| TIỂU 
        TỰA
         Người tu Phật ai ai cũng có đức 
        tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử 
        hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế 
        nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và 
        do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ 
        giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ hồ 
        và có khi cũng lầm lạc. 
        Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục 
        tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông 
        (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để 
        đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người 
        có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương 
        lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả 
        được. 
        Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc 
        không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của một 
        vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác 
        nhau vượt qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của 
        phàm nhơn. 
        Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu 
        biết rằng: "Muốn thành 1 vị Phật Tổ không phải dễ, 
        không phải ai cũng muốn được, và không phải chuyện bịa 
        đặt ra, mà trái lại phải thực hành cho đúng theo thời hạn 
        và điều kiện nhất định và tròng đủ pháp Ba-la-mật mới 
        thành một vi Phật Tổ được." 
        
        Với lòng Bác ái, 
        NÀGA THERA (Tỳ Khưu Bửu Chơn), 
        Đà Nẳng 1954. 
        -ooOoo- 
        [01] 
        CHÁNH 
        GIÁC TÔNG
        
        NAMATTHU RATANA TAYASSA 
        Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ý trong sạch để làm lễ Tam Bảo. 
        NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần) 
        Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc 
        A-la-hán Vô thượng, 
        đã đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề. 
        
        PHẬT NGÔN 
        DHAMMO HAVE RAKKHATI DHAMACÀRIM 
        DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO 
        DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀRÌ 
        Người thực hành theo Pháp Bảo, thì Pháp Bảo 
        hộ trì. 
        Người hằng tích trử Pháp lành thì được đến sự an vui 
        và lợi ích . 
        Người thực hành theo Pháp Bảo, thì không sanh vào cảnh khổ. 
         
        
         THẬP 
        ĐỘ BA-LA-MẬT 
        
        Trước khi giải về pháp Chánh giác tông tôi xin giải 
        tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAMÌ) là pháp 
        của chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; 
        BODHISATTA) quá khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một 
        bậc Chánh Biến Tri (SAMMÀ SAMBUDDHA) đều phải thực hành 
        theo cho tròn đủ và cho đúng thời kỳ nhất định mới chứng 
        quả vị được. 
        DASAPARÀMÌ: Mười pháp Ba-la-mật hay Thập Độ là: 
        
          1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn tới bờ 
          bên kia Niết Bàn). 
          2. SÌLA PÀRAMÌ: Trì giới Ba-la-mật. 
          3. NEKKHAMMA PÀRAMÌ: Xuất gia Ba-la-mật 
          4. PANNÀ PÀRAMÌ: Trí tuệ Ba-la-mật 
          5. KHANTÌ PÀRAMÌ: Nhẫn nhục Ba-la-mật 
          6. VIRIYA PÀRAMÌ: Tinh tấn Ba-la-mật 
          7. SACCA PÀRAMÌ: Chân chánh Ba-la-mật 
          8. ADHITTHÀNA PÀRAMÌ: Nguyện vọng Ba-la-mật 
          9. METTA PÀRAMÌ: Bác ái Ba-la-mật. 
          10. UPEKKHÀ PÀRAMÌ: Xả Ba-la-mật 
         
        Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bực là: hạ, 
        trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực là: 
        1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí bực hạ. 
        
          KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA DÀRASSA PARICÀGO DÀNA 
          PÀRAMÌ NÀMA. 
          Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi 
          mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải, vợ, 
          con, gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ. 
         
        2. DÀNA UPPA PÀRAMÌ: Bố thí bậc trung. 
        
          KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA PARICÀGO DÀNA UPPAPÀRAMÌ 
          NÀMA. 
          Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi 
          mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay, chân, thịt, 
          mắt, mũi, mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung. 
         
        3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc thượng. 
        
          KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA PÀRICÀGO DÀNA PARAMATTHA 
          PÀRAMÌ NÀMA. 
          Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh lòng bi mẫn 
          thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống (là cắt 
          đầu hoặc mỗ lấy tim mình mà cho kẻ khác) gọi là bố 
          thí Ba-la-mật bậc thượng. 
         
        Còn 9 pháp kia khi thực hành cũng mường tượng như trên. 
        Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định là: Phải biết chư 
        Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ 
        không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc: 
        
          1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về huệ lực, 
          phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa 
          cầu. 
          2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tín lực 
          là có nhiều đức tin, phải tu trong 8 A-tăng-kỳ và 100 
          ngàn đại kiếp. 
          3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tấn lực 
          và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 
          ngàn đại kiếp quả địa cầu. 
         
        Nói về sự nguyện vọng của mỗi vị Bồ-tát chia ra 
        làm 3 thời kỳ: 
        1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực: 
        
          a. Thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ. 
          b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ 
          ký là 9 A-tăng-kỳ . 
          c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành 
          tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ 
          và 100 ngàn đại kiếp. 
         
        2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực: 
        
          a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14 A-tăng-kỳ 
          b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức 
          Phật thọ ký là 8 A-tăng-kỳ. 
          c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày 
          thành đạo quả là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. 
         
        3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực: 
        
          a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28 A-tăng-kỳ. 
          b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một 
          vi Phật thọ ký là 36 A-tăng-kỳ . 
          c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày 
          thành đạo quả là 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. 
         
        -oOo- 
        Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu nói tóm lại thì chỉ 
        còn có hai bậc là: 
        
          1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường Bồ-tát là chư Bồ-tát 
          chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát nào 
          đã nguyện trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được 
          một vị Phật tổ nào thọ ký cho thì chưa chắc sẽ thành 
          một bậc Chánh giác được. 
          2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ Bồ-tát là chư Bồ-tát 
          đã thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đã được 
          truyền hoặc một vị Phật tổ thọ ký, chắc chắn sẽ 
          thành Chánh giác trong ngày vị lai. 
         
        -oOo- 
        SAMODHÀNA 
        DHAMMA: 8 pháp tròn đủ. 
        
        Chư Bồ-tát phải có tròn đủ 8 pháp: 
        
          1- MANUSSATTAM: Phải là loài người chớ không phải trời 
          hay thú. 
          2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn chớ không phải là phụ 
          nữ hay là bán nam bán nữ. 
          3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả Alahán trong kiếp 
          ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân Phật 
          tổ Thích Ca) 
          4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức Phật ra đời và 
          được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật 
          ấy. 
          5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia. 
          6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những pháp của bậc cao 
          nhơn là có ngũ thông và bát thiền. 
          7- ADHIKARO: Đã được làm phước báu cao thượng là bố 
          thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho 
          thành Chánh giác. 
          8- CHANDATÀ: Phải có ý nguyện đầy đủ quyết cho thành 
          một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng 
          không nao núng và thối chuyển. 
         
        Chư Bồ-tát nào có tròn đủ 8 pháp trên đây, thì mới 
        được chư Phật thọ ký cho và từ ấy mới gọi là NIYATA 
        BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không 
        sai. 
        -oOo- 
        BUDDHA BHÙMI: 
        4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đã được thọ ký. 
        
        
          1) USSÀHA: Rất siêng năng dõng mãnh trong sự làm điều 
          thiện. 
          2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt thiện ác, để xa lánh 
          điều dữ và hành theo điều lành. 
          3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và cứng rắn là khi đã 
          làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và ráng 
          làm cho tới thành tựu. 
          4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào toàn là việc hữu 
          ích cho mình và cho kẻ khác. 
          Chư Bồ-tát đã được thọ ký một khi làm một việc 
          chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm mình. 
         
        -oOo- 
        AJJHÀSAYA: 
        6 khuynh huớng của Bồ-tát 
        
        Chư Bồ-tát đã được thọ ký đều có 6 khuynh hướng. 
        
          1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không tham, và luôn 
          luôn có tác ý muốn dứt bỏ của cải mình để làm việc 
          hữu ích cho kẻ khác. 
          2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không sân, và luôn luôn 
          có tâm từ bi đối với kẻ khác. 
          3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không si, và có trí tuệ 
          suy xét rõ rệt rồi mới tin. 
          4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn xuất gia, và 
          có ý dứt bỏ các sự quyến luyến. 
          5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng ở nơi thanh vắng, và 
          có ý muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp đông đảo. 
          6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn giải thoát khỏi 
          ái dục, phiền não và sự khổ não của cõi thế gian. 
         
        Chư Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì luôn luôn có những 
        tư cách và nết hạnh đã kể trên. 
        -oOo- 
        ACCHARIYA 
        DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của 
        chư Bồ-tát đã được thọ ký. 
        
        
          1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm ghê điều xất xa tội 
          lỗi, là tâm của Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì hổ 
          thenï và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng 
          lửa thấy lửa ghê sợ vậy. 
          2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích theo điều thiện, là 
          tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích đến 
          điều lành việc phải, một khi đã làm điều thiện nào 
          thì sốt sắng vui vẻ làm cho đến khi được thành tựu 
          không bao giờ bỏ dỡ. 
          3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện ngưng tuổi thọ đã 
          nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cõi trời làm cho ngưng 
          trệ sự tạo pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế 
          gian, ngài bèn nguyện cho tuổi thọ ở cõi trời ấy cho giảm 
          đi để sanh xuống trần gian độ đời, liền khi ấy tuổi 
          thọ giảm bớt và sanh liền xuống cõi thế gian. 
          4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác thường hơn tất cả 
          chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, vì tất cả chúng sanh khi 
          ở trong bụng mẹ thì ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở 
          càm, mặt day vào lưng mẹ, đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, 
          mình ngồi trên vật thực cũ dơ dáy gớm ghê, còn Bồ-tát 
          thì ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ, mặt day ra phiá trước 
          ngồi xếp bằng như vị pháp sư. 
          5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết rõ 3 thời kỳ, 
          khi kiếp chót sẽ thành đạo thì: khi đầu thai vào lòng mẹ, 
          biết rõ ta đầu thai vào lòng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng 
          biết rõ đương ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi lòng 
          biết rõ đương sanh ra khỏi lòng. Còn chư Phật Độc Giác 
          và hai Thượng Thinh văn thì chỉ biết trong hai thời kỳ, 
          trừ lúc ra khỏi lòng mẹ thì không biết, còn 80 vị đại 
          A-la-hán thì chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai 
          bào mà thôi. 
          6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra thì Phật mẫu đứng sanh. Lúc 
          ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như vị pháp 
          sư từ trên pháp tọa đi xuống vậy. 
          7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong loài người là tất cả chư 
          Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh Giác thì sanh 
          ra làm người, chớ không phải trời hoặc là súc sanh. Nếu 
          sanh làm trời mà thành đạo thì loài người lại thối 
          thoát kiếm cớ cho là trời mới tu thành Phật được, còn 
          nếu sanh làm súc sanh thì loài người cho thấp hèn hơn mình 
          cũng không chịu tu theo, nên chư Bồ-tát mới sanh ra làm người 
          để độ chư thiên, loài người và súc sanh cũng được. 
          Hơn nữa khi làm người lúc nhập Niết Bàn mới có Xá Lợi 
          lại cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường. 
         
        7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ thường) của chư Bồ-tát 
        đã được thọ ký. 
        Tất cả chư Bồ-tát đã giải trên đây đều phải thực 
        hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ nhất định 
        của thời kỳ và đã được một vị Phật tổ thọ ký, 
        tiên tri cho biết trước rằng còn bao nhiêu năm, tháng, ngày 
        v..v... sẽ thành môt vị Phật tổ, chừng ấy mới gọi là 
        "Thường trụ Bồ-tát" và thế nào cũng đắc quả 
        Chánh Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề" không 
        sai vậy. 
        -oOo- 
        GIẢI VỀ A-TĂNG-KỲ: 
        ASANKHÀYA 
        Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với Đức Phật rằng: Bạch 
        Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải rằng: 
        Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu 
        thôi. 
        Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương 86): Ví dụ như có 1 
        khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1 trăm năm có 
        1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mõng quét khối 
        đá ấy, rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho 
        tới khi nào khối đá ấy bằng mặt đất thì mới gọi là 
        1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái thùng vuông vức 1 do tuần 
        đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị Chư thiên tới 
        lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa, lần 
        lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong 
        thùng ấy mới gọi là A-tăng-kỳ. 
        Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm 140 con số không (zéros) 
        nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ của kiếp 
        trái đất chớ không phải làm năm. 
        KIẾP (KAPPA): 
        1 thời gian 
        
        Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ, Hoại, Không 
        
          1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu tạo đầu tiên 
          như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng 
          như đất thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng 
          nhưng chưa có ai ở (sanh) trên mặt địa cầu gọi là kiếp 
          Thành. 
          2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu tiên sanh vào quả 
          địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như hiện 
          nay gọi là kiếp Trụ. 
          3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu không còn ai 
          ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan vì sức 
          nóng của ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu 
          đi gọi là kiếp Hoại. 
          4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đã tiêu hoại chỉ 
          còn khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận tạo 
          nên quả địa cầu khác gọi là kiếp Không. 
         
        4 kiếp kể trên đây nhập lại thành 1 đại kiếp, mà chư 
        Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng thời kỳ 
        nhất định của những đại kiếp ấy. 
        -ooOoo- 
        01 | 02 
        | 03 | Đầu trang  |