Người Cư Sĩ          [ Trở Về        [Trang Chủ]

THIỀN HOẠT ĐỘNG

Phụng Sơn

---*---
Khi đến tham dự các khóa tu tại các thiền viện chúng ta được hướng dẫn cho cách ngồi thiền, cách thở, cách đi thiền hành. Nếu chúng ta đi đến các thiền viện do người Hoa Kỳ phụ trách, chúng ta sẽ được hướng dẫn cách thực hành các thứ trên khác nhau tùy theo thiền viện hay tu viện đó thuộc Lâm Tế, Tào Động, Mật Tông hay Nam Tông.

TẠI SAO PHẢI THIỀN

Tiến sĩ Kabat-Zinn, người đã thành lập một trung tâm làm giảm bớt căng thẳng đễ chữa trị bệnh tật Stress Reduction Clinic tại viện đại học y khoa Massachusetts Medical School vào năm 1979, cách đây 25 năm, đã chữa trị cho trên 15, 000 bệnh nhân cùng dạy cho trên 2,000 nhân viên thuộc ngành y tế, trong đó có nhiều bác sĩ và y tá, về Thiền, và nhất là ứng dụng thực hành "Tâm Vô Phân Biệt". Đây là một phương thức thực hành trong Thiền Phật Giác để phát triển trí tuệ Bát Nhã hay trí tuệ không phân biệt, không dính mắc vào những tâm tư như ưa hay ghét, những cảm giác sướng hay khổ để đạt được niềm an vui trong sáng, vững bền.

Trong cách thực hành thiền, mặc dù hình thức các tông phái nói trên có khác nhau như cách ngồi, cách để tay khi ngồi, cách đi thiền hành, nhưng tất cả đều thống nhất về hai điểm then chốt, đó là chỉ và quán. Chỉ là sự chú tâm vào một đối tượng và chỉ một đối thượng thôi như chú tâm liên tục vào hơi thở vào hay hơi thở ra, hoặïc chú tâm vào bước chân khi đi thiền hành, v.v Quán thì khác: Thấy biết mọi thứ với tâm buông xa, linh động, trong sáng. Ban đầu phải học cách thực hành hai thứ trên khác nhau, dần dần quen ứng dụng và thực hành chỉ và quán cùng một lúc: Có sự chú tâm thoải mái cùng lúc với tâm mở rộng để cảm nhận bén nhạy, rõ ràng và chân thật những gì xuất hiện trong tâm. Đó là cách thực hành sống trọn vẹn trong hiện tại.

Sự thực hành nói trên làm cho bệnh tật giảm đi rất nhiều. Trong các cuộc nghiên cứu về kết quả thực hành thiền, tiến sĩ Kabat-Zinn cho thấy những người bị bệnh vảy nến (psoriasis, một chứng bệnh ngoài da mãn tính sinh ra những mãng vảy ngứa trên khủy tay, cánh tay trước, đầu gối cùng vài nơi khác) thực hành thiền thì lành bệnh mau hơn gấp bốn lần, những ngượi bi ung thư thì có đời sống thoải mái hơn, những người bị bệnh bất an hay các chứng đau nhức cũng giảm nhiều .

Để gia tăng sự hiểu biết rõ ràng hơn, tiến sĩ Kabat-Zinn hợp tác với một số chuyên gia trong đó có tiến sĩ Richard Davidson, một nhà khoa học về thần kinh học xuất thân từ đại học Harvard, thuộc viên đại học University of Wisconsin ở Madison, tuyển lựa những nhân viên làm việc cho một công ty hóa học Promega, ở ngoài vùng Madison, để nghiên cứu kết quả của thiền Phật Giáo trên hệ thống thần kinh cũng như miễn nhiễm của những người thợ Hoa Kỳ bình thường làm việc trong văn phòng.

KẾT QUẢ THỰC HÀNH TÁM LẦN

Trong tám tuần lễ, cứ mỗi tuần một lần, tiến sĩ Kabat-Zinn đến hãng Promega hướng dẫn cho các nhân viên hãng này gồm các nhà khoa học, các chuyên viên thị trường, những chuyên viên trong phòng thí nghiệm và cả những người điều hành ngồi thiền trên sàn của phòng họp trong vòng ba giờ. Như vậy họ thực hành thiền tám lần trong hai tháng, đầu họ được quấn dây điện và sau khi chương trình hoàn tất họ được các chuyên gia thử nghiệm về bộ não cũng như mức độ của hệ miễn nhiễm.

Kết quả cuộc nghiên cứu này được tường trình trên tờ báo chuyên môn về tâm lý trị liệu Psychosomatic Medecine và kết luận là thiền đã để lại một kết quả lâu dài và rõ ràng nơi các người thực hành thiền trong hai tháng, mỗi tuần một lần, mỗi lần ba giờ nói trên. Các chuyên gia này nhận thấy ở hệ thần kinh những người tham dự khóa thiền, nhiều hoạt động gia tăng trong nhiều nơi thuộc vùng võ não thùy trước trán, những hoạt động này kéo dài ít nhất là bốn tháng sau khi họ chấm dứt ngồi thiền.

(Chúng ta cũng biết là thùy trước trán liên quan đến chức năng trí nhớ, học hỏi, cư xử xã hội và cảm xúc). Ngoài ra, những người được ghi nhận về sự gia tăng mạnh mẽ nơi vùng thùy trước của bộ não thì cơ thể họ sản xuất nhiều kháng thể chống bệnh tật khi họ được chủng ngừa bệnh cúm.

Tiến sĩ Kabat-Zinn cho biết đó là sự phát triển phẩm chất trong bộ não chỉ sau hai tháng thực hành phản ảnh được phần nào kết quả của các chuyên gia thiền là quý vị tăng ni Phật giáo hay các vị cư sĩ tu tập lâu ngày. Điều này đã được nhà khoa học phân tử sinh học Michael Slater, tham dư trong khóa nghiên cứu về kết quả tốt của Thiền, nói rõ: Tôi là một người nghi ngờ về giáo điều, chú tâm về thực nghiệm. Tôi thấy kết quả của thực hành thiền này là sự căng thẳng giảm sút, có nhiều khả năng chịu dựng áp lực hơn và vợ tôi thấy tôi dễ thân cận hơn.

THIỀN KHÔNG CHỈ LÀ NGỒI

Nếu chúng ta vào tham dự khóa tu học ở các thiền viện, thời gian ngồi thiền sẽ rất lâu. Tuy nhiên, ngoài các khóa tu này, các vị tăng ni và cư sĩ sinh hoạt tại thiền viện được nhắc nhở thực hành thiền khi đi, đứng, ngồi, nằm, ăn cơm, uống trà, nghỉ ngơi, nói chuyện, làm việc, lái xe, mua sắm. Thực hành như vậy là thực hành nội dung thiền. Còn ngồi hay đi thiền hành là hình thức thiền. Hình thức có nội dung là có phẩm chất thiền. Còn hình thức mà không có nội dung thì thiếu vắng thiền. Tuy nhiên, có một điều rất quan trọng chúng ta cần nhớ: Nếu học thiền mà không bắc đầu bằng hình thức, tức là ngồi thiền và thiền hành, thì không thể nào đi vào nội dung thiền được. Học thiền cũng giống như học đạp xe đạp: Phải ngồi cho vững vàng trên yên xe rồi mới đạp đi xa được.

Một hôm thiền sư Lâm Tế, vị tổ dòng Lâm Tế, lúc còn học thiền với thiền sư Hoàng Bá, đang nằm ngủ trong Tăng đường. Thiền sư Hoàng Bá vào thấy bèn gõ vào đầu giường một tiếng. Sư Lâm Tế mở mắt nhìn lên thấy thầy mình đang nhìn liền nhắm mắt ngủ tiếp. Thiền sư Hoàng Bá gõ một lần nữa rồi đi lên nhà trên gặp vị thủ tọa đang ngồi thiền. Hoàng Bá nói: "Nhà dưới ông thầy trẻ đang ngồi thiền, ông ở đây đang vọng tưởng?"

Điều này vị tổ thứ sáu của Thiền Tông là thiền sư Huệ Năng cũng lưu lại một câu chuyện. Khi thầy Chí Thành, học trò của ngài Thần Tú, một người chủ trương dành nhiều thì giờ để ngồi thiền, đến tham vấn ngài Huệ Năng hỏi thầy ông dạy tăng chúng ra sao. Thầy Chí Thành đáp: "Thầy tôi dạy phải chận đứng tất cả tư tưởng trong tâm (trụ tâm) và ngồi im quán tưởng (quán tịnh), ngồi hoài không nằm." Thiền sư Huệ năng dạy:

"Trụ tâm quán tịnh là bịnh, chẳng phải thiền. Ngồi hoài thì thân thể bị gò bó chớ có ích gì. Nghe kệ ta đây:
Sanh ra ngồi chẳng nằm
Chết đi nằm chẳng ngồi
Một bộ xương thúi nát
Có gì đâu công phu."

Trên thực tế, các thiền viện rất chú trọng đến ngồi thiền. Trong tuần lễ Nhiếp Tâm, các thiền viện Lâm Tế bắt đầu cho thiền sinh ngồi thiền từ 3 giờ sáng đến 10 giờ tối, xen kẻ thiền hành, thọ trai, chấp tác nói pháp và bốn lần tham vấn riêng (tiểu tham) với vị thiền sư. Thiền đường Tào Động thì một tháng dành nguyên một tuần để tu tập, ngồi thiền từ 5 giờ sáng đến 9 giờ tối, xen kẻ thiền hành, thọ trai, chấp tác, nói pháp và tham vấn cho những người nào có câu hỏi riêng tư.

Như vậy, ngồi thiền và đi thiền hành là một yếu tố rất quan trọng trong việc học thiền. Tại sao? Vì ngồi thiền tạo cơ hội cho thân thoải mái, tâm lắng dịu, trong sáng, bén nhạy, tỉnh thức thấy biết rõ ràng các hoạt động cùng cảm giác nơi thân và tâm. Tuy nhiên, con người là một sinh vật năng động, nếu ngồi trong một thời gian vừa phải thì tốt, còn ngồi lâu dài thì sinh ra bệnh thân cũng như tâm. Do đó, các thiền viện rất chú trọng đến sự chấp tác, làm việc mạnh mẽ bằng tay chân như chùi nhà, quét sân, làm vườn, cuốc cỏ, trồng lúa hay rau cải, có nơi dành thì giờ để tập luyện cho thân thể được mạnh khỏe. Đặc biệt tại chùa Thiếu Lâm ở Trung Hoa, tập luyện võ công phối hợp với thiền là phương pháp tu rất mạnh mẽ và khó khăn. Tất cả mọi sinh hoạt đi, đứng, nằm, ngồi, tụng kinh, làm việc, ăn uống trong thiền viện từ Á Châu, Mỹ Aâu, Phi Châu hay Uùc Châu đều được khuyến khích thực hành trong chánh niệm hay thực hành thiền hoạt động.

THIỀN HOẠT ĐỘNG

Vào năm 2004, các huấn luyện viên thể thao, khí công, y tá và bác sĩ nhắc nhở phải gia tăng vận động qua qua sự tập luyện và họ đề ra hai phần quan trọng: Tập luyện thân và tâm và huấn luyện chức năng.

Trước đây người ta chỉ chú trọng đến tập cho thân thể, không nói đến tinh thần. Họ chú trọng đến tập từng bộ phận một cho mạnh như tập tạ cho mạnh tay, tập đạp cho mạnh chân, tập kéo cho mạnh bắp thịt. Giờ đây họ được nhắc nhở phải tập để cơ thể có một sức mạnh toàn điện do sự phối hợp tốt đẹp của tất cả các phần trong cơ thể như đầu, cổ, xương sống, tay, chân, gân, bắp thịt khi cử tạ, chạy bộ, vận động tay chân và thân thể, v.v

Họ nhắc nhở đến tâm khi tập luyện vì nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy nếu tâm họ duy trì được sự trong sáng và chú tâm thoải mái khi tập thể thao thì kết quả gia tăng bội phần. Nói khác đi, người ta đã chú ý đến yếu tố chánh niệm, chú tâm thoải mái, và định tâm, tâm vắng lặng, trong sáng và vững vàng khi thể dục, thể thao, yoga hay các hình thức vận động cơ thể khác.

Thiền là trở về với sự chú tâm thoải mái, sự vắng lặng, tỉnh thức, vững vàng và linh động của tâm thức. Yếu tố thiền càng lúc càng được các bác sĩ, nhân viên y tế, chuyên viên tâm thần, huấn luyện viên vận động, các nhà giáo dục khích lệ thực hành. Thiền được áp dụng trong sinh hoạt hàng làm gia tăng phẩm chất đời sống. Bác sĩ Dean Ornish, chuyên gia tim mạch ứng dụng phương pháp chữa trị bệnh tim mạch không phụ thuộc vào thuốc men đã đem chương trình tập thiền, Yoga, đi bộ và biểu lộ tình thương cùng sự chú tâm thoải mái về những cảm xúc của mình. Đó là huấn luyện thân và huấn luyện tâm để đi đến sự hợp nhất thân tâm.

Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe nói đến Thân Tâm Nhất Như hay thân và tâm là một. Đó là một quan niệm phản ảnh lời dạy về Trung Đạo hay Bất Nhị (không hai). Thân và tâm không phải là hai thực thể tách lìa: Hai thứ có mặt tuy bề ngoài (tướng) khác nhau như tâm thì không có hình tướng, không bị giới hạn bởi không và thời gian nhưng thân thì có hình tướng, có màu sắc, có mùi vịnhưng là một. Nói khác đi, về mặt nhận thức, chúng ta thấy rõ ràng thân và tâm khác nhau nhưng về mặt thực thể chúng vốn không phải là hai thứ khác biệt. Điều này chúng ta thấy rất rõ nơi một hạt âm điện tử, một thành phần rất nhỏ kết thành hạt nguyên tử: Nó vừa là một hạt (đó khích thước nhất định, có vị trí) mà vừa là một làn sóng (không có hai yếu tố trên).

Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu y khoa đã tán đồng quan niệm thân và tâm không phải là hai thứ tách biệt mà cùng lúc có mặt và cùng biểu lộ theo hai cách, cùng tác động lẫn nhau nhưng không ở ngoài nhau, không tách ra làm hai thứ thân và tâm riêng biệt: Chúng cùng biểu lộ dưới hai hình tướng khác nhau và đồng thời ảnh hưởng hỗ tương lẫn nhau. Nói một cách giản dị: Niềm vui, nổi buồn, ưa, ghét, sướng khổ, thương giận, hạnh phúc, đớn đau, đau bụng, nhức lưng vừa biểu lộ nơi thân và vừa biểu lộ nơi tâm. Như thế, sự chữa trị bệnh tật, sự phát triển sức khỏe có tính cách toàn diện: Tâm có thể tạo ra bệnh tật nơi thân, thân có thể làm cho tâm mất quân bình. Do đó, bệnh nhân phải thực hành chánh niệm để nhìn sâu vào cội nguồn của thân và tâm để chữa trị tận gốc và phát triển sức khỏe vì cái này liên hệ với cái kia như lời đức Phật dạy trong tuyết Duyên Sinh (các yếu tốt kết hợp và tạo ra một thứ, một hiện tượng nào đó) như sau:

"Cái này có thì cái kia có,
Cái này không thì cái kia không,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này diệt thì caiù kia diệt."

Điều này được bình luận gia Geoffrey Cowley, người đã đóng góp tài năng và kiến thức cho tuần báo Newsweek để tuần báo này nhận được nhiều lần đề cử cho giải National Magazine Award, một giải thưởng rất giá trị đối với các tuần báo tại Hoa Kỳ, trình bày trong một cuộc thảo luận Live Talk vào ngày thứ tư 22 tháng 9 năm 2004. Khi có người hỏi: "Có phải bộ não của chúng ta tách biệt với tâm ta hay không? Hai thứ đó khác nhau hay hai thứ đó là một?" Ông Cowlley trả lời:

"Khoa thần kinh học dạy chúng ta rằng điều mà chúng ta nghĩ có một cách tâm tách biệt thì thực ra đó là những hoạt động của bộ não. Khi mà ông chấp nhận sự kiện này thì vấn đề "thân-tâm kết hợp" sẽ bớt đi tính cách huyền bí. Vấn đề không phải là vấn đề một bên tác động vào bên kia một cách siêu nhiên. Cảm xúc là các hiện tượng thân thể, và sức khỏe thân thể là một hiện tượng cảm xúc. Hai thứ là thành phần của chung một hệ thống."

Các cuộc tìm hiểu hiện nay về thân-tâm trong ngành Y Khoa và Tâm Thần Học, có lẻ đã giới hạn trong quan điểm trên, và đã tạo ra một sự hứùng khởi khắp nơi tại Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới. Hậu quả cụ thể là hàng ngàn trung tâm huấn luyện thân - tâm, Mind and Body Training dưới nhiều bảng hiệu khác nhau tại các bệnh viện, trường đại học y khoa, các trung tâm thể dục, các chương trình huấn luyện lực sĩ, các tổ chức chăm sóc sức khỏe ứng dụng các khám phá mới mẻ nhật của ngành y khoa hiện đại đối với sự liên hệ mật thiết của thân và tâm trong vấn đề tạo ra sứ ckhỏe và niềm an vui cùng phối hợp với thuốc men trong việc chữa trị hầu như tất cả các thứ bệnh tật. Trong sự hào hứng này, nhiều chuyên viên sức khỏe thể chất, tinh thần và tổ chức cộng đồng gồm các bác sĩ, y tá, tâm lý gia, tác viên xã hội đã nghiên cứu về sự lợi ích của thiền, khí công, thái cực quyền và Yoga. Nhiều người không chỉ nghiên cứu mà còn chính mình thực hành và áp dụng vào việc điều trị bệnh nhân.

KHOA HỌC CHÚ TRỌNG ĐẾN THIỀN

Khi khoa học đến với thiền, các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu kết quả cụ thể về sự thực hành này trong phạm vi y tế và giáo dục. Trên ba mươi năm qua, bác sĩ Herbert Benson qua chương trình nghiên cứu về sự thư giản thân và tâm mà ông ta gọi là The Relaxation Response đã cho biết khi thực hành chú tâm thoải mái vào hơi thở thì tâm thần lắng dịu, huyết áp giảm xuống, nhịp thở chậm lại, tim đập chậm, các bắp thịt thư giản từ đó nhiều bệnh tật cũng bớt đi. Theo sự nghiên cứu của Viên Thân và Tùâm, The Mind and Body Institude? Thì có đến từ 60% đến 70% các bệnh tật là do tâm hay tinh thần sinh ra.

Cuộc nghiên cứu trên cũng thấy rõ các trẻ em thực hành thiền giản dị thì học giỏi hơn, làm việc và phối hợp với các em khác tốt đẹp hơn.

Cách thiền theo bác sĩ Benson thìø rất giản dị mà người lớn hay trẻ em điều thực hành được theo một trong ba phương pháp sau đây:

1. Ngồi thoải mái và niệm: trên ghế hay trên gối và nhắm mắt lại. Thư giản các bắp thịt từ dười chân, bắp chân, đùi, bụng, vai, cổ và đầu. Thở vào thở ra thoải mái và niệm một chữ hay một câu theo ý thích của mình lúc thở ra. Nếu có ý tưởng xuất hiện xen kẻ thì đừng quan tâm, ghi nhận và tiếp tục thiền.

2. Ngồi thở thoải mái và đếm số: Đếm 5 hay 10 số ở mỗi hơi thở ra. Ví dụ: Thở vào, thở ra và nói thầm "năm", thở vào, thở ra nói thầm "bốn", cho đến "một" và lập lại từ đầu. Thực hành từ 10 đến 15 phút là thấy thân và tâm êm dịu, thư giản. Nếu không có nhiều giờ, chỉ cần 5 phút thực hành cũng có kết quả tốt.

3. Cử động lập đi lập lại: Có thể ứng dụng thiền, hay tạo ra trạng thái thân tâm, khi đi bộ, chạy bộ, vận động, chơi nhạc, hoặc bất cứ hoạt động nào lập đi lập lại các cử động như đan len, thái cực quyền, khí công, Yoga hay tụng đọc những lời cầu nguyện.
Như thế, ba cách thực hành trên bao gồm thiền tĩnh lặng, ngồi yên, và thiền hoạt động, vận động chân tay nhịp nhàng trong chánh niệm để đưa đến trạng thái thư giản của thân và buông thư hay buông xả của tâm. Trên phương diện thực hành cụ thể, những điều nói trên liên hệ đến các sự tập luyện của nhiều nhóm khác nhau như Thiền, KHí Công, Thái Cực Quyền và Yoga hiện nay.

LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT

Trong bài viết Buddha Lessons, bà Claudia kể lại bà Dalia Isicoff bị chứng viêm khớp dạng thứ hai, rheumatoid arthritis (dạng này ở các khớp ngón tay, cổ tay, bàn chân, cổ chân, hông, xương sống và vai nhiều khi phải uống thuốc giảm đau và chống viêm). Bà Dalia chịu cơn đau thống khổ nơi các khớp, cột sống, xương chậu và phải uống thuốc chống đau nhức. Cho đến hôm bà đi tham dự một khóa thiền tại trung tâm chữa trị phối hợp đông tây, University of Marylands Center for Integrative Medecine, được chỉ dạy cho phương pháp thiền được gọi là Giảm Căng Thẳng Bằng Thực Hành Chánh Niện, Mindfulness-Based Stress Reduction (MBRS), bà khám phá ra một chân lý kỳ diệu: thay vì chống chỏi với sự đau đớn thì chỉ nhận diện nó, tiếp xúc với nó, biết nó rõ ràng thì cơn đau sẽ dịu lại.

Điều này đức Phật đã nói rõ là phải tiếp xúc với những cảm giác sướng, khổ hay trung tính (không sướng không khổ), cảm nhận tính chất rõ ràng của mỗi thứ. Thực hành sự chú tâm thoải mái, thấy biết rõ ràng là thực hành chánh niệm (mindfulness) thì tâm dần dần trở nên trong sáng, linh động, bén nhạy, tỉnh thức, thấy biết rõ ràng đồng thời không bị cảm giác sướng (lạc thọ) hay khổ (khổ thọ) trói buộc. Ngoài ra, khi tiếp xúc với cảm giác không sương không khổ (trung tính, bất khổ bất lạc thọ), còn gọi là xả thọ, thì tâm đi vào trạng thái vắng lặng nhanh chóng. Từ sự vắng lặng đó tâm mở rộng bao la. Trong không gian rộng lớn đó các nguồn năng lượng của sự thông minh, tình thương yêu trong sáng và niềm hạnh phúc bừng dậy.

Đức Phật đã nói rõ cách thực hành này cho quý Thầy trong kinh Tương Ưng Bộ như sau:

"Giống như giữa hư không,
Gió nhiều loại thổi lên,
Từ phương đông, phương tây,
Từ phương bắc, phương nam.
Gió có lạnh, có nóng
Gió có bụi, không bụi,
Có gió lớn, gió nhỏ,
Gió nhiều loại thổ lên.
Cũng vậy trong thân này,
Khởi lên nhiều cảm thọ,
Lạc thọ và khổ thọ,
Bất khổ bất lạc thọ.
Khi Tỳ Kheo nhiệt tâm,
Tỉnh giác không sanh ý,
Do vậy, bậc hiền giả,
Liễu tri tất cả thọ.
Vị ấy liễu tri thọ,
Ngay hiện tại vô lậu,
Thân hoại, bậc Pháp trú,
Đại trí, vượt ước lường."

Khi tiếpc xúc thoải mái với các cảm giác, trong đó có cơn đau nhức, thì thấu rõ bản chất của chúng chỉ là thuần túy năng lượng, không để sự ưa ghét ràng buộc, thì giải thoát ra mọi sự khổ đau và tâm đi vào trạng thái thỉnh thức, trong sáng, bén nhạy, rộng lớn và an lạc như lời của thiền sư Hoàng Trí trong bài thơ:

"Sương và trăng
Sao và suối
Tuyết trên rặng tùng
Và mây lững lờ trên rặng núi
Từ tăm tối chúng đều trở thành rực rỡ
Từ u ám chúng đều biến thành ánh sáng sáng lạn."
(Như Hạnh Dịch, Thiền Đạo Tu Tập)

Đó là cách mà bà Dalia Isicoff đã thực hành hàng ngày sau khi đã học thiền để làm cho các cơn đau nhức do chứng thấp khớp tạo ra dịu bớt xuống đồng thời chuyển hóa chúng và dùng cơn đau như một trợ duyên cho sự thực hành tốt hơn. Và sự thực hành Tứ Niệm Xứ này được áp dụng nhiều nơi để chữa trị rất nhiều loại bệnh tật từ thân tới tâm: Trường Đại Học Stanford có chương trình hướng dẫn bệnh nhân thực hành chánh niệm để thấu suốt tánh chất của các nổi sợ hãi bất an để điều trị, Trung Tâm Nghiên Cứu Sức Khỏe, Tôn Giáo và Tâm Linh, Center for the Study of Health, Religion and Spirituality của trường đại học Indiana State University nghiên cứu về ăn trong chánh niệm giúp giảm chứng béo phì do ăn thấy ngon và an bớt đi cũng như giảm sự uống rượu.

Đó là Thiền với Trăm Hoa Đua Nở, Trăm Nơi Thực Hành.

ĐÔI CÁNH THIỀN MỞ RỘNG TRONG KHOA HỌC

Nhiều trường đai học y khoa và các trung tâm chữa trị các loại bệnh tật chú trọng đến khả năng đóng góp vào sự chữa trị bệnh tật của thiền. Nhiều chứng bịnh có gốc rễ nơi tâm mà bác sĩ Herbert Benson nói trên cho biết có từ 60% đến 70%, hay có thể nhiều hơn nữa, người đi đến phòng mạch bác sĩ xin khám bệnh là do tâm sinh ra.

Ngày nay người ta còn nghiên cứu có phải các chứng bệnh béo phì, hiếm muộn, chứng bịnh đường ruột là do tâm sinh và cách ứng dụng thiền vào việc làm cho đời sống người phụ nữ mãn kinh được an lạc hơn. Tóm lại, đó là hàng trăm cuộc nghiên cứu ích lợi được đem ứng dụng vào nơi làm việc, trường học, nhà thương và các trung tâm giúp gia tăng sức khỏe tinh tần và thể chất.
 
 

Những trung tâm thực hành thiền để phát triển sức khỏe chỉ chú trọng cách thực hành thiền theo một phương pháp dễ dàng, cụ thể vào việc giúp cho bệnh nhân chóng lành bệnh và sống đời mạnh khỏe. Trung tâm khuyến khích thực hành chánh niệm để chữa trị bệnh tật Center for Mindfulness in Medecine, Health Care and Society thuộc trường đai học y khoa Massachusetts đã áp dụng cách thực hành do đức Phật dạy trên 2500 năm trước đây để chữa trị hầu như mọi thứ bệnh tật từ áp huyết cao, các chức đau nhức mãn tính, trầm cảm, béo phì đến các phản ứng phụ do sự chữa trị ung thư.

Trên 15, 000 người đã ghi tên tham dự khóa thực hành thiền trong 8 tuần lễ dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Kabat-Zin. Rất đông người khác đã tham dự chương trình tương tự tại nhiều trung tâm y khoa trên nhiều tiểu bang Hoa Kỳ với chương trình tương tự.

Trong khi ngồi thiền 45 phút, các thiền sinh được hướng dẫn cách ngồi, thở, nhận biết các ý tưởng xuất hiện trong tâm, nhận biết tính chất mỗi cảm giác mà không để tâm chạy theo những ưa ghét. Nói khác đi: an trú trong chánh niệm và sống thoải mái trong hiện tại.

Bên cạnh những trung tâm đặc biệt nói trên, nhiều trường đại học y khoa tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, cả trường đại học nổi tiếng Stanford cũng có chương trình hướng dẫn thiền cho sinh viên hay cho bệnh nhân.

Chúng ta nhấn mạnh đến cách thiền trong Phật Giáo vì ngày nay một vài nơi có cách thực hành thiền rất phức tạp và phải lệ thuộc quá nhiều vào người hướng dẫn nhưng không biết kết quả ra sao vì nhiều khi nhuốm quá nhiều màu sắc thần bí. Các nhà khoa học thì khác hẵn. Họ chọn lựa cách thực hành căn bản do đức Phật chỉ dạy là chú tâm thoải mái vào mỗi hơi thở vào, hơi thở ra, nhận biết các ý tưởng khi chúng xuất hiện và biến đi (đừng chạy theo chúng), các cảm giác sướng hay khổ mà không bị các phản ứng ưa hay ghét làm quên lảng hiện tại. Ngoài ra, khi đi, đứng, co tay, bước chân, mặc áo quần, nói tóm lại là mọi cử động chân tay cũng nhận biết rõ ràng qua sự chú tâm thoải mái hay chánh niệm. Đó là thực hành Tứ Niệm Xứ: Chú tâm thoải mái và thấy biết rõ ràng bốn lãnh vực là thân thể, cảm giác, tâm tư và đối tượng nhận thức. Và nhiều nơi, để tránh màu sắc tôn giáo, các nhà nghiên cứu hay hướng dẫn cũng không nhắc nhở gì đến người khai sáng lối thiền này: Đức Phật. Điều này chắc cũng làm đức Phật vui lòng vì đó là sự ứng dụng một đặc tính của thiền: Tính cách vô ngã của mọi thứ.

Thực hành nói trên không giới hạn trong ngồi thiền mà còn cả trong mọi hoạt động thường ngày. Đó là thiền hoạt động. Thực hành thiền tĩnh lặng hay thiền ngồi và thiền hoạt động đưa đến kết quả rất tốt đẹp trong việc chữa trị bệnh tật và đem lại hạnh phúc cho đời sống mỗi ngày. Đó là kết luận của các cuộc nghiên cứu của nhiều bác sĩ và chuyên viên y khoa trong đó có bác sĩ Herbert Benson, người đã làm nhiều cuộc nghiên cứu trên thân thể các thiền sư Tây Tạng tại vùng Hy Mã Lạp Sơn và mới nhất tại Pháp khi các vị thầy Tây Tạng thực hành thiền Tam Muội Hỏa: Ngồi 8 giờ đồng hồ ngoài trời buốt giá với tấm vải quấn mong manh trong nhiệt độ làm nước đóng băng.

KHÍ CÔNG TÂM PHÁP

Khí là chân khí vận chuyển trong thân thể để làm cho các bộ phận khỏe mạnh. Công là cách thực hành, cách vận động. Tâm là tánh thấy biết. Tánh thấy biết này khi có chánh niệm là tánh thấy biết chân thật, nếu không có sự chú tâm thoải mái hay chánh niệm để thấy biết rõ ràng thì tâm này là tâm mê mờ hay vô minh. Tâm chân thật là sự biểu lộ tự nhiên của tánh thấy biết chân thật còn được gọi là tánh giác hay Phật tánh. Khi nghe đến chữ Phật chúng ta thường có thói quen nghĩ đến một tôn giáo. Chữ Phật ở đây nói về một con người đã tỉnh thức, thấy biết rõ ràng qua sự thực hành chú tâm thoải mái vào bốn yếu tố: Thân (thân thể), Thọ (cảm giác), Tâm (các thứ tâm tư như vui-buồn, ưa-ghét, thương yêu-hận thù), Pháp (tánh chất thật sự của các thứ nhận biết đó). Biết rõ đước tướng của chúng như màu sác, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm và những thứ trong tâm đồng thời thấy được bản chất của chúng là như vậy, không bị ý tưởng hay tình cảm chủ quan của chúng ta sơn phết lên những màu sắc theo sự ưa ghét hay là theo kinh nghiệm trong quá khứ của mình.

Thực hành quen cách nhìn như vậy thì tâm chúng ta lắng dịu dần và mở lớn ra. Lúc đó chúng ta trực nhận (nếu trong thiền viện thì các thiền sư nhắc nhở) người thấy biết (như là chính mình) và đối tượng được thấy biết (như chiếc lá, vị chua của chanh) vốn không tách biệt, không đối nghịch nhau dù là cảm giác đau dớn, không phải là hai thứ riêng biệt. Trong không gian rộng lớn của tâm đó cùng có mặt rõ ràng, thoải mái, chân thật của chủ thể nhìn và đối tượng bị thấy: Đó là tính cách không hai hay bất nhị và nó bao trùm mọi sinh hoạt thân thể, cảm giác và tâm tư chúng ta từ khi sinh ra cho đến lúc chết.

Khí Công Tâm Pháp gồm ba bài tập:

1. Khí Công Thiếu Lâm dựa trên Ngũ Hành Tương Sanh: Các yếu tố nương tựa vào nhay mà tạo ra sức khỏe. Phần tập gồm 8 động tác vận động tay chân và thân thể để đưa năng lượng tốt hay chân khí vào các vùng tim, gan, tỳ, phế, thận, ruột non, ruột già, bao tử, bàng quan, bao tim, tam tiêu, gọi là lục phủ và lục tạng.
Tiếp theo là thế đặc biệt nhằm chuyển năng lượng lên trên để nuôi dưỡng bộ não và quân bình năng lượng thân trên và thân dưới, các thế làm cho bộ não gia tăng sức khỏe cùng ba thế vận nội lực để gia tăng chân khí cùng phân tán chân khí ra toàn thân.

2. Các thế tập Yoga gồm 6 thế chính làm cho gia tăng sức đàn hồi cũa gân và bắp thịt phối hợp với sự chuyển động lành mạnh của xương: Điều Chỉnh Thân Trước (15 động tác), Diều Chỉnh Thân Sau (4 động tác), Dũng Sĩ Đứng (22 động tác), Dũng Sĩ Bước Tới (8 động tác), Dũng Sĩ Quỳ ( 8 động tác) và Dũng Sĩ Ngồi (5 động tác).

3. Dưỡng Sinh Tâm Pháp gồm 8 thế tập rất nhịp nhàng phối hợp với lời niệm tạo ra một trạng thái thư giản thân và tâm để hệ thân khinh sản xuất ra các chất thần kinh dẫn truyền tốt như endorphine, serotonine và dopamine, v.v... là cho cơ thể và tâm thần cảm thấy phấn chấn, khỏe mạnh, vui sướng, trẻ trung, tích cực và yêu đời.
Tiến sĩ tâm lý học Phil, trong chương trình nổi tiếng của đài truyền hình ABC, Dr. Phil, Family First, trong tháng 9 năm 2004, đã trình bày một kết quả rất cụ thể là trẻ em khi biết cách thở sâu thì tâm thần lắng diệu, ít bị kích động và khi tập những động tác nhịp nhàng thì tỷ số thông minh IQ gia tăng nên học giỏi hơn. Điều này đã được bác sĩ Herbert Benson thuộc viện đại học Harvard xác nhận trong các tác phẩm về nghiên cứu về tương quan giữa sự thực hành thiền và sức khỏe.

Khí Công Tâm Pháp đáp ứng những điều nói trên. Các trẻ em từ 6 tuổi đến các cụ già 80 tuổi (trên thực tế có hai ông bà cụ người Hoa Kỳ 83 tuổi đang tập Khí Công Tâm Pháp tại Vista) thực hành đúng đều có kết quả tốt đẹp: Sức khỏe gia tăng, trí óc trong sáng, thông minh gia tăng, tình thương mở rộng, hạnh phúc và đời sống phát triển.

Mục đích của Khí Công Tâm Pháp là:

1. Vận động để cho 12 bộ phận trong người (lục phủ và lục tạng) hoạt động điều hòa, quân bình và khỏe mạnh.

2. Vận động để 12 hệ thống thân thể gồm hệ thống bắp thịt gân, xương, da, dinh dưỡng, bài tiết, tuần hoàn, hô hấp, tuyến nội tiết, miễn nhiễm, thần kinh, sinh sản và hệ thống kinh mạch được quân bình, điều hòa và khỏe mạnh.

3. Phối hợp thiền hoạt động và thiền tĩnh lặng tạo ra sự buông thư trong các hoạt động hàng ngày làm cho đời sống của chúng ta vui tươi, tích cực, mạnh mẽ, thông minh, hiểu biết và phát triển.
Đây là phương pháp thực hành toàn diện thân và tâm đưa đến trạng thái thân tâm nhất như. Từ đó chúng ta thấu rõ thân và tâm của mình là một thực thể mầu nhiệm biểu lộ thành các cử động thoái mái của tay chân cùng thấy nghe, cảm xúc trong một niềm vắng lặng rộng lớn, rực rỡ bao la của niềm hạnh phúc tỏa sáng kỳ diệu, nơi đó không có sự bắt đầu và tận cùng: Mỗi phút giây là thiên thu vĩnh cữu như sự cảm nhận của thi sĩ William Blake trong bài thơ Auguries of Innocence:

"Thấy vũ trụ trong một hạt cát
Và thiên đàn nơi một đóa hoa dại
Cầm vô biên nơi lòng bàn tay
Và vĩnh cữu trong một giờ ngắn ngủi."

-------------------

(Xin lưu ý: Quý vị nào muốn có dĩa DVD Khí Công Tâm Pháp xin liên lạc với Bác Sĩ Trịnh V. Chính, đ.t. số (714) 636-6804 hay bà Hạnh Nhơn, đt. Số (714) 539-3545.

Riêng quý vị ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, xin liên lạc với chùa Hoa Nghiêm (đ.t. số 703/781-4306 để dự khóa Khí Công Tâm Pháp từ ngày 1 cho đến ngày 5 tháng 12, 2004. Riêng các bạn hữu ở Pháp, xin liên lạc với Chị Tâm Đăng và bác sĩ Phạm Phi Long, để tham dự khóa Thiền và Khí Công Tâm Pháp tại Paris tư` 5 đến 7 tháng 5 năm 2005.

---------------------

Bài tiểu luận này được biên soạn theo các tài liệu trong các sách, tuần san, tạp chí và nhật báo sau đây:

The New York Time, September 14, 2003
Những bài viết của nhiều tác giả trong tuần san Newsweek, September 27, 2004
Sách: Thiền Luận, Trúc Thiên Dịch, xuất bản tại Việt Nam, không ghi ngày tháng
Thiền Đạo Tu Tập do tiến sĩ Như Hạnh biên soạn tái xuất bản tại Hoa Kỳ
Reversing Heart Disease do bác sĩ Dean Ornish biên soạn, Random House, New York, 1990
The Break Through Principle do bác sĩ Herbert Benson và William Proctor biên soạn, Scribner, New York, 2003



[ Trở Về ]