Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Home Page]
|
"Sakyadhita," "Những người con gái của Ðức Phật," tên của Hội Phụ Nữ Phật Giaó Thế Giới, những phụ nữ Phật giáo (gồm có cả hai giới: xuất gia và tại gia) trên khắp thế giới (hơn hai mươi nước ở Châu Á, Châu Aâu và Châu Mỹ ) hòa hợp tương thân tương ái thực hành lời Phật dạy để tự độ và độ tha. Mục tiêu của hội hướng đến là:Tạo sự thông tin với tất cả Phụ Nữ Phật Giáo trên thế giới.Hội Phụ Nữ Phật Giáo Quốc Tế này thành lập tại Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodhgaya), Ấn Ðộ, vào tháng hai, 1987. Hội nghị bầu bà Ranjani de Silva (người Tích Lan) trong cương vị chủ tịch điều hành ; cô Koko Kawanami (Người Nhật) là phó chủ tịch hội. Ni sư Karma Lekshe Tsomo (người Mỹ tu theo Phật Giaó Tây Tạng) nhận trách vụ tổng thư ký hội; và thủ quỹ là bà Gabriela Kuestermann (người Ðức).
Hòa hợp các truyền thống Phật giáo.
Ðào tạo ni tài và nữ Phật tử trí thức trong việc hoằng pháp.
Truyền trao giới pháp cho ni giới.
Nghiên cứu kinh điển và những vấn đề liên quan đến người nữ trong Luật tạng.
Thực hành những lời dạy của của Phật cho thế giới hòa bình.Lần thứ hai, hội được tổ chức vào tháng 10, 1991 tại Bangkok, Thái land.
Lần thứ ba vào tháng 10, 1993 tại Colombo, Srilanka với chủ đề "Phụ Nữ Phật Giáo trong Xã Hội Hiện Ðại"
Lần thứ tư vào tháng 8, 1995 tại Ladakh, Aán Ðộ với chủ đề "Phụ Nữ, Từ Bi: Sự sống của thế kỷ 21."
Lần thứ năm hội được tổ chức vào 29 - 12 - 1997 đến 4-1-1998 tại Phnom Penh, Cambodia.
Thành viên của Hội vào khoảng 130. 000. 000 vị, hơn 60. 000 vị: Ni trưởng, Ni sư, và sư cô. Phải nói rằng đây là tiềm lực vô cùng hùng hậu của những người con gái của đức Phật hiện tại đang dấn thân vào việc bảo vệ thế giới của chúng ta, không chỉ về tinh thần mà còn cả các mặt: kinh tế, xã hội, thương mại nữa v. v. . . Nếu tiềm lực nầy được đặt đúng vị trí của nó thì có thể mang lại lợi lạc cho bản thân người phụ nữ và nhân loại.
Một tờ tạp chí tựa đề "Sakyadhitta Newsletter" không chỉ giới hạn trong việc truyền bá giáo lý mà còn cung cấp các thông tin mới nhất về những điều liên quan đến người phụ nữ Phật giáo nói riêng và phụ nữ thế giới nói chung. Ðể mở rộng phạm vi hoạt động của hội và tạo sự giao lưu khắp các nước trên năm châu cũng như mỗi năm hai lần hội đều tổ chức thu nhận thành viên mới. Mỗi thành viên tự góp 30 đô Mỹ mỗi năm, riêng sinh viên hoặc người chưa có việc làm thì chỉ góp 15 đô Mỹ mỗi năm mà thôi.
Ðịa chỉ liên lạc như sau:
Sakyadhita Website address: http://www2.hawaii.edu/~tsomo
Hội Nghị Phụ Nữ Phật Giáo Thế Giới lần thứ sáu tổ chức từ ngày 1-2-2000 đến 7-2-2000 tại Lumbini, Nepal với chủ đề "Phụ Nữ, ngươì mang lại Hòa Bình: cho chính mình, cho gia đình, cho xã hội và cho thế giới".
Hơn 200 thành viên gồm nhiều Ni trưởng, Ni sư, Sư cô và Phật tử ở các nước như Uùc, Mỹ, Ðức, Canada, Bangladesh, Bhutan, Cam pu chia, Trung Hoa, Aán Ðộ, Nhật, Ðại Hàn, Mông Cổ, Miến Ðiện, Tân Tây Lan, Nepal, Thái Lan, Việt Nam . . . về tham dự. Chúng tôi, tám ni sinh và một phật tử Việt nam đang du học tại Ấn độ cùng hòa với niềm vui đại hội trong những ngày đầu thiên niên kỷ nầy.
Ðại Hội tổ chức tại chùa ni Kiều Ðàm Di (International Goutami Nun 's Temple), Lumbini; cách nơi Ðức Phật đản sanh khoảng hơn 1000 mét. Tờ "The Kathmandu Post "ngày 31-1-2000 cho biết Hội Phụ Nữ Phật Giáo Thế Giới - Sakyadhita và Dharmakirti Vihar tài trợ tất cả kinh phí của đại hội lần thứ sáu này.
Chương trình đại hội (từ 1-2 đến 7-2 - 2000) như sau:
Sáng 7 giờ đến 8 giờ ngồi thiền.Anh ngữ được chọn làm ngôn ngữ chính của đại hội; và được dịch ra tiếng Tây Tạng cho đa số sư cô và Phật tử Tây Tạng.
8 đến 9 giờ điễm tâm.
9 đến 11:30 thuyết trình;
Ngọ trai.
Chiều 1 đến 4 giờ thuyết trình.
4 đến 5 giờ tiểu thực.
5 đến 6 giờ tụng kinh (mỗi nước thay nhau lên tụng kinh điển của nước mình để cúng dường chư Phật và đại chúng).
6 đến 7 giờ tối là giao lưu văn hóa (chiếu phim, hoặc văn nghệ ca hát. . . )Nội dung thuyết trình rất phong phú. Từng ni sư đại diện cho Ni giới nước mình phát biểu và đọc tham luận giới thiệu về Phật giáo và Ni giới. Sư cô Thuần Ðịnh giới thiệu người Phụ Nữ và Ni Chúng Việt Nam trong thời hiện đại.
Ngoài ra một số Phật tử thuyết trình trình bày những suy tư của mình trước vấn đề người phụ nữ trong xã hội hiện tại cũng như vai trò của người Phụ nữ trong việc cải tạo môi trường môi sinh và xã hội, đặc biệt cô Enit giới thiệu về "Phụ nữ Phật Giáo ở Uùc "; Cô Marlies Bosch thuyết trình về "Sức mạnh tập thể "Bà Marlies Bosch trình bày "Người nữ lảnh đạo như một người trí tuệ để đối phó với tình cãm và quyền lực."Cô Katherine Bokowski đã thuyết trình về "Những tục lệ bất bình đẳng trong cộng đồng Phật giáo và Do Thái ở Tân Tây Lan "Cô Elise A. Devido cũng giới thiệu về ni chúng Taiwan. Hiện nay số lượng ni chúng đã gấp ba lần số lượng tăng chúng trong tăng đoàn Phật giáo ở Taiwan, và gần như đông nhất thế giới. Ða số ni chúng có trình độ cao về đạo học lẫn thế học và trở thành lực lượng hùng hậu trong việc tham gia vào các chương trình xã hội như văn hóa, giáo dục, cứu trợ, nghi lễ, hoằng pháp. . . Quý ni sư đã được mọi giới kính trọng và đóng một vai trò chính trong sự nghiệp "hoằng pháp gia vụ, lợi sanh đạo nghiệp" của Phật giáo ở Taiwan trong những thập kỷ gần đây. . . ; Ni sư Lozang Trinlac Drolma thuyết trình về đề tài "Phụ nữ lãnh đạo phụ nữ " Cô Shirley June Johannesen, một phật tử sống tại Canada, với đề tài "Gia Ðình, sự tu tập pháp môn tỉnh thức" cho biết trong thời gian tu tập pháp môn Vipassana, cô thật sự an lạc, cô muốn mọi người cùng thực hành để được an lạc trong cuộc sống. Cô thực hiện nhiều cuộn băng video về thiền quán hơi thở như: Buông xả, Thở, Nghỉ, Tĩnh thức. . . Cô Susan Murcott trình bày về "Phụ nữ Nepal và vấn đề nước uống" Tiến sĩ Trina Nahm - Mijo, trưởng phân khoa khoa học nhân văn và xã hội ở trường Cao Ðẳng Cộng Ðồng ở Hạ Uy Di đã thuyết trình đề tài "Từ Bi."Bà đưa ra 10 điều từ bi cho thiên niên kỷ mới này là: Tôn trọng đời sống gia đình; Gia đình hạnh phúc; Ấm no; Xóa nạn mù chữ; Ma túy Phá thai; Xóa bỏ hận thù; Không tham nhũng; Tiềm năng; Kinh tế tự lực; Bảo vệ môi trường. Cô Marjo Oosterhoff noí về "Giá trị và Y ứNghĩa của việc thọ giới."Cô Sara Shneiderman trình bày về "Lịch sử Phụ Nữ Phật Giáo ở Mustang, Tây Tạng."Cô Serra Sippel bàn về vấn đề "Sinh con và giới tính."
Ngoài ra có một nam bác sĩ Chandresh Ratna Tuladhar , người Nepal đã học 10 năm ở Liên Sô và tốt nghiệp Bác sĩ ở đó. Ông đã làm việc ở bịnh viện Kathmandu cũng như ở ba bịnh xá của các tu viện từ năm 1988 đến nay. Bác sĩ cũng là người phụ trách y tế cho đại hội lần thứ sáu này. Trong bài thuyết trình của mình , bác sĩ đã đề cập đến vấn đề sức khỏe của các em gái Nepal.
Ni trưởng Dhammavati trình bày đề tài "Ðời sống phụ nữ Phật Giáo ở Nepal" Ni sư Sujata (người Nepal) với bài thuyết "Dạy giáo lý cho các trẻ em ở những làng Nepal."Ni Sư Wun Weol (Ðại Hàn ) thuyết trình "Ðời sống ở tu viện Ðaị Hàn" Ni trưởng Kusuma (Người Tích Lan ) trình bày luận văn tiến sĩ của mình với đề tài "Những nghiên cứu mới về Luật Tỳ Kheo Ni. "Ni Sư Karma Lekshe Tsomo (Thư Ký của Hội Sakyadhita) thuyết trình về đề tài "Gia đình, Tu viện, và Giới tính ."
Sau những bài thuyết trình về Yoga, thuyết trình viên yêu cầu tất cả đại hội tham gia thực tập yoga để nhận ra sự thiết thực của nó. Và sau những bài thuyết trình về tư tưởng, người thuyết trình yêu cầu đại hội vẽ tư tưởng của mình lên trang giấy được phát đến từng nhóm. Thật vui làm sao khi nhìn thầy hàng trăm ngưòi con gái của Phật cặm cụi vẻ lên những bức tranh của chính mình. Có những bức tranh vẽ lên những người con gái của hội Sakyadhita tay nắm tay trong một vòng tròn thế giới lớn; có những bức tranh chứa chan đạo tình với những tịnh thất đơn sơ bằng tranh nhỏ, xinh xắn nằm trên đồi thông, lãng đãng có chiếc lá rơi, có vài ni cô nho nhỏ cắp sách đến trường, khi ông mặt trời mới vừa ló dạng; Có những bức tranh hồng lên những trái tim đầy nhiệt huyết của các thành viên đang móc vào nhau thành một tràng hoa tim nóng hổi cúng dường lên mười phương chư Phật. . . Ôi! muôn màu muôn sắc dễ thương vô cùng.
Ngoài ra, còn có những buổi thảo luận về thiền định cho từng nhóm 10 ngươì . Phụ trách cho chương trình này là các thiền sư (xuất gia và tại gia) từ các nước như Nepal, Canada, Thụy Sĩ, Miến Ðiện, Tích Lan, Nhật, Úc, Ðại Hàn. . .
Trước khi bế mạc, toàn thể đại hội được yêu cầu viết lên những dòng cảm tưởng của mình và ý kiến đóng góp cho đại hội. Nội dung của những cánh én tư tưởng đang bay về dưới nắng ấm mùa xuân của Ðại hội trên đất Phật Nepal được đọc lên trước đại hội như là: Hội Sakyadhita nên phát triển rộng hơn nữa, hãy đến với tất cả mọi người, với tất cả mọi tầng lớp, với tất cả mọi địa phương, hãy vươn đôi tay rộng hơn nữa với những phương tiện thông tin hiện tại, với mạng lưới internet, với báo hàng tháng với mọi ngôn ngữ nhất là ở Á châu. . . ; nào là hãy cùng hội dấn thân vào các họat động xã hội với những trung tâm bảo vệ sức khỏe, với các trung tâm giáo dục, nông nghiệp (kinh tế tự lực ), nhất là thiền định và truyền trao giới pháp cho ni giới; Có những cánh én cao hơn với đề nghị mở trung tâm tu học cho ni chúng và cho phật tử nữ; Có những có dòng tư tưởng thiết tha hơn cho rằng hãy tự tin vào phụ nữ và thành lập một "ni đoàn"thống nhất ni giới trên thế giới, đề nghị với đại hội giúp đở ni chúng và ưu bà di trên thế giới hơn nữa, bởi vì cùng là những phụ nữ; hãy dẹp bỏ tất cả phiền não: tật đố, kiêu mạn, ghen ghét. . để đến với nhau; hãy cùng nhau tin yêu và sống hòa hợp, Có những lời chân tình yêu cầu hội tổ chức phiên dịch những bài giảng ra nhiều ngôn ngữ; mời nhiều nữ giảng sư, giáo sư nổi tiếng trên thế giới tham gia hội Sakyadhi với mục đích truyền bá những lời dạy của Phật đến với tất cả mọi người. Có cánh én Việt nam yêu cầu hội Sakyadhi lần thứ bảy tổ chức tại Việt Nam làm cho đại hội được một trận cười hoan hỷ và vui vẻ. Sau ý kiến ấy mọi người bỗng cùng gợi ý Hội Sakyadhita lần thứ bảy năm 2001 nên tổ chức tại Miến Ðiện, Lần thứ tám năm 2002 nên tại Taiwan, lần thứ chín năm 2003 tại Việt Nam, năm 2004 tại Aán Ðộ, năm 2005 tại Mỹ nhưng quyết định cuối cùng vẫn chưa biết ra sao.
Chiều 7-2-2000 bế mạc chương trình hội nghị. Ngày 8-2-2000 Hội Sakyadhita tham quan Lumbini - Nơi Ðức Phật đản sanh; Thành Ca Tỳ La Vệ - Nơi Thái Tử Tất Ðạt Ða đã trưởng thành; Niglihawa và Taglihawa. Ngày 9-2-2000 Hội Sakyadhta lên đường trở về thủ đô Kathmandu,Nepal. Ngày 10 -2 Hội tham quan đền thờ Swayanbhu nằm trên một ngọn đồi cao tại thung lũng Kathmandu. Ðây là một trong những ngôi đền lâu đời nhất của thế giới. Khởi hành vào sáng ngày 10-2, ngày lễ Basauta Pauchami (lễ mùa xuân đến), hằng ngàn học sinh, sinh viên tham quan với niêm tin lên núi ngày này viết tên mình trên thành bờ tháp thì sẽ được một vị thần Học Thức gia hộ học giỏi, thi được điễm tốt. Thật là vui khi nhìn thấy lố nhố bao sĩ tử lớn nhỏ trông rất thư sinh chen nhau viết tên mình lên tường tháp; có cả em bé nhờ mẹ bồng lên nắn nón viết tên tấu trình lên thần, để được đổ trạng. . . . Trưa xuống núi nghỉ ở ngôi chùa ni Tây Tạng "Keydong Thukche Chouling "chúng tôi dùng trưa với bánh mì sandwich. Chiều lại viếng đền thờ Boudhanath, một ngôi đền lớn hình tròn, màu trắng như tháp Hòa Bình của Nhật, trên đỉnh, mỗi phương có mỗi đôi mắt Phật đang từ bi nhìn xuống chúng sanh trong kiếp luân hồi; Xa xa rặng Hi Mã Lạp Sơn phủ tuyết trắng xóa tuyệt đẹp. Xung quanh tháp là ngôi chợ bán đầy đủ đồ cho khách chiêm bái.
Ngày 11-2- viếng thăm thành phố Patal, một trong ba thành phố chính của Nepal: Kathmandu, Patal và Bhaktapur. Nơi đây, có cung điện xưa và ngôi đền vàng Hranyan Varna Mahavihar, bên trong thờ tựơng Phật có một viên kim cương lóng lánh lớn được gắn giữa trán. Chúng tôi viếng trường mẫu giáo và tiểu học Giác Ngộ do ni sư Nyanawati thành lập. Thật vui làm sao khi thấy những nụ cười vui vẻ, hồn nhiên của các bé thơ ngây ngô đáng yêu. Trưa ấy, buổi cơm thật ngon miệng với khẩu vị giống như Việt Nam. Chiều ấy, đoàn đến tham quan chùa Kopan của chư tăng Nepal tu theo Phật Giáo Tây Tạng nằm trên một ngọn núi cao. Chùa thật lớn và khá đẹp nằm giữa một không gian thật hữu tình của cảnh non nước mây trời thiên nhiên. Ðây cũng là một điễm thu hút khách du lịch. Rời chùa chúng tôi xuống chừng một cây số đến chùa ni Kopan Khachoe Ghakyil Ling, nơi ấy có hơn 250 ni chúng Nepal đang tu học theo Phật giáo Tây Tạng.
Ngày 12-2-2000, chúng tôi viếng thăm thành phố cổ Bhaktapur nằm cách Kathmandu khoảng 12 cây số. Ðến thành phố nầy bỗng nhiên tôi tưởng như đang ở thành phố Hội An (Ðà nẵng) ở quê nhà. Nơi đây, nhà cửa cũng san sát nhau cao và củ ky; Ðường nhỏ và sâu hun hút, Trang phục của người dân hầu như còn giữ nguyên những nét cổ sơ của người chưa từng biết thế giới hiện đại. Chúng tôi viếng thăm một cung thành cổ xưa còn in nét thời gian lên tường thành rêu phủ. Trưa đó, chúng tôi dùng cơm tại một nhà hàng Nepal, không hiểu sao mà giống cơm Ấn quá, nhưng chúng tôi cũng ráng cho vào bao tử rỗnh tếch của mình. Chiếc xe đưa chúng tôi đi bắt đầu leo lên những đoạn đường đèo hiểm trở nhất; một bên là vưc thẫm, một bên là thành núi cao sừng sững. Ðường béxíu quanh co lồi lõm ổ gà khi cả đà điểu, làm cho chiếc xe nhiều lúc nghiêng tới nghiêng lui dường như muốn đổ. Ngồi trên xe ai nấy điếng hồn, quý ni cô Campuchia tụng kinh cầu an liên tục vang rộn cả xe, có người hoảng quá xin đi bộ. . . . . nhưng cuối cùng thì cũng leo được tới nơi Namo Buddha- Theo truyền thuyết, Trong tiền kiếp, khi còn là Bồ tát, Ðức Phật đến nơi nầy thí thân mình cho cọp đoí. Câu chuyện ấy được ghi lại trên tháp với hình bức điêu khắc màu vàng vẽ hình Bồ tát thí cánh tay cho cọp. Nơi đây, người ta đang xây một tu viện rất lớn cho chư tăng tu tập.
Tối 12-2-2000, Tất cả chúng tôi chia tay trong quyến luyến ngậm ngùi. Ngày mai như cánh chim, mỗi người mỗi ngã trong Phật sự của mình nhưng những hình ảnh trong hai tuần qua của đại hội gần gũi, ăn uống, chiêm bái thánh tích, tu tập, học hỏi. . . lẫn nhau. . sẽ hiện hữu mãi trong chúng tôi. Cuốn sách hay, cũng tới tờ cuối cùng. Cuộc vui cũng có lúc chấm dứt. Chúng tôi chắp tay thành những cánh sen trao cho nhau và bùi ngùi nói với nhau những lời ước mong trái đất vẫn tròn để được ngồi với nhau nữa trong những kỳ đại hội tới.
Thật ý nghĩa làm sao! Thiên niên kỷ đang đến với hoa mai vàng đầu xuân năm 2000, khởi sắc trong niềm vui của đại hội phụ nữ Phật Giáo trên thế giới tại đất Phật Lumbini. Chúng ta cùng nguyện cầu mười phương chư Phật chứng minh cho tâm nguyện của chúng ta đời đời bên nhau và hãy là "Những người mang Hòa Bình đến cho chính mình, cho gia đình, cho xã hội và cho thế giới."
Delhi, 23-2-2000
Lệ Tâm
Source: Ðạo Phật Ngày Nay
[ Trở Về ]