BuddhaSasana
Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode
Times font
Cuộc đời Thánh tăng Ananda
Hellmuth Hecker - Nguyễn Ðiều soạn dịch (1991)
Chương IX-a A Nan Ða lúc Phật gần nhập Niết Bàn-ooOoo- Những mẩu chuyện (phần nhiều dưới hình thức đối thoại) của A Nan Ða và đức Phật, vài ba tháng trước khi Phật nhập Niết Bàn, đã được nhiều học giả Phật giáo, xem như những tài liệu lịch sử, diễn tả các biến cố quan trọng liên quan đến phần cuối cùng của đời sống đức Phật. Theo Maha Parinibbana Sutta (Ðại Niết Bàn Kinh) ghi trong Digha Nikaya 16 (Trường A Hàm số 16) thì A Nan Ða đã đóng một vai trò chính các bài pháp do đức Phật thuyết trước khi nhập Niết Bàn. Những bài pháp này thường mang am hưởng "lời giáo huấn cuối cùng" và diễn tả cả sắc thái buồn bã của A Nan Ða, khi biết Phật sắp Nhập Diệt. Theo một số nhà nghiên cứu Phật giáo thì những bài kinh ấy đã gián tiếp tiên đoán tuổi thọ của Phật Pháp Thích Ca (chỉ có 5000) thôi, cũng như báo trước những hình thức suy đồi trong Phật giáo về sau như Tăng chúng xa dần nếp sống phạm hạnh, gương giải thoát bị biến mất v.v .. cho đến khi một vị Phật giáo mới ra đời. Những Kinh Di Giáo này hầu hết cũng nêu rõ những pháp thực tiễn, khuyên dạy các hàng đệ tử càng gia tăng tinh tấn, thực hành pháp giải thoát trong lúc đức Phật tại tiền, kẻo một khi Phật đã viên tịch, thì ơn ích duy nhất ấy xem như đã vuột mất. Ðồng thời, toàn thể nội dung các kinh Di Giáo còn phản ảnh qua nhân vật chính, đóng vai đối thoại là A Nan Ða, một đặc sắc giải cứu mà chúng tôi sẽ cố gắng trình bày trong những trang sách sau đây: Phần thứ nhất của kinh Ðại Niết Bàn (Maha Parinibbana Sutta) có thể xem như bắt đầu tại Vương Xá thành (Rajagaha), kinh đô xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha) nơi Ðề Bà Ðạt Ða trước đó bảy năm đã hại Phật và chia rẽ Tăng Già. Thuở bấy giờ, vua A Xà Thế (Ajatasattu) đang trị vì xứ Ma Kiệt Ðà. Còn vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) thì mới bị lật đổ, đồng thời vương tộc Thích Ca cũng vừa trải qua một thảm kịch ghê gớm, cả dòng họ bị tàn sát. Hoàng tử Mahanama (anh em duy nhất còn tại gia của A Nan Ða) đã bị giết. Lúc ấy ba sứ quân đầy thế lực cai trị ba lãnh địa nằm ở phía bắc sông Hằng (Ganga) gần núi Hy Mã Lạp Sơn là Koliyas, Mallas và Vajjians đang tuyên bố độc lập, không thần phục đại vương A Xa Thế nữa. Nhằm lúc vị vua này cũng có tham vọng đánh chiếm rồi sát nhập ba lãnh địa ấy vào ba lãnh thổ của mình, Ðặc biệt là vua A Xà Thế dự định sẽ chinh phục vùng Vajjians trước tiên. Nếu trong thảm kịch của dòng họ Thích Ca vì nghiệp nặng của những người bà con, đức Phật đã không che chở được gì, thì đối với ý định xâm lăng bộ tộc Vajjians của vua A Xà Thế, Ngài đã cứu giúp rất nhiều. Sau đó Ngài còn gián tiếp che chở cho dân chúng trong bộ tộc Mallas nữa. Ðây chính là bối cảnh có sắc thái chính trị vào những năm cuối cùng của đời sống đức Phật. Soạn giả xin nhắc lại tượng trưng một số biến cố như sau: Nhà vua có máu xâm lăng A Xà Thế đã ra lệnh cho một quan đại thần tên Vassakara đến yết kiến đức Phật và báo cho Phật hay rằng đại vương có ý định đem quân đi chinh phục lãnh địa Vajjians. Khi Vasakara nêu lên ý định của nhà vua và xin lời Phật dạy, thì đức Phật quay sang Tôn Giả A Nan Ða (lúc đó đang đứng hầu sau lưng đấng Bổn Sư). Phật hỏi A Nan Ða: - Này A Nan Ða! Dân tộc Vajjians có bảy phẩm hạnh trong đời sồng hằng ngày như thế nào? A Nan Ða liền trả lời: - Bạch Ðức Thế Tôn:
Chờ A Nan Ða trả lời xong, đức Phật liền phán rằng: - Với bảy đức tính như thế không ai có thể phủ nhận được sự thịnh vượng, hùng mạnh của dân chúng Vajjians.Và bảy đức tính đó trước đây họ đã không có nên họ mới bị suy đồi, nghèo đói. Chính Như Lai đã dạy dỗ cho họ thấm nhuần được bảy phẩm hạnh ấy! một dân như thế là một dân tộc có thể bảo vệ được gia sản, vật chất cũng như tinh thần của họ một cách dễ dàng. Nghe Phật dạy dứt lời, quan đại thần Vasskara cũng khen ngợi rằng: - Không cần phải có đến bảy đức tính như thế! chỉ cần một đức tính thứ nhất mà thôi, cũng đủ làm cho bộ tộc này phát triển mạnh mẽ. Ngày nào dân chúng Vajjians còn tiếp tục có bảy đức tính đó thì ngày ấy họ không thể bị xâm lăng. Ai muốn chinh phục họ phải chờ cho đến khi nào họ chia rẽ và có nội phản. Ðoạn quan đại thần ấy kiếu từ đức Phật Với ý định sẽ về tâu lên nhà vua rằng: cử binh đi chinh phục lãnh thổ Vajjians trong lúc này là một điều thất sách. Trong xã hội Ấn Ðộ thuở bấy giờ, sự tin tưởng vào sức mạnh tinh thần của một sân tộc rất quan trọng. Chỉ cần làm cho một thế lực xâm lăng hiểu rõ điều đó, cũng đủ giúp cho đức Phật ngăn ngừa một cuộc chiến tranh. Mãi về sau, khi đức Phật đã nhập Niết Bàn, xứ Vajjians mới bị thôn tính, bởi vì dân tộc xứ này đã dần dần bỏ rơi và xa lìa những đức tính cũ, trở thành chia rẽ, không còn sức mạnh nhất trí, nên đã chẳng giữ được biên cương lãnh thổ của họ. Về phần đức Phật, lúc gián tiếp cản ngăn được ý định xâm lăng của vua A Xà thế, Ngài đã rút tỉa được một bài học chính trị và đem áp dụng vào cộng đồng giáo hội. Ngài dạy A Nan Ða triệu tập Tăng chúng để đề cao bảy đức tính nói trên: Nếu nhờ bảy đức tính ấy mà một dân tộc được hùng mạnh, khiến cho ngoại bang không dám xâm lăng như thế nào,thì bảy đức tính ấy cũng làm cho Giáo Hội vững chắc như thế ấy. Nghĩa là:
Sau khi liệt kê bảy pháp lành cho Tăng chúng nhớ xong, đức Phật đã cô đọng thành một đoạn pháp (về Giới - Ðịnh - Tuệ) mà sau này chúng ta thường tìm thấy nhiều nơi trong Tam Tạng kinh điển như sau: - Ấy là giới đức! Ấy là sự an trụ! Ấy là trí tuệ! Khi có an trụ và giới đức thì kết quả giải thoát sẽ vững chắc. Rồi khi có trí tuệ phối hợp với an trụ và giới dức thì kết quả giải thoát không những vững chắc mà còn vĩ đại nữa. Và khi có sự biết mình thì tâm hồn sẽ được trí huệ giữ cho luôn luôn trong sạch, tránh khỏi mọi ô nhiễm, mọi dục lạc và vô minh. Phần thứ hai của Kinh Ðại Niết Bàn là sau những lời giáo huấn đó, đức Phật đã bắt đầu cuộc du thuyết cuối cùng của mình. Nơi nào có người hữu duyên đón mừng Tháp Bảo để thấm nhuần chân lý giải thoát là Ngài dừng chân để ban bố ơn lành. Hoặc nơi nào có những sức mạnh cuồng bạo manh nha gây chiến thì Ngài cũng dừng chân lại ở nơi đó, để dùng pháp giác ngộ, dập tắt ngòi lửa chiến tranh. Trong cuộc hành trì lịch sử này, trước tiên đức Phật đã hướng về vùng châu thổ sông Hằng, xuyên qua địa phận Na Lan Ða, nơi đó về sau có một trường đại học Phật Giáo nổi tiếng. Ðịa phận này cũng là nơi sinh quán của Thánh Tăng Xá Lợi Phất (Sàrìputta). Chính ở đây, Trưởng lão Xá Lợi Phất đã chia tay đức Phật, không tiếp tục cuộc hành trình với đức Bổn Sư nữa, để quay về cứu độ mẹ mình, rồi viên tịch luôn trong ngôi làng mà ông đã sinh ra. Lúc nhìn đức Phật lần cuối cùng, Trưởng lão Xá Lợi Phất đã thốt ra những lời vĩnh biệt, nhân danh là một đại tông đồ như sau: - Bạch Ðức Thế Tôn! Bạch đấng Giác Ngộ! Dù cò muôn triệu lời để ca ngợi ân đức của Ngài cũng không bằng bốn chữ Trí tuệ giác ngộ. Sau đó đức Phật cùng với đông đảo chư đệ tử tiến về thành Vesali. Ðây là thủ đô của xứ Vajjians, mà đức hạnh của dân tộc xứ này Ngài đã từng khen ngợi. Và một cuộc chiến tranh suýt do vua A Xà Thế gây ra, tàn phá nước ấy cũng đã được Ngài dùng pháp lành dập tắt. Người ta có thể tự hỏi:" Tại sao đức Phật trong lúc tuổi về chiều, lại đến đây, để nhập hạ lần thứ 45 của cuộc đời một vị Phật Tổ?" Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ một cách sâu xa thì sẽ thấy rằng sự có mặt của đức Phật trong lãnh thổ này (Vajjians) không có mục đích gì khác hơn là dùng ân đức của Ngài để can ngăn vua A Xà Thế đem quân đánh chiếm một nước nhỏ lân cận. Và tại thành Vesali, đức Phật đã thọ trọng bệnh. Một thân nghiệp tự nhiên và sau cùng của một đời người. Ngài đã dùng sức mạnh thiền định để đánh tan mọi đau đớn. Ðồng thời Ngài cũng không muốn viên tịch mà chưa triệu tập đầy đủ các hàng đệ tử một lần sau cùng. Vả, nhục thân của bất cứ một nhân sinh nào trên đời này, vốn không tránh khỏi bốn định luật: Sinh, Lão, Bệnh và Tử. A Nan Ða thấy đức Thế Tôn nhuốm bệnh và biết rõ ấy là một căn bệnh ngặt nghèo, thì buồn khổ vô cùng. Ông lo sợ đến nổi mất hết sáng suốt. Rồi để tự an ủi, A Nan Ða đã tưởng tượng và nói với đức Phật rằng; - Bạch Ðức Thế Tôn! Dù bệnh hoạn có nguy kịch cỡ nào, một vị Phật chắc chắn cũng không bao giờ nhập Niết bàn một cách bất ngờ, khi chưa triệu tập đủ mặt chư đệ tử và ban bố những lời di chúc tối hậu. Nhưng đức Phật bỗng hết đau đớn, thần thái tươi tỉnh nói: - Này A Nan Ða! Như lai không có gì để di chúc tối hậu cả! Những điều đáng truyền lại cho các hàng đệ tử, Như Lai đã thuyết ra hết rồi. Hiện tại không còn một pháp nào có thể gọi là bí mật để di chúc tối hậu. Như Lai từ khi Thành Ðảo đến giờ đã tiếp tục hiện hữu là nương vào "thân Phật". Ông chớ hiểu lầm có một vị Phật đang sống để lãnh đạo Giáo Hội, và trước khi viên tịch, vị Phật ấy phải chuẩn bị mọi lời di chúc để chuyển giao quyền hành như các hàng vua chúa còn mắc dính trong bản ngã phàm tình. Thân Như Lai hiện giờ giống như một cỗ xe đã cũ. Ở cái tuổi 80 thân Phật của Như Lai chỉ được yên ổn khi tâm thường an trú trong các bậc Thiền, nhất là Thiền Phi Tửơng và Vô Sở Hữu Xứ (animitta céto vimutti). Và khi ra khỏi hai bậc thiền ấy nhục thân Như Lai cũng chịu mọi trạng thái tàn hoại của luật vô thường. - Này A Nan Ða ! Ông hãy tự xem mình là nơi nương nhờ của chính ông. Ông hãy xem trí tuệ chơn chánh của mình là pháp cứu rỗi duy nhất, vì một đệ tử thấm nhuần Phật giáo không bao giờ mong cầu nơi tha lực để giải thoát sự sinh tử luân hồi của chính mình. Phần thứ ba của kinh Ðại Niết Bàn (Mahà Parinibbàna Sutta), cũng được thuyết tại Vesali, thuật lại giai thoại: - Ở đó đức Phật đã đừng chân để tu dưỡng một mùa hạ. Một hôm đức Thế Tôn bảo A Nan Ða lấy tọa cụ và theo Ngài đến đại tịnh xá Capala để hành thiền. Sau khi Phật và A Nan Ða an toạ, đức Thế Tôn thay vì lập tức Nhập Ðịnh, Ngài lại quan sát khung cảnh thanh tịnh, và đẹp đẽ xung quanh, rồi Phật nói như cảm khái với A Nan Ða rằng: - "Những nơi phụ cận trong vùng cũng có sắc thái xinh đẹp, thanh tịnh như thế này. Như Lai nên an trú ở đây, hay lần lượt đến những nơi đó ?" Hành động của đức Phật khi ấy vốn có một nguyên do, nhưng A Nan Ða đã không hiểu. Ông chẳng tìm thấy một ngụ ý nào trong lời Phật nói cả. Và theo kinh điển, mãi về sau các học giả Phật giáo mới nhắc đến câu nói ấy của Phật để phân tích, khi họ đối diện với những đoạn khác đầy minh chứng trong Tam Tạng Pháp Bảo. Vì một đấng Phật Tổ mà thốt lên lời cảm khái hay tỏ ra ưa thích cảnh đẹp như thế(dù là cảnh đẹp thanh tịnh) là một điều rất hiếm và dường như mâu thuẫn với phẩm cách không còn dính mắc thế gian của một bậc hoàn toàn giải thoát. Nhưng Phật đã xuất khẩu nói ra, tất phải có lý do. Và lý do duy nhất chỉ là báo hiệu sự gần Nhập Diệt của Ngài. Không phải vì Phật lưu luyến cảnh đẹp, mà vì lòng thương xót chúng sanh. Lần đầu tiên non 45 năm về trước sau khi Ðắc Ðạo, nhận thấy Phật giáo quá cao thâm và vì sự nghiệp chướng của chúng sanh lại sâu dày, Ngài đã chần chờ, thì Phạm Thiên đã xuất hiện thỉnh Phật thuyết pháp. Giờ đã trải qua 45 năm truyền đạo giải thoát, nếu duyên lành của nhân loại còn thuận hành thì có kẻ tịnh tâm sẽ yêu cầu Ngài khoan Nhập Diệt. Rồi đức Phật lại nói" Ai phát triển được bốn thần lực tuyệt đối (Iddhipàda) là An định (hay nhất tâm) tinh tấn, nhẫn nại, và sát minh, thì người ấy có thể làm chủ hoàn toàn được vận mạng của chính mình. Nếu muốn kéo dài tuổi thọ, họ cũng có thể làm được". Có nghĩa là một vị Phật còn hơn thế nữa, vì Ngài đã dư đủ bốn thần lực ấy, nên khi có ai yêu cầu Phật tiếp tục sống để cứu độ chúng sanh thì Ngài cũng có thể thực hiện một cách dễ dàng. Theo chú gỉải kinh nói về kiếp sống (€yu kappastta) thì bốn thần lực của một vị Phật có khả năng làm cho nhục thân của Ngài kéo dài tuổi thọ bằng một kiếp trái đất. Còn nếu Phật dùng thần lực, mà Ngài chỉ áp dụng thiền định. Ngài cũng có thể sống đến 120 tuổi. Trường hợp thân Phật bị dư nghiệp hiện kiếp phát tác, chẳng hạn như Ngài bị vi trùng công phá, sinh bệnh, thì Ngài cũng có thể dùng pháp Ðại Bát Nhã để sống lâu theo ý muốn. Tức là kéo dài kiếp sống cho đến khi nào các tế bào cuối cùng trong thân Ngài bị vi trùng phá hủy. Và trong thời gian dùng Ðại Bát Nhã pháp để kéo dài sự sống, một vị Phật chỉ biết Thuyết Pháp và Nhập Ðịnh mà thôi chứ Ngài không còn những sinh hoạt phàm tình khác. Ðức Phật không phải chỉ nói điều ấy với A Nan Ða một lần, mà Ngài đã nhắc lại đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Nhưng A Nan Ða vì quá âu lo, bối rối, đã không hiểu rõ nghĩa lý của lời Phật dạy. Sự bối rối đến trở thành tăm tối đó của A Nan Ða vốn đã do hai nguyên nhân; - Thứ nhất A Nan Ða lúc ấy chưa đạt Thánh quả A La Hán. - Thứ hai có sự quấy nhiễu của Ma Vương (Màra) Theo thuật truyện (Màrajàtaka) thì Ma Vương không phải chỉ mới bắt đầu khuấy phá sức khoẻ của Phật, và những ai gần gũi Phật khi tuổi đời Ngài ở giai đoạn xế bóng, mà hắn đã xuất hiện yêu cầu Phật hãy bước ra khỏi Tam giới (tức là hãy nhập Niết bàn) lúc Ngài vừa đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác dưới cội cây Bồ dề. Phật bị nhuốm bệnh chính là lúc A Nan Ða, dù lo lắng cũng phải bình tĩnh, chăm chỉ và cẩn thận. Nhưng ông đã trở nên đãng trí, bối rối là một hiện tượng khác thường. Hiện tượng ấy của A Nan Ða trước đó tuy đã từng xảy ra, nhưng chỉ xảy ra trong những lúc đức Bổn Sư và chư tông đồ gần Phật, được an toàn tự tại. Và nhất là chỉ xảy ra khi Ma Vương không lởn vởn xung quanh để che mờ trí sáng suốt của ông. Nhờ vậy tuổi thọ của Phật giáo mới không bị rút ngắn hơn nữa (dưới 5000 năm) chứ nếu không, cõi Ta Bà này đã không có đủ 45 năm hưởng thụ ơn ích của một vị Phật Tổ và hiện thời thế gian vì không có Phật giáo chắc phải mang một bộ mặt khác. Bộ mặt lấy sự bạo động làm" chân lý" rồi ân oán triền miên, đau khổ không bao giờ chấm dứt. (Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng. Lấy ân báo oán, oán lại tiêu tan. -- Theo Pháp Cú kinh). Là những Phật tử muốn nghiên cứu rõ ràng lịch sử Phật Ðà, chúng ta thử phân tích biến chuyển tâm lý của A Nan Ða đã trong khi ấy: Phải chăng ngoài việc bị ông Ma VƯơng che mờ trí sáng suốt, còng những nguyên nhân nào khác? Số là tối hôm sau khi Phật muốn bệnh lần thứ nhất A Nan Ða được Phật gọi lên ngồi sát bên mình ở hàng toạ cụ đầu (Trứơc cả các vị Ðại Tôn Túc) để tụng kinh khuya. Rồi sau thời kinh, đức Phật lại ra lệnh cho chư Tăng ai về chỗ nấy để tu niệm. Còn A Nan Ða Ngài bỗng bảo cầm toạ cụ đi theo Ngài đến tịnh xá Capala để hành thiền. Một sinh hoạt tu thiền chung với đức Bổn Sư, một vị Phật Tổ, mà A Nan Ða từ non 45 năm trường gần Phật không bao giờ dám ngờ là mình sẽ có được một diễm phúc như thế. (Thường lệ, trước khi nhập định, đức Phật chỉ bảo A Nan Ða chuẩn bị tọa cụ trong tịnh thất cho một mình Ngài. Rồi Phật vào Nhập Ðịnh. Còn A Nan Ða muốn hành thiền ở đâu tuỳ ý, miễn đừng quá xa Phật, hầu khi cần, đức Bổn Sư sẽ không phải đi tìm. Thói quen này làm cho A Nan Ða có thể tiên đoán thời gian Nhập Ðịnh của Phật kéo dài bao lâu, để ông hoặc hành thiền trong tinh thất của mình hoặc lẳng lặng đi làm những công tác khác, như giặt giũ y phục của Phật, hay đến chăm sóc những Sa môn già yếu, bệnh hoạn). Nhưng lần này, đức Phật lại bảo ông cùng đi hành đạo với Ngài, nên A Nan Ða cảm thấy một nỗi vui sướng khó tả tràn ngập trong lòng. Nhất là trong khi ấy thần sắc của Phật rất bình thường, dường như trong ngày hôm đó Ngài không nhuốm trọng bệnh chi cả. (A Nan Ða nào biết rằng Phật đã dùng Ðại Bát Nhã pháp để quân bình thân bệnh). Nỗi vui sướng của A Nan Ða hiển nhiên là một loại hạnh phúc biết rằng ông sắp hành thiền trong hào quang và định lực của một vị Phật. Rồi trong một chốc sung sướng, hân hạnh, A Nan Ða lại nghe đức Phật khen ngợi cái khung cảnh vừa xinh đẹp vừa thanh tịnh xung quanh đại Thiền xá Capala, trong rừng vắng, nên ông càng thêm cản khái, quên mất trước đó không lâu một biến cố tối quan trọng xảy ra: Ðức Phật đã nhuốm trọng bệnh! Ðây có lẽ là lý do thứ hai của sự "Tăm tối", lý do vì từ lâu A Nan Ða hằng thương kính đức Phật mà chưa bao giờ có được những giây phút gần gũi thân thiết êm đềm như thế!(Nói theo kiểu phàm tình, vì A Nan Ða lúc đó chưa đạt được Thánh quả A La Hán). Nên ông đã không ngờ bổn phận "Thỉnh Phật khoan Nhập Niết Bàn" chính là bổn phận của ông, và hiện tại đang đòi hỏi ông phải làm bổn phận đó, mà ông không biết. Có gì đáng tiếc cho bằng A Nan Ða chính là người sợ Phật Nhập Niết Bàn sớm nhiều nhất mà khi đến lúc, ông lại không biết thỉnh Phật tiếp tục sống tại thế gian. Phải chăng sự yêu thương, ái mộ phàm tình vốn là nguyên nhân đưa tâm linh của con người đi vào nẻo tăm tối? Dẫu sao, nếu Ma Vương (Màra) không ám ảnh thì A Nan Ða đã hiểu rõ ngụ ý trong lời Phật dạy rồi. Ông không phải chỉ yêu cầu một lần, mà cho đến một nghìn lần, ông cũng sẽ sẵn sàng vui vẻ năn nỉ Phật tiếp tục trên thế gian này để cứu độ chúng sanh. Và chỉ cần một lời yêu càu thôi, lóng từ bi vô lượng của đức Phật sẽ tỏa rộng và Ngài sẽ không sớm nhập Niết bàn. Sự cần thiết phải có người yêu cầu Phật "Khoan nhập Niết Bàn" như thế, là một điều thần bí trong kinh điển Pàli (Phạn ngữ). Người Phật tử khi nghiện cứu về khía cạnh siêu hình trong đạo Phật sẽ thấy nhức óc. Xưa nay chúng ta vẫn hiểu rằng: Tuổi thọ của một kiếp người là do kết quả của toàn thể những cộng nghiệp (thiện ác lẫn lộn) mà người ấy đã tạo ra trong kiếp trước. Nhưng trường hợp của đức Phật thì hơi khác. Vì kiếp thành Phật là kiếp chót, nên tuổi thọ của một vị Phật là di quả lưu lại của hằng hà sa số kiếp trước. Có thể có những di quả phi thiện hay trung hòa quá yếu nào đó, nằm trong vô thỉ kiếp xa xưa đã không đuổi theo kịp tiền thân Phật, nên Ngài chưa trả, thì khi thành Phật Ngài phải trả. Người ta gọi những di quả quá yếu ấy là quả Tuỳ nhân duyên. Nghĩa là khi có lý do chính đáng đức Phật có thể chuyển hóa chúng được. Do đó tuổi thọ của một vị Phật sẽ ngắn hay dài vốn tùy theo sự chuyển hoá các di quả Tùy nhân duyên ấy. Và lý do chính đáng vừa nói chính là phải có người thiện tâm yêu đức Phật tiếp tục cuộc sống trên thế gian để độ cứu chúng sanh. Khi nghe lời yêu cầu ấy lòng từ bi của một vị Phật sẽ tự động tỏa rộng đến vô cực và làm chuyển hóa mọi hiệu lực của quả Tùy nhân duyên kia. Cũng có người nói rằng: Ðức Phật là một bậc toàn tri. Ngài biết rõ mọi điều mong ước của tất cả chúng sanh, nên không cần ai yêu cầu, Ngài vì lòng từ bi sẽ tự động sống lâu trên thế gian để độ đời! Ðiều này rất đúng, nhưng chỉ đúng khi thân Phật nằm trong trạng thái bình an, không thọ bệnh. Còn khi nhục thân bị trọng bệnh hoành hành, và tâm Phật nằm trong các bậc thiền, nhất là thiền Bát Nhã Vô Sắc, thì linh quang của Phật chỉ chiếu xung quanh thân Ngài mà thôi, chứ không tỏa đi xa để thấu đến những ai hữu duyên cần được cứu rỗi. Trở lại trường hợp A Nan Ða bị Ma Vương làm cho tăm tối, chúng ta thử đọc tiếp trong Tam tạng: "Khi ấy A Nan Ða vâng lời Phật, vừa đến ngồi Nhập Ðịnh dưới một tàng cây to, cách chỗ Phật không xa, thì Ma Vương (Màra) hiện ra. Y nhắc lại những điều đức Phật đã hứa trước đó 45 năm, khi Ngài mới đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghĩa là Ma Vương muốn đức Phật Nhập Diệt càng sớm càng tốt, để Ngài đừng bao giờ Chuyển Pháp Luân trên thế gian này. Nhưng đức Phật đã trả lời rằng: Ngài không thể Viên Tịch khi đạo giải thoát chưa được phổ biến đầy đũ, và bốn hạng người lành (Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, thiện nam, tín nữ ) chưa thấm nhuần Chánh Pháp, cùng chưa vững tiến trong đời sống phạm hạnh. Ma Vương nhắc xong rồi nói; "Hiện tại những việc đó Phật đã hoàn thành, vậy Ngài hãy giữ lời hứa và phải Nhập Diệt". Ðức Phật trả lời;"Chúng sinh còn thiện duyên với Như Lai! (Ngài không nói duyên lành ít hay nhiều). Như Lai sẽ vào Niết Bàn trong khoảng ba tháng nữa...!" Một câu hỏi có thể đặt ra; "Tại sao đức Phật lại tuyên bố Ngài sẽ Nhập Diệt trong vòng ba tháng tới, trước mặt Ma Vương, mà Ngài không tuyên bố lời ấy, trước mặt một ai khác?" Chúng ta thử phân tích về điểm này: Theo điển cố thì Ma Vương là chủ tể của cái vòng sinh tử luân hồi, gồm Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Ảnh hưởng mạnh nhất của Ma Vương là cõi Dục giới. Tất cả những sắc thân từ vật chất ô trược (Như đặc, lỏng, mủ, máu, hữu cơ v.v...) cho đến vật chất thể bền và thể hơi (như sắt, đá, cương tinh, gió, lửa và các thứ khí v. v...) đều là sản phẩm độc quyền chế tạo của Ma Vương. Khi một chúng sanh ra đời trong Tam giới, bất luận thuộc hạng nào, có thể từ thấp sinh, noãn sinh, hay thai sinh, lên đến hóa sinh, như từ thú rồi người và trời v.v... là chúng sinh ấy đã chịu "nương" vào sản phẩm của Ma Vương để mà sống. Tất cả chúng sanh mang thân nghiệp có thể ví như người ở trọ mà Ma Vương là chủ nhà. Tiền thuê nhà phải trả cho Ma Vương trong trường hợp này là nuôi dưỡng tham, sân, si. Một vị Phật hay một vị A La Hán là những bậc không còn thiếu nợ đối với chủ nhà xác thân họ nữa. Hay nói cách khác là các hàng ấy đã đứt khoát không chịu: ''thuê nhà" kiếp sau của Ma Vương nữa. Các vị ấy không chịu nuôi dưỡng tham, sân, si thì không còn tái sinh nữa, nên Ma Vương nổi giận muốn đuổi người "ở trọ" thánh thiện ấy đi, để lấy nhà ô trược lại càng sớm càng tốt. Tuổi chết (ví như hạn kỳ thuê nhà) của một bậc Giác Ngộ, dù chưa đến, Ma Vương cũng tìm đủ mọi cách làm cho nó đến sớm, kẻo bậc Giác Ngộ càng có mặt lâu trên cõi Ta bà nàythì số người Giác Ngộ càng tăng, khuyến khích nhau tận diệt tham, sân, si... bước ra khỏi Tam giới, không còn ai thuê nhà kiếp sau do Ma Vương chế tạo nữa. Thí dụ một cách khác thì Ma Vương có thể ví như một người xây nhà để bán cho chúng sinh luân hồi. Còn đức Phật có thể ví như người Mua nhà lần cuối cùng. Khi ngôi nhà ấy (ám chỉ xác thân) trở nên cũ kỹ, sắp sập, Ngài quyết định không để cho Ma Vương xây nhà mới nữa, nên Ma Vương nổi giận tìm đủ mọi cách đuổi Phật ra khỏi ngôi nhà cũ, (tức phải chết) càng sớm càng tốt! Do đó Ma Vương chính là kẻ đầu tiên biết Phật không còn cần đến y nữa. Nhưng năng lực của Phật muốn lưu lại trong ngôi nhà cũ, (ám chỉ xác thân) do y đã cất, không biết đến bao giờ mới cạn, nên y cứ tìm cách hỏi Phật chừng nào Ngài Nhập Diệt? Ma vương cũng tự biết rằng: Thánh quả Toàn Giác, tuy rất hiếm, nhưng cũng có thể xuất hiện trên thế gian bất cứ lúc nào. Không có một năng lực chi có thể ngăn cản được. Cũng như thành quả Chánh Ðẳng Chánh Giác ấy muốn kưu lại trong Tam giới bao lâu tùy nhân duyên chứ Ma Vương không làm sao biết trước hay xua đuổi được. Nhưng dù sao, đức Phật sau khi Ðắc Ðạo, Ngài đã quyết định không sống một kiếp người dài bằng tuổi thọ trái đất. Ngài đã không vận dụng những thần lực để biến mình thành trường sinh bất tử. Những thần lực này vốn có sẵn trong tâm Phật. Ngài có thể phát triển bất cứ lúc nào ngài muốn. Nhưng Ngài đã không phát triển. Và khi đối diện với Ma Vương, Phật thản nhiên tuyên bố Ngài sẽ Nhập Diệt trong vòng ba tháng nữa, tức là một cách Phật gián tiếp xác nhận Ngài sẽ không sử dụng thần lực trường sinh bất tử, nên quả đất phải rung chuyển và phong vũ sấm sét đã nổi dậy... Vì những sức mạnh phi thường bao quanh địa cầu là kết tinh của hào quang chiếu và nhục thân của đức Phật. Những sức mạnh phi thường ấy đã từ lâu chờ đợi tâm Phật phổ ra để biến thành kim cương mà bảo vệ một vị Phật Chánh Ðẳng Giác cho đến mãn kiếp trái đất. Nhưng những linh lực ấy đã không được Phật làm hành điểm để hội tụ, thành thử chúng hiển lộng ra như thế! Khi A Nan Ða chứng kiến một cách kinh hãi cảnh mặt đất rung động, đồng thời trên không trung sấm sét, cuồng phong nổi lên như thế. Ông lập tức bạch Phật hỏi nguyên nhân, thì được đức Thế Tôn trả lời rằng: - Có tám nguyên nhân làm cho mặt đất rung động và bầu khí quyển bị xáo trộn là: ''Một, có một sinh vật khổng lồ bước đi. Hai, có một đạo sĩ đắc Thiền đạt thần thông Vô sắc. Ba, có một đại Bồ Tát giáng sinh vào lòng mẹ. Bốn, có một đấng cứu thế ra đời. Năm, có một đức Phật Thành Ðạo. Sáu, có một bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác bắt đầu Chuyển Pháp Luân. Bảy, có một vị Phật Tổ từ chối sự trường sinh bất tử. Và tám, có một lời hứa Phật sẽ nhập Niết Bàn''. Khi đọc đến đoạn này, chúng ta sẽ thấy rằng: Sự hiện hữu của một vị Phật Tổ, trên thế gian vốn có nhiều liên quan với càn khôn vũ trụ, chứ không đơn giản như một cuộc sống phàm tình mà chúng ta thường lầm tưởng. Ðối với các nhà khảo cứu thì những bài kinh nói về tám điềm lạ, hay nói đến tám trình độ tinh thông hoặc nói đến tám bậc Giải Thoát là những đề tài chính trong kinh Ðại Niết Bàn. Và chúng ta ai cũng biết rằng: trong 3 lần 8 là 24 ấy, chỉ có tám pháp nói về điềm lạ (hay còn gọi là tám hiện tượng kinh cảm vũ trụ), như vừa kể trên là thỉnh thoảng được nhắc đến mà không có lý giải. Còn 16 loại đề tài kia, gồm tám trình độ tinh thông và tám bậc Giải Thoát, thì thường được Tạng kinh và Tạng luận phân tích rõ ràng. Ai muốn biết rõ ba nhóm kinh, mỗi nhóm tám chi này, mời quí vị hãy đọc cuốn, Những ngày cuối cùng của Ðức Phật bằng tiếng Anh (The Last Day of the Buddha), do Bánh Xe Pháp xuất bản (Wheels Publication, Sri Lanka). Trên thực tế, tám điềm lạ, (tức tám nguyên nhân làm cho mặt đất chuyển động và phong vũ sấm sét nổi lên) vốn chứa lắm điều bí ẩn đặc biệt. Ðức Phật dẫu có tiết lộ trước đó, phàm tuệ của A Nan Ða cũng không thể nào thấu hiểu nổi. Cho nên Phật Tổ đã không nói ra và chỉ có những hiện tượng nhiệm màu làm cho A Nan Ða bị kinh cảm, mới khiến cho ông sực nhớ biết chắc Ðức Phật sắp đi vào Niết bàn. Và cảnh quả địa cầu đã không chịu nỗi sự mất mát phúc đức vô lượng, tức sắp mất đi một vị Phật, nên đã chuyển động khiến vạn vật rung rinh một cách kỳ lạ mà không làm tổn hại đến A Nan Ða một sợi lông, đủ chứng minh cái sắc thái thần bí muôn đời giữa đức Phật và vũ trụ dó. Trở lại câu chuyện của đức Phật và A Nan Ða tại Thiền Ðịnh Ðạo Tràng Capala: Sau khi quả địa cầu kinh cảm chấm dứt, đức Phật liền đích thân dạy cho A Nan Ða các phương pháp hành thiền thích hợp với các căn cơ ông nhất để A Nan Ða mau tiến hóa. Ðoạn đức Thế Tôn thuật lại cho A Nan Ða nghe những gì ngài đã hứa với Ma Vương 45 năm về trước. Ngài lập lại câu nói ''Một vị Phật không thể Nhập Niết Bàn trước khi chưa ban bố pháp Giải Thoát đầy đủ trong Tam Giới''. Rồi Phật tiếp: - Nhưng trải qua 45 năm chờ đợi. Vừa rồi Ma Vương đã hiện ra nhắc rằng: Hiện tại Như Lai đã công bố đầy đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn rồi. Tại sao Như Lai chưa nhập Diệt? Và Như Lai đã hứa với y là Như Lai sẽ nhập Niết Bàn trong ba tháng tới. Và Phật kết thúc câu chuyện: - Khi tâm Phật hướng vào Niết Bàn mà thân Phật chưa biến thành kim cương thì quả địa cầu, phải rung động. Hiện tượng ấy không phải lúc nào cũng có, mà nó chỉ xảy ra đúng ba tháng trước khi Phật nhập Niết Bàn. A Nan Ða nghe thế liền hốt hoảng quỳ lạy thiết tha yêu cầu Phật hóa thành Kim thân để sống lâu độ đời. Ông yêu cầu lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, vẫn thấy đức Thế Tôn ngồi yên, im lặng. Ðoạn Phật hiền từ nhìn A Nan Ða cho biết rằng: - Này A Nan Ða! Bây giờ thì quá muộn, vì tâm Phật đã hướng về Niết Bàn rồi và đã tự dứt bỏ các phép nhiệm mầu Trường Sinh Bất Tử. Nhưng khi A Nan Ða yêu cầu đến lần thứ ba thì đức Phật chợt nghiêm nghị hỏi A Nan Ða: - Này A Nan Ða! Vậy ông có tin tưởng vào phẩm hạnh hoàn toàn của một bậc đã ra khỏi Tam Giới không? - Bạch Ðức Thế Tôn! Ðệ tử tin tưởng như thế! Rồi đức Phật dạy tiếp: - Nếu tin tưởng như thế, tại sao ông lại nài nỉ Phật làm một việc đã quá thời đến ba lần? A Nan Ða biện hộ rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Sở dĩ đệ tử yêu cầu đức Thế Tôn đến ba lần, là vì đệ tử đã nghe đức Thế Tôn nói một vị Phật luôn luôn có đầy đủ bốn thần lực tuyệt đối, dư khả năng hóa thân thành kim cương, kéo dài tuổi thọ. Ðức Phật liền hỏi A Nan Ða: - Này A Nan Ða! Mà ông có tin điều Như Lai nói, về bốn thần lực ấy, là sự thật không? - Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử tin sự ấy có thật. Ðức Phật bèn giải rõ: - Này A Nan Ða! Dịp may độc nhất đã qua rồi không bao giờ trở lại! Lời ông yêu cầu Phật hóa thân trường sinh bây giờ đã quá trễ! Ông chỉ có thể yêu cầu Phật hóa thân trường sinh bây giờ đã quá trễ! Ông chỉ có thể yêu cầu Phật chấp nhận kim thân bất tử khi nào tâm Phật chưa bắt đầu hướng vào Vô Dư Niết Bàn. Và hiện tại thì hy vọng ấy của ông không còn nữa. Rồi Phật giảng thêm: - Này A Nan Ða! Nếu trước đây ông đã cung thỉnh Như Lai hóa thân trường sinh độ đời đúng lúc, thì lời yêu cầu của ông đã được Như Lai chấp nhận rồi! Ông quên rằng chính Phật đã gợi ý cho ông làm điều đại thiện ấy nhiều lần, nhưng ông vì tăm tối đã để trôi qua. Phật không phải đã chỉ nhắc ông một lần mà Ngài đã nhắc ông đến mười lăm lần tại năm địa điểm khác nhau rằng: Một vị Phật khi thân thể suy tàn, nếu có kẻ thiện tâm yêu cầu, Ngài vì lòng từ bi sẽ hóa thân trường sinh độ đời. Ðoạn đức Phật nhắc lại năm địa điểm gần thành Vesali, nơi đó ngài đã gợi ý để A Nan Ða thỉnh Phật đừng nhập Niết bàn (mỗi địa điểm Phật nhắc đến ba lần, tổng cộng thành mười lăm lần), nhưng A Nan Ða vẫn im lặng, không phản ứng gì cả. Sau cùng đức Phật khuyên nhủ A Nan Ða rằng vạn vật trong Tam giới luôn bị chi phối bởi luật Vô thường. Và một bậc Toàn Giác không bao giờ làm ngược lại với duyên phận của chúng sinh trên cõi thế. Phật đã hứa với Ma Vương trong ba tháng nữa sẽ Nhập Diệt, là một cách để cho những ai hữu duyên còn sót lại, có thể sẽ được ngài giải cứu độ. Tiếp theo đức Phật bảo A Nan Ða tập họp chư Tăng đệ tử trong vùng để ngài thuyết một bài pháp tán dương trước cộng đồng xuất gia sự phát triển nội tâm (thiền định) và trao dồi Minh sát tuệ (vipassanà), vì chỉ có hai phép tu tập này mới làm cho đời sống phạm hạnh được duy trì vững chắc, và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Phần cuối bài pháp, đức Phật dùng để công bố giữa Tăng hội rằng Ngài sẽ nhập Niết Bàn trong vòng ba tháng nữa. (Lời của dịch giả: Lúc Phật tuyên bố câu ấy nhằm ngày 15 tháng giêng Âm lịch. Bởi vậy về sau này theo truyền thống Nam tông, mỗi năm chư Phật tử hằng tổ chức lễ kỷ niệm ''Phật hứa với Ma Vương'' - hay Ngày Phật Di Chúc - vào ngày trăng tròn tháng thứ nhất). Tuyên bố thời điểm nhập Niết Bàn xong, đức Phật bèn thốt ra nhiều bài kệ, mà một trong các bài ấy được tạm dịch như sau:
Phần thứ tư của kinh Ðại Niết Bàn thuật lại chuyện đức Phật tóm lược những chuyến hành trình của Ngài sau mùa nhập hạ, và tuyên bố ngài muốn trở về Vesali. Rồi trên đường đi Vesali, Phật còn lập lại cho các hàng đệ tử những lời dạy mà ngài đã thuyết, và họ đã được nghe. Nội dung đại khái như sau: - Chúng sanh sở dĩ phải tiếp tục luân hồi trong cái vòng Sinh Diệt bất tận, là bởi họ đã không thấm nhuần bốn Pháp học. Bốn Pháp học ấy trước đó Ngài đã gọi là Tứ Diệu Ðế (Catu ariyasaccàni: Khổ đế, Tập đế, Ðạo đế và Diệt đế) thì bây giờ lại được Phật gọi là bốn pháp hành đạo cao thượng gồm có:
Riêng phần Ðịnh tâm cao thượng còn được Phật lặp đi lặp lại và nhấn mạnh nhiều lần trong chuyến trở về Vesai này. Ðặc biệt Ngài còn chỉ rõ rằng nền tảng của định tâm cao thượng chính là giới đức cao thượng (ám chỉ thân nghiệp và khẩu nghiệp hoàn thành trong sạch). Và tại một địa điểm dừng chân khác, cũng trên lộ trình ấy, đức Phật đã giải cho các hàng Tăng chung nghe một phương pháp tìm hiểu Phật ngôn, hầu phòng khi có đệ tử sơ cơ nào, chưa thấu rõ lời Phật dạy, sẽ có tiêu chuẩn mà học hỏi Phật giáo, nhất là sau khi Ngài Tịch Diệt. Những ai khảo cứu kinh Ðại Niết Bàn, muốn nắm vững nội dung đoạn pháp nói về "Phương cách tìm hiểu Phật ngôn'' trên, họ có thể tìm thấy sự dẫn chứng trong Tạng Luật, và lời cắt nghĩa trong Tạng Kinh. Trường hợp đoạn kinh ấy được ghi lại quá sâu sắc, tế nhị và cô đọng, khiến họ khó tìm ra nghĩa lý, rồi phát sinh nghi ngờ về thuật sự đó, thì soạn giả xin mời họ hãy đọc chương "Bốn Pháp Quyền Vĩ Ðại'' bằng tiếng Anh (The Great Autorities), quyển "Những ngày cuối cùng của đức Phật (The Last Days of The Buddha)", trang 46 thì sẽ rõ. Lời dạy về "Phương pháp để hiểu Phật ngôn'' này ngày nay rất quan trọng,vì nó là nền tảng giữ đức tin của các hàng Phật tử, khi họ đối diện với một số bản kinh khác nhau, mà những ngườI "làm chủ'' các bản kinh ấy ai cũng đề cao bản văn của mình và tài liệu Phật ngôn chính thống. Nhất là người Phật tử có thể nhớ lại lời Phật dạy ấy để phân biệt những Phật ngôn do chính đức Bổn Sư thuyết ra khi còn tại tiền, với những "Phật ngôn'' được ghi lại trong kinh điển sau này. (xin xem tiếp Phần IX-b). Ðầu trang | I | II | III | IV | V | VI | VII | VIII | IX | X | Mục lục |
Chân thành cám ơn anh HDC đã giúp tổ chức đánh máy vi tính (Bình Anson, 05-2001)
update: 19-05-2001