người có học Abhidhamma (Vi Diệu Pháp, Thắng Pháp) mới nhận thấy được. Còn với ngươì không học Abhidhamma nhưng có Trí Tuệ sắc bén cũng có thể nhận biết được sự vô thường của Nhãn Thức. Do nhận xét thấy Nhãn Thức ấy bị diệt mất vì có cái thức khác sinh khởi, như Nhĩ Thức (cái biết của tai, sự biết cảnh thinh), hay Tỷ Thức (cái biết của mũi, sự biết cảnh khí), hay Thiệt Thức (cái biết của lưỡi, sự biết cảnh vị), hay Thân thức (cái biết của thân, sự biết cảnh xúc), hay Ý Thức (cái biết của ý, sự biết cảnh pháp). Nếu Nhãn Thức thường hằng thì cái Thức khác không có cơ hội sinh khởi, vì không thể có sự kiện các thứ Tâm đồng sinh một lúc. Mỗi lần sinh lên một thứ Tâm mà thôi, nếu Thức này hiện diện thì những thức khác khiếm diện. Mà thường ngày chúng ta đã Thấy, Nghe, Ngửi, Nếm, Ðụng, Suy Nghĩ không biết bao nhiêu triệu triệu lần Sinh Diệt của các Tâm Thức, như vậy chứng tỏ là có sự vô thường của Nhãn Thức rõ rệt. Nên mới đi đến kết luận: "Nhãn Thức là vô thường". Khi hành giả nghe một âm thanh nào như tiếng nói của người chẳng hạn. Hành giả tự hỏi: "Cảnh Thinh này là thường hay là vô thường?" (Dĩ nhiên khi hành giả tự nêu lên câu hỏi, kế đến là suy tư, cho đến khi thấy rõ sự vô thường, thì thời gian này dù lâu hay mau cũng chỉ là Quán "trầm tư", chứ không phải là Niệm "Chiếu Kiến" và cũng không phải là "Trí trực giác"). Hành giả dùng Trí suy xét như một nhà khoa học trong phòng thí nghiệm chớ không nên tự trả lời như một học sinh trả bài. Nếu hành giả đã có khái niệm lờ mờ về Vô Thường do học, đọc hay nghe thuyết pháp thì cần để qua một bên, chỉ nên vận dụng Trí phán đoán sự thật theo Trí quan sát mà thôi. Như "tiếng nói của người" tức Cảnh Thinh này nếu là Thường thì không bao giờ dứt tiếng nói. Lại nữa, trong tiếng nói của người, dù người đó đang nói liên tục, thì mỗi tiếng cũng khác nhau (như nói: Dạ, thưa ông ...) Ðó là chưa nói đến sự sinh diệt vi tế hơn, mà theo Abhidhamma là tuổi thọ của Sắc chỉ tồn tại trong 17 sát na Tâm, mà trong một giây, Tâm sinh diệt đến triệu triệu lần. Nếu Quán thấy rõ như vậy, hành giả sẽ đi đến kết luận: "Cảnh Thinh này là vô thường." Hoặc khi hành giả nghe tiếng nói của người, hành giả Niệm "Nghe". Nếu muốn, Quán hành giả tạm thời dừng Niệm để Quán sát cho thấy rõ sự vô thường của tai, bằng cách tự nêu lên câu hỏi: "Tai là thường hay vô thường?" Tùy trí tuệ của hành giả, nếu không thẩm nghiệm vi tế về sự đổi thay của nhĩ căn (tai) nơi chính mình từng trong khoảnh khắc thì có thể quán xét chung chung cảnh vật bên ngoài như thấy người già tai điếc hoặc lãng tai, không nghe được rõ ràng tiếng nói của người khác thì cũng nên nhận thức đó là sự vô thường của tai. Hoặc khi hành giả nghe tiếng nói của người, nếu hành giả Niệm "Biết", tức là ghi nhận về phương diện Tâm (niệm tâm). Như muốn Quán thì ngưng Niệm mà Quán xét rằng "Nhĩ thức này là thường hay vô thường?" Nếu Nhĩ Thức là Thường thì nhĩ thức không bị sinh diệt đổi thay! Nhưng thực tế thì Nhĩ Thức luôn luôn bị biến đổi vì nếu Nhĩ Thức không bị biến đổi thì ta chỉ luôn luôn biết Cảnh Thinh chứ không thể biết cảnh nào khác. Nhưng sự thật trong một thời gian ngắn chừng một phút thôi, ta đã biết cảnh Sắc (bằng Nhãn Thức), biết cảnh Thinh (bằng Nhĩ Thức), biết cảnh Khí (bằng Tỷ Thức), biết cảnh Vị (bằng Thiệt Thức), biết cảnh Xúc (bằng Thân Thức), biết cảnh Pháp (bằng Ý Thức) không biết là bao nhiêu lần. Ðó là sự nhận xét thô thiển về tướng vô thường của Nhĩ Thức, chứ chưa nói đến sự vô thường vi tế hơn là sự diễn tiến của dòng tâm thức theo lộ trình tâm nhĩ môn như Abhidhamma đã chứng minh. Như vậy, có thể đi đến kết luận: "Nhĩ Thức là vô thường". Khi hành giả ngửi một mùi nào đó như mùi nước hoa chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Ngửi" tức là ghi nhận sự sinh hoạt của Mũi (thuộc về niệm thân trong thân) rồi hành giả có thể tạm ngưng Niệm để Quán sát cho thấy rõ sự Vô Thường của Mũi bằng cách tự hỏi: "Mũi là thường hay vô thường?" Tùy theo Trí tuệ của hành giả thấy sự vô thường của mũi thế nào cũng được, nhưng nhất định phải là cái xét thấy rõ sự vô thường của chính mình như một nhà khoa học, thí nghiệm những công thức về vật lý chẳng hạn. Có thể hành giả thấy sự vô thường của mũi như là: "Khi nãy mũi bị nghẹt nên không ngửi được mùi, bây giờ như thoa dầu, mũi hết nghẹt nên ngửi được mùi, hay ngược lại v.v... Như vậy là vô thường." Hoặc khi hành giả ngửi một mùi nào như mùi nước hoa chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Mùi", tức là ghi nhận sự hiện hữu của Cảnh Khí (thuộc về niệm thân ngoài thân) rồi hành giả có thể tạm ngừng Niệm để quán sát cho thấy rõ trạng thái sinh diệt (vô thường) của Cảnh Khí, cũng bằng cách tự hỏi "Cảnh Khí (hơi, mùi) là thường hay vô thường?" Hành giả sẽ nhận thấy rõ sự vô thường (sinh diệt) của Cảnh Khí theo kinh nghiệm cá nhân và trí tuệ của hành giả như xét thấy rằng "Mùi thơm này khi nãy không có, bây giờ có, và ngược lại. Như vậy, cảnh Khí (mùi thơm, thúi) là vô thường." Hoặc khi hành giả ngửi một mùi nào như mùi nước hoa chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Biết", tức là ghi nhận sự hiện hữu của Tỷ Thức (niệm tâm trong tâm) rồi hành giả có thể tạm ngừng Niệm để quán sát cho thấy rõ sự vô thường (sinh diệt) của Tỷ Thức, cũng bằng cách tự hỏi: "Tỷ Thức là thường (không sinh diệt) hay vô thường (sinh diệt)?" Tùy theo trí tuệ và kinh nghiệm của hành giả, nhưng nhất định là phải thấy cho được sự vô thường của Tỷ thức mới đúng, và sự thấy rõ trạng thái vô thường của Tỷ thức phải là khách quan, thực tiễn, chứ không phải là giải đáp suông theo sự học hoặc nghe người khác nói rồi nói theo. Có thể hành giả thấy sự vô thường của Tỷ thức như "Cái biết này (Tỷ thức) khác với cái biết kia (Nhãn thức v.v...). Khi nãy có cái biết kia thì không có cái biết này, bây giờ có cái biết này thì không có cái biết kia (bởi không thể đồng một lúc có hai cái biết cùng sinh khởi). Như vậy, cái biết này (Tỷ thức) là vô thường." Khi hành giả nếm một vật nào đó như vị chua của me chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Nếm" tức là ghi nhận sự sinh hoạt của lưỡi (niệm thân trong thân) rồi hành giả có thể tạm ngừng Niệm để quán sát cho thấy rõ tướng sinh diệt (Vô thường tướng) của lưỡi (Thiệt căn). Tùy ở căn nguyên và trí tuệ của hành giả, quán bằng cách nào cũng được, thấy tướng sinh diệt đổi thay của lưỡi dưới hình thức nào cũng được, miễn là cho thấy được trạng thái vô thường của lưỡi thì thôi. Có thể hành giả tự hỏi "Lưỡi là thường (không thay đổi) hay vô thường (bị thay đổi)?" Rồi hành giả có thể thấy sự vô thường của lưỡi như "Khi không bị kích thích thì lưỡi chẳng tươm ra nước, hoặc tươm ra ít, bây giờ bị kích thích (như nhìn thấy đồ chua ...) thì lưỡi tươm ra nước thật nhiều, hay ngược lại v.v. Như vậy, lưỡi là vô thường." Hoặc khi hành giả nếm một vị nào đó, như vị ngọt của đương chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Vị" tức ghi nhận sự hiện hữu của cảnh Vị (niệm thân trên thân bên ngoài). Rồi hành giả có thể tạm ngưng Niệm để quán sát cho thấy rõ trạng thái thay đổi, không thường của cảnh Vị. Cũng bằng cách tự nêu lên câu hỏi: "Cảnh Vị là thường (không thay đổi) hay vô thường (thay đổi)?" Rồi hành giả vận dụng khả năng Trí tuệ của mình mà quán sát cho thấy rõ ràng về sự thay đổi sinh diệt của cảnh Vị như: "Khi nãy cảnh Vị này (vật thực, nước uống ...) còn nóng, bây giờ lại nguội, hoặc ngược lại v.v. Như vậy cảnh Vị là vô thường!" Hoặc khi hành giả nếm một vị nào đó như vị mặn của muối chẳng hạn, nếu hành giả Niệm "Biết" tức ghi nhận sự hiện diện của Thiệt thức (Niệm tâm trên tâm bên trong). Hành giả có thể tạm ngừng Niệm để quán sát cho thấy rõ tướng sinh diệt không thường của Thiệt Thức bằng cách tự hỏi: "Thiệt thức là thường (không sinh diệt) hay vô thường (sinh diệt)?" Rồi hành giả vận dụng Trí Tuệ của mình mà soi thấy thực trạng của Thiệt Thức là luôn luôn sinh diệt, đổi thay, chẳng thể tồn tại hai lần cùng một Tâm Thiệt Thức và mỗi thời điểm chỉ có một thứ Tâm được sinh khởi mà thôi. Mặc dù cùng chung một đối tượng nhưng mỗi thời điểm là mỗi thứ Tâm khác nhau, và mỗi thứ Tâm ấy chỉ tồn tại trong ba giai đoạn Sinh, Trụ, Diệt. Cứ thế chúng mãi tiếp nối nhau mà sinh rồi diệt, diệt rồi sinh (tương tục sinh) tựa hồ như những lượn sóng biển. Như vậy Thiệt thức là vô thường." Khi hành giả xúc chạm một vật gì như cầm một ly nước nóng chẳng hạn. Nếu hành giả niệm "Ðụng" tức là ghi nhận sự sinh hoạt của Thân (niệm thân trong thân bên trong). Rồi hành giả nếu muốn, có thể tạm ngưng Niệm để quán sát cho thấy rõ thực tướng của Thân là sự vô thường, cũng vẫn bằng cách tự đặt câu hỏi "Thân là thường (không sinh diệt) hay vô thường (sinh diệt)?". Rồi hành giả vận dụng trí tuệ của mình mà minh sát cho thấy rõ sự sinh diệt của Thân như: Khi nãy Thân không bị nóng, bây giờ Thân bị nóng hay ngược lại, v.v. Như vậy, Thân là vô thường (đây là sự nhận thức thô sơ, nhưng hành giả tập quán sát như thế dần dần sẽ nhận thức sự vô thường (sinh diệt) vi tế hơn, cụ thể hơn và chính xác hơn). Hoặc khi hành giả xúc chạm một vật gì như cầm một ly nước đá lạnh chẳng hạn, nếu hành giả niệm "Lạnh" tức là ghi nhận sự hiện hữu của cảnh xúc (cảnh Xúc là đất, lửa, gió; nóng và lạnh là bản thể), rồi hành giả có thể tạm ngưng Niệm để quán sát cho thấy rõ tướng trạng của cảnh Xúc là vô thường cũng vẫn theo cách tự hỏi "Cảnh Xúc là thường (không thay đổi) hay vô thường (thay đổi)?" Rồi hành giả dùng trí tuệ của mình mà quán triệt chân tướng của cảnh Xúc như: "Cũng ly nước này khi nãy không lạnh, bây giờ lại lạnh hay ngược lại v.v... Như vậy cảnh Xúc là vô thường." Hoặc khi hành giả xúc chạm một vật gì như ngồi lên một cái ghế chẳng hạn, hành giả có thể niệm "Cứng" (nếu cái ghế ấy bằng cây) hoặc niệm "Mềm" (nếu cái ghế ấy bằng nệm) tức là ghi nhận cảnh Xúc (đất, lửa, gió; cứng và mềm là thể trạng của Ðất). Nếu hành giả niệm "Biết" tức ghi nhận sự hiện hữu của Thân Thức vừa sinh khởi (Tâm Thân Thức biết chỗ ngồi là cứng hoặc mềm). Tâm Thân Thức là năng tri, chỗ ngồi là sở tri. Khi Tâm Thiện Dục Giới ghi nhận sự hiện hữu của Thân Thức thì Tâm Thân Thức trở thành sở tri, còn Tâm Thiện Dục Giới là năng tri. Khi Tâm Thân Thức biết chỗ ngồi là cứng hoặc mềm lúc đó, Tâm Thân Thức đang sinh, đang còn, đang có. Nhưng Tâm Thiện Dục Giới ghi nhận sự có mặt của Tâm Thân Thức thì Tâm Thân Thức đã diệt, đã qua, đã mất. Chính Tâm Thiện Dục Giới đang sinh, đang còn, đang có và rồi cứ thế được diễn tiến liên tục, nghĩa là Tâm Thiện Dục Giới cũng trở thành Tâm quá khứ (đã qua), trở thành sở tri (bị biết), vì có một thứ Tâm khác sinh lên sự ghi nhận lại Tâm Thiện Dục giới. Như vậy là dòng Tâm Thức luôn luôn nối nhau mà sinh diệt, được gọi là Cittavuthi, đó là định lý Anicca (Vô thường) của Ðạo Phật. Ðời sống của chúng ta, dòng Tâm thức luôn luôn thay đổi, biến dịch không ngừng nghỉ, tợ như dòng nước trôi chảy không ngừng. Khi quan sát được như vậy, hành giả tự nhiên thức rằng "Tâm thức là vô thường". Khi hành giả khởi lên khởi lên một Tư tưởng nào như suy tính việc chưa có (vị lai) gọi là "Tư". Nhớ lại việc đã qua (quá khứ) gọi là "Tưởng". Nếu hành giả niệm "Tư" hay "Tưởng" tức ghi nhận sự hiện diện của Hành uẩn (Tư) hay Tưởng uẩn (Tưởng) vừa khởi lên từ Ý Môn (Tâm Hộ Kiếp - Bhavana). Rồi hành giả có thể tạm ngừng Niệm để quan sát cho thấy rõ tướng trạng của Tư tưởng ấy là vô thường (sinh diệt, đổi thay). Như hành giả nhận thức rằng "Khi nãy tư tưởng này không có, bây giờ có, hoặc ngược lại." Và khi ta nhận ra sự có mặt của nó thì nó đã không còn (đã diệt). Những tư tưởng ấy luôn luôn sinh diệt đổi thay. Tâm hiện tại biết Tâm cận hiện tại, và Tâm hiện tại cũng sẽ trở thành Tâm cận hiện tại. Tâm hiện tại là năng tri (chủ biết), Tâm cận hiện tại là sở tri (bị biết hay chỗ biết). Như vậy, chúng cứ tiếp nối nhau sinh diệt, Tâm hiện tại diệt thì trở thành Tâm cận hiện tại, hay nói cách khác: Tâm năng tri sẽ trở thành Tâm sở tri. Và khi thành Tâm sở tri thì lại làm năng duyên (cảnh) cho Tâm năng tri (sở duyên)... Chúng cứ diễn tiến như thế, không bao giờ ngừng lại. Như vậy, tư tưởng là vô thường. Hoặc khi hành giả khởi lên một tư tưởng nào, nếu tư tưởng ấy hướng đến một đối tượng (tướng phần, cảnh) tự khởi lên từ nội tâm, hoặc là cảnh Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc đã qua (ngũ cảnh quá khứ) thì hành giả cứ niệm "Pháp". Bởi cảnh Pháp là đối tượng của Ý Thức, nên chúng tự hiện khởi trong tâm, còn Cảnh Ngũ quá khứ (Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc) không phải là đối tượng thực tại nên không phải cảnh của Ngũ Quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân), chỉ là bóng dáng của Ngũ Trần rơi rớt (lạc tọa ảnh tử) lại mà thôi. Lại nữa khi hành giả nhìn một cảnh sắc nào đó như tấm bảng đen chẳng hạn, nếu hành giả nhận ra tướng trạng của tấm bảng ấy là màu đen, trắng v.v., hình vuông, tròn v.v. cũng thuộc là cảnh Pháp, vì Nhãn Thức chỉ biết là "Sắc" mà thôi. Cũng vậy, đối với Nhĩ Thức chỉ biết là "Tiếng", Tỷ Thức chỉ biết "Mùi", Thiệt Thức chỉ biết "Vị", Thân Thức chỉ biết "Xúc". Còn tướng trạng trầm bổng... của cảnh thinh; thơm, thúi ... của cảnh khí ; mặn ngọt của Cảnh Vị ; nóng, lạnh của Cảnh Xúc. Tất cả trạng thái ấy là cảnh Pháp, tức là tướng phần riêng biệt để biết cái này với cái kia (nhậm trì tự tánh, quy sinh vật giải). Do đó, cứ niệm "Pháp". Rồi hành giả nếu muốn, có thể tạm ngừng Niệm để quán sát, cho thấy rõ tướng sinh diệt (vô thường) của cảnh Pháp, như hành giả nhận thức rằng: "Cảnh Pháp này khi nãy không có, bây giờ có, và ngược lại. Chúng giống như những hình ảnh trên màm bạc khi chiếu phim hoặc của tivi. Như vậy, Cảnh Pháp là vô thường (sinh diệt)." Hoặc khi hành giả khởi lên một tư tưởng nào, như nhận thức ra một đối tượng bằng tướng trạng vuông, tròn, dài, ngắn, xanh, vàng, đỏ, trắng v.v., nếu hành giả Niệm "Biết" tức ghi nhận sự hiện hữu của Ý Thức vừa sinh khởi (Niệm tâm trong tâm bên trong). Hành giả có thể tạm ngừng niệm để minh sát cho thấy rõ tướng vô thường (sinh diệt, đổi thay) của Ý Thức bằng cách tự hỏi: "Ý Thức là thường (không sinh diệt) hay vô thường (sinh diệt)?" Rồi hành giả có thể tự nhận thức rằng: "Nếu Ý thức là Thường thì Nhãn thức v.v. không có cơ hội sinh khởi (bởi Tâm thức mỗi lần sinh khởi chỉ có một thứ mà thôi, không thể có hai thứ Tâm cùng sinh khởi một lần), nhưng sự thật thì các Tâm thức nối nhau mà sinh diệt, dù trường hợp nhập định cả ngày đi nữa, tuy một thứ Tâm (như Sơ Thiền chẳng hạn) và chỉ biết một cảnh duy nhất (như Ðất chẳng hạn), thì cái Tâm sinh diệt vô số kể, huống chi không nhập định thì Tâm sinh diệt vừa khác cái Tâm, vừa khác thứ Tâm, vừa khác loại Tâm. Ngày đêm trôi qua, chúng sinh diệt không ngừng tựa hồ như những cái chớp nhoáng của bóng đèn néon. Như vậy, Ý Thức là vô thường." -oOo- |
[Thư Mục chính] |
Last updated: 30-01-2001 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |