Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang Chủ]
Thiện Thông |
Đạo
hữu nghe được nhiều bài giảng Phật Pháp của Thầy thì
rất tốt, nhưng bên cạnh đó mình nên chọn cho mình 1 pháp
môn Tu để sau này mình được nhiều lợi ích hơn. Đồng
ý là nghe nhiều thì có trí huệ và Công Đức. Bên cạnh đó
nếu mà chỉ nghe mà không chọn pháp môn tu thì khó có thể
giải thoát khỏi sanh tử. Giống như 1 miếng bánh rất thơm
ngon nếu chỉ ngửi mùi thôi thì mình không biết vị ngon ngọt
thế nào, đến khi mình ngửi và ăn thì mới biết bánh đó
thật sự ngon như thế nào. Cũng vậy, nếu mình chỉ nghe Phật
Pháp mà không chọn pháp môn Tu thì cũng giống như ngửi bánh
ngon mà không được ăn vậy. Mình nên có Văn, Tu và Chứng.
Nếu chỉ có Văn (tức là nghe Pháp) mà không tu làm sao Chứng
biết được vị của Giải Thoát. Hồi đức Phật còn tại
thế, có 1 vị đệ tử là Ngài A Nan, Ngài nghe Phật nói Pháp
tới đâu là Ngài nhớ tới đó. Ngài là thị giả của đức
Phật bởi thế nghe rất nhiều về Phật Pháp. Nhưng khi Phật
còn ở trần thế, Ngài vẫn chưa tu giải thoát cho chính mình,
vì Ngài A Nan nghe nhiều mà không lo tu. Đến khi Đức Phật
qua đời, thì Ngài A Nan tinh tấn tu hành sau này mới chứng
quả Thánh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Có đệ tử Phật
lúc Phật còn tại thế, Ngài nghe Phật giảng 1 bài Pháp, sau
đó tu liền thời gian sau liền chứng quả vị Thánh trong hiện
đời. Bởi vây đạo Phật không chủ trương nghe Pháp để
giải trí hay nghe chơi cho vui hay nghe để lấp khoảng thời
gian trống. Đạo Phật chủ trương nghe Pháp để có trí huệ
và nương theo pháp môn Tu để tu thoát khỏi sanh tử. Nếu
mà chỉ nghe Pháp không mà không chọn cho mình pháp môn Tu hành
thì khó có thể thoát khỏi luân hồi đau khổ.
Theo đạo Phật, được thân người là rất khó, gặp được Chánh Pháp lại còn khó hơn, gặp Chánh Pháp mà tu theo được Chánh Pháp lại còn rất khó. Đạo hữu đã được nghe Thầy giảng thì đạo hữu cũng đã có nhiều duyên lành với Phật Pháp từ nhiều kiếp trước. Nếu mình có duyên lành thì mình nên bắt lấy cơ hội quý báo này để chọn cho mình pháp môn Tu để giải thoát sanh tử luân hồi. Sanh tử là khổ, chỉ 1 đời này mình gặp nhiều điều khổ, huống chi nhiều đời nhiều kiếp sanh đi tử lại thì cái khổ phải nói là rất khổ và rất nhiều. Nếu biết cõi đời này là Khổ (1), sao mình không tu chẳng lẽ mình thấy Khổ mà vẫn chui đầu vào, như thấy tối mà đi vào tối. Không phải đạo Phật nói Khổ để bi quan mà nói Khổ để cho mình thức tỉnh tìm cách giải thoát. Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết tới hay Vô Thường tới (không thường còn mà hay thay đổi), lúc đó đã quá muộn rồi. Cõi này Vô Thường: thân vô thường (sanh, lão, bệnh, tử), tâm vô thường (buồn, giận, thương, ghét...) và hoàn cảnh vô thường (thành, trụ, hoại, không). Thân này rất mỏng manh, nó ví như là bọt biển có thể vỡ bất cứ lúc nào. Người có trí huệ nên dùng thân giả tạm này như chiếc bè để tu hành qua đến bờ Giải Thoát. Đừng để cuộc đời mình trôi đi qua theo năm tháng già bệnh chết một cách uổng phí. Như có Thầy nói, người sống trăm tuổi không biết tu thì không bằng người sống 1 ngày mà biết tu. Đúng như vậy, sống trăm tuổi mà chỉ biết ham mê ngũ dục, ăn ngủ và dục lạc... Đến khi chết không biết đi về đâu hoang mang sợ hãi và khi chết rồi đi tái sanh lại còn khổ hơn. Sống như thế hiện tại không được an lạc mà tương lai mờ mịt, sống như thế không có ý nghĩa và lợi ích cho mình. Hiểu cuộc đời này là vô thường, thân này là giả tạm, luân hồi là đau khổ, cõi này là cõi khổ thì mình chọn cho mình 1 pháp môn tu liền ngay lập tức đừng để cái Chết hay Vô Thường đến trước khi mình bắt đầu tu? Vậy Tu như thế nào và tu theo pháp môn gì? Đạo Phật rất hay, hay ở chổ là nói Pháp cho mình có trí huệ và có duyên lành rồi sau đó mình tỉnh thức và nương theo pháp môn để tu. Pháp môn tu thì có rất nhiều gồm 84000 pháp môn. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của chúng sanh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp mỗi cá nhân. Tu đây không có nghĩa là bắt buộc phải Tụng Kinh, vào chùa cạo đầu. Mình tu tại gia thì mình tu theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Có nhiều pháp môn tu trong đạo Phật. Tùy theo căn cơ, trình độ, điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ (pháp môn niệm Phật). Sở dĩ pháp môn niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không giới hạn mình trong 1 khuôn khổ nhất định nào và dễ tu đạt nhiều lợi ích. Như tu theo Thiền, mình nên có thời gian và môi trường yên tĩnh. Như pháp môn niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là Vãng Sanh Cực Lạc. Muốn vãng sanh Cực Lạc gồm có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Như trong Kinh Phật A Di Đà, Phật Thích Ca nói cách đây mười vạn ức cõi Phật hướng về Phương Tây có 1 thế giới tên gọi là Cực Lạc, vị giáo chủ cõi Cực Lạc là Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp tại đó. Mình nên tin Phật Thích Ca nói vì Ngài không bao giờ nói dối và Ngài ra giới luật không nói dối cho đệ tử Ngài cũng như hàng xuất gia và tại gia. Mình chưa có khả năng thấy biết được Thê Giới Cực Lạc và Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực Lạc, nhưng qua khả năng thấy biết của Thích Ca Mâu Ni Phật và Ngài nói lại mình nên tin như thế. Như trước đây khi không có kính thiên văn, người ta nghĩ chỉ có 1 trái đất này tồn tại, nhưng sau thời gian nhà khoa học khám phá ra được ngoài trái đất này (hay là cõi này) có rất nhiều hành tinh khác nhau. Cách đây hơn 2500 năm, đức Phật đã nói có nhiều cõi nước khác nhau trong vũ trụ này bởi vậy Phật đã nói đúng với khoa học. Thứ nhất tu theo pháp môn Tịnh Độ phải có Tín. Bất cứ tu theo pháp môn nào cũng đòi hỏi Tín nếu không tin làm sao tu theo được. Tin vẫn là căn bản thiết yếu trong hết thay mọi pháp môn tu. Tin là mẹ đẻ ra tất cả những Công đức. Vậy người tu Tịnh Độ nên tin những gì: Tin có Phật A Di Đà, tin có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, tin Nhân Quả, Tin rằng kiếp sống này ngắn ngủi mạng người như hơi thở ra vào, tin 48 (2) lời nguyện của Phật A Di Đà là hoàn toàn chân thật Thứ 2 là phải nên có Nguyện, nếu không có Nguyện làm sao Vãng Sanh Cực Lạc được. Giống như người đi từ điểm A tới điểm B, nếu người đó nói Tôi muốn đi tới điểm B mà tâm ý không muốn đi tới điểm B thì không bao giờ tới được. Khi mình có Nguyện thì Phật A Di Đà có tha tâm thông (3) mới biết mình muốn Vãng Sanh Cực Lạc thì Ngài mới giúp mình Vãng Sanh được. Mình vẫn còn là phàm phu không có khả năng vãng sanh được nhưng nhờ có Phật Lực giúp cho mình Vãng Sanh. Đạo hữu nên Nguyện như thế này: Nam Mô A Di Đà Phật, con tên gì...sanh năm mấy...bao nhiêu tuổi...con nguyện vãng sanh Cực Lạc sau khi con bỏ thân mạng này. Nguyện nhiều hay ít hoặc nguyện 1 hay 2 lần cũng được tùy theo mỗi người và Đạo hữu nguyện trong tâm hay nguyện ra tiếng hay đứng trước hình Phật hay không đứng trước cũng được. Tại sao mình phải nguyện về Cực Lạc, Cực Lạc là gì? Cực nghĩa là rất, Lạc là vui. Cực Lạc là rất vui. Trong Kinh Phật A Di Đà có nói đến đoạn "Tại sao gọi là Cực Lạc? Vì cõi đó không có những sự đau Khổ chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi". Vui sướng đây không có nghĩa là Vui sướng với dục lạc, ngũ dục hay vui tạm bợ của thế gian...Vui sướng đây là vui được thường nghe Phật Pháp, vui không phiền não, vui không già, bệnh, chết, vui không đau khổ, vui được bực Thượng Thiện Nhân (Bồ Tát) được ngồi chung nghe Pháp, vui với Công Đức Trang Nghiêm của Cực Lạc và không có những điều Khổ và không có những tiếng Khổ và không có những điều ác và những điều vui khác...Bởi thế nên Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc để được nhiều lợi ích cho chính mình. Thứ 3 là nên có Hạnh tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Trì đây có nghĩa là mình nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều mỗi ngày tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có nhiều cách: hoặc là trì Nam Mô A Di Đà Phật ra tiếng, hoặc trì thầm, hoặc lần xâu chuổi hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trong tâm... Cách nào cũng được miễn sao phù hợp với khả năng và hoàn cảnh mỗi người. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì cũng trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được. Như trong Kinh A Di Đà có nói "Nếu có chúng sanh nào nghe nói về Đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc 1 ngày, hoặc 2 ngày, hoặc 3 ngày, hoặc 4 ngày, hoặc 5 ngày, hoặc 6 ngày, hoặc 7 ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà". Nếu muốn niệm Phật được sớm Nhất Tâm Chẳng Loạn thì nên trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật không xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm Phật không nên để vọng tưởng xen vào, niệm Phật với tâm thanh tịnh thì được phẩm vị Vãng sanh cao (4). Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật còn nói "Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ". Bởi thế mình tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ. Theo như Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói "Vãng Sanh Cực Lạc thì không còn ở địa vị phàm phu thân xác ngũ uẩn nữa" (tức là thoát khỏi sanh tử luân hồi). Vãng Sanh Cực Lạc mình được rất nhiều lợi ích là chứng được quả vị Bất Thối Chuyển (không còn thối chuyển ở quả Vị Phật), thọ mạng lâu dài sống rất lâu (trích trong Kinh A Di Đà), không phiền não, bệnh, già, chẳng những thế mà không khổ còn hưởng những điều vui, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành tiến tu lên tới quả vị Thánh. Khi mình tu hành lên tới quả vị Bồ Tát, nếu mình tu tiếp lên tới quả vị Phật, mình phải trở lại những Cõi, độ giúp những chúng sanh khác giải thoát. Bồ Tát lấy lợi ích cho chúng sanh làm sự nghiệp của mình. Bởi thế Bồ Tát muốn thành Phật thì phải độ giúp rất nhiều chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đới nghiệp vãng
sanh là vãng sanh mang theo nghiệp nghĩa là mặc dù mình có Nghiệp
(Nghiệp Thiện hay Ác) nhưng mình vẫn được vãng sanh. Không
có nghĩa là mình tạo tội hay điều ác mà mình tránh được
Quả Báo. Nhân Quả thì đúng ba đời Quá Khứ Hiện Tại Và
Vị Lai không sai. Mình vãng sanh cõi Cực Lạc thì không lãnh
Quả báo nhưng khi mình ở quả vị Bồ Tát trở lại độ
giúp chúng sanh thoát khổ, lúc đó Quả Báo từ nhiều kiếp
trước của mình đến với mình. Lúc đó mình có năng lực
lãnh Quả báo 1 cách an nhiên, chứ mình không đau khổ lãnh
Quả báo như còn phàm phu. Còn những tập khí: tham, sân, si,
mạn, nghi, ác kiến...Những tánh xấu đó khi mình Vãng Sanh
Cực Lạc mình sẽ tiêu trừ nó lần lần đến diệt đi. Mình
Vãng Sanh Cực Lạc thì mình có nhiều cơ hội điều kiện
tốt để diệt trừ đi những tâm xấu của mình. Nếu nói
như thế thì những người ác nếu Vãng Sanh Cực Lạc thì
cõi đó sẽ trở nên phức tạp sao? Không. Người ác nếu
mà hồi đầu mà tu theo pháp môn Tịnh Độ, nếu có Tín Nguyện
Hạnh, hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trước khi lâm
chung đủ 10 niệm. Thì người đó vẫn được vãng sanh nhưng
mà ở phẩm vị thấp. Nếu ở phẩm vị vãng sanh thấp thì
hoa sen rất lâu nở và lâu thấy cõi Cực Lạc. Khi hoa sen nở
sẽ thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát hay Đại Thế Chí Bồ
Tát thuyết pháp cho chúng sanh đó nghe. Còn những chúng sanh
nào mà tội ít, làm lành nhiều, niệm Phật nhiều thì hoa
sen của người đó mau nở và mau thấy được cõi Cực Lạc.
Đặc điểm của
Pháp môn niệm Phật là: tự tha và lợi tha. Tự tha là tự
nỗ lực chính mình tu hành trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Còn lợi tha nghĩa là nhờ Phật Lực giúp mình được Vãng
Sanh Cực Lạc. Không như pháp môn Thiền, chỉ có tự tha mà
không có lợi tha nghĩa là tự khả năng mình tu hành mà không
có lợi tha.
Khi mình tu theo pháp môn niệm Phật, khi cái chết đến với mình mình không hoang mang, lo sợ hay đau khổ vì mình biết hướng đi của mình, mình biết sẽ về đâu vì có sự giúp đỡ và sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà để giúp mình Vãng sanh Cực Lạc thì mình không còn gì phải lo sợ. Còn nếu mình không biết tu, khi cái chết đến mình rất hoang mang, đau khổ, hoặc mình thấy những oan hồn oan gia trái chủ đến đòi nợ, và mình thấy những tội ác mình làm trước và thấy những cảnh ghê sợ hiện đến và sự đau đớn của thể xác sắp tan ra trong nội tạng. Sau khi chết mình bị Nghiệp (5) (là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý) dẫn đi luân hồi sanh tử, và thần thức (hay linh hồn) không biết sẽ tái sanh đi đâu và không biết có vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ Quỷ và súc sinh) hay không. Mình không định hướng cho mình đi tái sanh, chỉ có Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác của mình quyết định hướng tái sanh cho mình. Có 4 Nghiệp sẽ tác động đến khi luân hồi là: Cận Tử Nghiệp (Nghiệp trước giờ lâm chung, nghiệp xấu như giận dữ ...), Cực Trọng Nghiệp (Nghiệp rất nặng: như giết cha mẹ...), Thường Nghiệp (nghiệp tốt hay xấu mình làm thường trong khi còn sống), và Tích Lũy Nghiệp (Nghiệp nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ). Thầy có nói là mình là chủ nhân của Nghiệp và mình cũng chính là thừa tự của Nghiệp. Mình tạo Nhân gì thì mình gặt Quả đó không trốn chạy đi được. Mình tạo Nhân tốt, được Quả tốt, mình tạo Nhân xấu, được Quả xấu. Như Phật nói khi Quả đến cho dù mình có chui vào hang, trốn trong lòng đất cũng không thoát khỏi cái Quả. Nhân Quả là đúng ba đời (Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai). Bởi thế khi sắp lâm chung Nghiệp sẽ quyết định ta luân hồi vào cõi tốt hay xấu. Bởi thế sanh tử luân hôi là rất nguy hiểm và đau khổ. Bởi thế lúc còn sống mình nên tạo Thường Nghiệp tốt như trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là một ví dụ để trước khi chết mình có Cận Tử Nghiệp là vẫn niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì khi lâm chung mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc. Khi còn sống nếu không tạo Thường Nghiệp tốt tức là không trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, trước khi lâm chung rất khó khăn trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ...) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Mình còn sống thì nên chuẩn bị Thường Nghiệp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cho nhiều để mình tạo thói quen và tạo cái Lực thật mạnh, để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dể dàng. Đạo hữu nên tin
những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia và tu
theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện
và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm
rồi. Tôi không nói dối gì cả, tôi đọc nhiều Kinh Phật,
sách Phật Pháp cũng như xem nhiều tài liệu Kinh Phật về
pháp môn Tịnh Độ, và qua đó nghe nhiều bài giảng của Thầy
về Phật Pháp và pháp môn Tịnh Độ. Nếu đạo hữu muốn
tìm hiểu thêm về pháp môn Tịnh Độ cũng như tìm hiểu thêm
về Công Đức Trang Nghiêm của cõi Cực Lạc, 48 lời nguyện
của Phật A Di Đà, nói Tín, Nguyện và Hạnh, hay tả về cõi
Cực Lạc rất đẹp và vi diệu như thế nào thì có thể tìm
đọc: Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô
Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ. Đó là 4 Kinh Phật chính
nói về pháp môn Tịnh Độ (hay pháp môn niệm Phật) qua đó
có thể tham khảo thêm. Hoặc có thể nghe những bài giảng
của Thầy về Pháp môn Tịnh Độ và xem đĩa của những người
vãng sanh hoặc đọc sách của Cư Sĩ Tịnh Hải biên soạn
(có nhiều hình ảnh lưu xá lợi của những người đã vãng
sanh và có những câu chuyện thật của những người vãng
sanh).
Mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là mình có rất nhiều thiện căn phước đức từ nhiều kiếp trước. Nhiều kiếp trước mình đã gieo duyên lành nhiều với Phật Pháp, tạo Nhân tốt nhiều và tu hành nhiều. Nên nay mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và được trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đây là Quả thoát khỏi sanh tử luân hồi sau khi bỏ thân mạng này là điều tất yếu. Bởi thế mình nên nắm lấy Quả tốt này đừng nên phân vân để rồi Cái Chết đến với mình và mình mất duyên thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đừng nghĩ đợi kiếp sau mình sẽ gặp Phật Pháp rồi mình tu hành thoát khỏi sanh tử luân hồi sau. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi. Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ. Nếu có người hỏi tại sao Phật A Di Đà không tiếp dẫn tất cả những chúng sinh? Phật A Di Đà muốn tiếp dẫn tất cả những chúng sinh, nhưng chúng sinh đó phải có duyên với Ngài. Không có duyên Ngài không độ giúp được. Nếu người ta không muốn về mình không bắt ép người ta được, như thế dẫn đến hậu quả không tốt. Người đó không nguyện vãng sanh Cực Lạc thì làm sao đưa người đó về Cực Lạc được, họ vẫn còn si mê cho rằng cõi này vui và họ còn tham chấp yêu thích cõi Khổ này và họ không muốn vãng sanh. Và có người họ không biết pháp môn Tịnh Độ thì làm sao họ nguyện mà về được. Không phải họ không muốn biết và tu theo pháp môn Tịnh Độ, mà họ không có duyên lành với Phật Pháp và họ không có thiện căn phước đức để có duyên gặp pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, mình có duyên gặp được pháp môn Tịnh Độ này là mình có duyên lành tốt và thiện căn phước đức nhiều. Nay mình nên tạo duyên với Phật A Di Đà bằng cách tu theo pháp môn Tịnh Độ và có đầy đủ Tín Nguyện và Hạnh (tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật), thì chắc chắn mình được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này. Luân hồi sanh tử
khổ đau
Tịnh Độ là dứt
luân hồi đau khổ
Chú thích: (1) Khổ: có 8 cái khổ là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ (người mình thương xa cách là khổ), oán tắng hội khổ (kẻ thù gặp nhau là khổ), cầu bất đắc khổ (cầu muốn điều gì mà không được là khổ), năm ấm hưng thạnh là khổ. (2) 48 lời nguyện: tức là 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo trong quá khứ, nay là Phật A Di Đà. 48 lời nguyện của Ngài là tạo nên cõi Cực Lạc hiện nay và nguyện tiếp dẫn những chúng sanh mười phương chí tâm, tin, ưa muốn vãng sanh cõi Cực Lạc và niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà đã thành tựu và Ngài đã thành Phật đến nay đã được 10 kiếp. (3) Tha tâm thông: khả năng biết tâm chúng sanh muốn gì, suy nghĩ gì, nguyện gì... (4) Phẩm vị vãng sanh: Cõi Cực Lạc có 9 phẩm vị vãng sanh: Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ, Trung Thượng, Trung Trung, Trung Hạ, Hạ Thượng, Hạ Trung va Hạ Hạ. (5) Nghiệp: là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý. Nghiệp có hai loại: Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện là hành động tạo tác thiện của thân, khẩu và ý. Nghiệp Ác là hành động tạo tác ác của thân, khẩu và ý |
[ Trở Về ]