Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [ Trang Chủ ]


 

Phật Giáo tại Ðức

Thích Nguyên Tạng


 

Ðức (Germany), là một quốc gia ở Trung Âu. Sau đại chiến thế giới thứ hai, Ðức bị chia làm hai nước: Cộng hòa Dân chủ Ðức ở phía Ðông và Cộng hòa Liên bang Ðức ở phía Tây. Hiện nay, Ðức đã thống nhất thành một quốc gia với dân số 80 triệu người và diện tích 356.000 km2.

Trong những thập niên gần đây, Phật giáo (PG) đã trở nên phổ biến ở quốc gia này, nhiều người đã quy y và nhiều người khác đã xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo. Tuy nhiên, lịch sử PG tại Ðức vẫn còn rất mới mẻ. Thế kỷ thứ XIX là mốc thời gian có thể đó là lúc PG được truyền vào châu Âu qua các bài báo của người du lịch và nhân viên thuộc địa đang làm việc tại Á châu. Giới triết gia, nghệ sĩ và trí thức Ðức là những người đầu tiên quan tâm đến tôn giáo mới này. Ðiều đó không có gì phải ngạc nhiên, vì nước Ðức vốn đã nổi tiếng trên thế giới như là một quốc gia của các đại thi hào và triết gia lừng danh như Kant, Schopenhauer, Herder, Hegel, Nietzche, Goethe, Schilla, Hessa... là những con người được khâm phục và nể vì trên khắp thế giới.

Các tổ chức truyền bá Phật giáo tại Ðức

Về mặt truyền giáo, tại Ðức có phần hơn các quốc gia láng giềng, điều đó rất cần thiết để phân biệt về các tổ chức truyền bá PG từ sự phân phối tự nhiên của nền triết học PG và các hình thức tu tập thiền. Hội PG đầu tiên được thành lập tại Ðức vào năm 1903 tại thành phố Leipzig, đó là Giáo hội Phật giáo Ðức (Deutsche Buddhistische Union) do đạo hữu Kant Seidenstuker (1876-1936) sáng lập và lãnh đạo. Hội đoàn này, không phải thuần là một đoàn thể của cộng đồng Phật tử Ðức, mà chỉ là một tổ chức cung cấp giáo lý PG cho giới trí thức Ðức. Vì mục đích này mà Hội đã thành lập một nhà in tại Leipzig và cho phát hành một tờ tạp chí có tên là Buddhistische (Phật giáo) để phổ biến chủ trương và quan điểm của mình. Sau thế chiến thứ nhất (1914-1918), vào năm 1924, bác sĩ y khoa Paul Dahlke (1865-1928) đã thành lập một Trung tâm PG (TTPG) ở Berlin-Frohnau lớn nhất ở Ðức. Lúc bấy giờ, những buổi thuyết giảng của bác sĩ Dahlke đã thu hút nhiều người đến nghe. Ông cố gắng giới thiệu giáo lý Vô ngã (Non ego) qua lăng kính của khoa học hiện đại. Một cộng đồng PG khác được thành lập vào năm 1931 bởi hai đạo hữu Georg Grimm (1868-1945) và Kant Seidenstucker tại thành phố Munich. Ông Grimm không tán thành khuynh hướng của bác sĩ Dahlke về một sự diễn dịch mới trong giáo lý; vị đạo hữu này cố gắng khôi phục lại giáo lý nguyên thủy của Phật giáo để tìm ra lời dạy đích thực cho đời sống hiện tại. Thông qua hoạt động truyền giáo này của Grimm, lần đầu tiên quan niệm tín ngưỡng được giới thiệu tại Ðức. Ðây là một cộng đồng tôn giáo mà nhiều người đã tự gọi mình là Phật tử và thọ trì năm giới cấm của nhà Phật. Năm 1935, Hội PG Theravada ra đời, cũng do đạo hữu Georg Grimm sáng lập và lãnh đạo, trụ sở của hội đặt tại Citting trên bờ hồ Ammer. Hội này đã cho ấn hành một tờ nguyệt san và quyển "Lời dạy của Ðức Phật, Tôn giáo của lý trí" (The Teachings of The Buddha, The Religion of Reason), một tác phẩm của đạo hữu G. Grimm.

Tất cả các hội đoàn PG trên đã bị cấm hoạt động dưới thời thống trị của chính quyền Nazi (1933-1945) do Adolf Hitler (1889-1945) cầm quyền. Ðến thời kỳ hậu chiến, có nhiều tổ chức PG ra đời. Tại Stuttgart, năm 1952, cộng đồng PG được thành lập, đến năm 1955, cộng đồng này và nhiều hội đoàn PG khác được khôi phục và thống nhất với danh xưng "Giáo hội Phật giáo Ðức" (German Buddhist Union), đây là một tổ chức đã tập hợp và thống nhất tất cả các hội đoàn PG trên khắp nước Ðức. Nhiều tạp chí và báo của hội lần lượt ra đời, hiện nay nổi bật nhất là hai tạp chí tiếng Ðức "Liên hoa" (Lotusblatter) và "Những người thời hiện đại" (Mitwelt). Năm 1992, Hội cùng với Giáo hội Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union) tổ chức hội nghị tại thủ đô Berlin; và cuối tháng 10 năm 1945, hội cũng đã tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm từ ngày thành lập tại Munich.

Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Ðức

Sự thừa nhận các tôn giáo lớn ở phương Ðông được truyền bá trong đời sống tinh thần của người Ðức. Cho dù Herder, Kant và Hegel đã dành nhiều thời gian cho các tôn giáo khác và triết học Ấn, nhưng hiểu biết của các nhà tư tưởng này quá hạn chế đến nỗi họ hầu như không thể phân biệt được sự khác biệt giữa Ấn giáo và PG. Chẳng hạn, ông Hegel hay nhầm lẫn hình ảnh ngồi thiền của Ðức Phật với vị thần Krishna của Ấn giáo. Tuy vậy, lời kết luận của Hegel rằng những triết thuyết của Phật giáo vẫn tốt hơn Ấn giáo. Thực tế, trong lời phê bình của Hegel về Ấn giáo, thì ông cho rằng tôn giáo đó như là "thuốc phiện của mọi người" (The opium of plepeo). Về sau, Karl Marx sử dụng khái niệm này để nói đến một tôn giáo lớn ở phương Tây, Thiên Chúa giáo. Còn đối với PG, ông Hegel giới thiệu như là một tôn giáo dẫn đường.

Có lẽ tầm ảnh hưởng của PG trong xã hội Ðức đáng lưu tâm nhất vào cuối thế kỷ XIX là thông qua triết thuyết của Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Ðức. Ông biết đạo Phật và triết học Ấn trong thời gian còn là sinh viên học ở Berlin. Về sau, ông là bạn thân của nhiều học giả PG phương Tây như Schleiermacher (người Ðức), Isaak Jakob Schmidt (người Nga), Eugene Burnouf (người Pháp).... Trong thế giới triết học, ông nổi lên với tác phẩm "Thế giới là ý chí và biểu tượng" (The World as Will and Idea). Ông quan niệm rằng "Con người vĩ đại không phải là kẻ chiến thắng mà là con người từ bỏ khát vọng của ý chí". Bộ sách (hai cuốn) này đã giúp cho mọi người hiểu về triết thuyết của ông. Ðặc biệt trong cuốn hai, ông có đề cập đến Phật giáo và triết học Ấn. Tuy nhiên theo ông, những gì ông viết về Phật giáo chỉ là bước khởi đầu. Ông nói: "Ðến năm 1818, khi tác phẩm của tôi xuất hiện, ở châu Âu có rất ít bài viết về PG. Do đó, những gì tôi viết về PG là không đầy đủ và chưa hoàn chỉnh". Những năm cuối đời, ông dành nhiều thời gian để học kinh Kim Cương (Diamond Sutra, qua bản dịch của Issak Jakob Schmidt), và nghiên cứu giáo lý Niết bàn trong PG.

Sau Schopenhauer có Friedrich W.Nietzsche (1844-1900), một triết gia vô thần Ðức và là cha đẻ của thuyết siêu nhân, có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học tư sản phương Tây sau Immanuel Kant. Qua nhiều bài viết của mình, ông Nietzsche đã thừa nhận mình là học trò và là người chịu ảnh hưởng tư tưởng PG qua Schopenhauer. Ông Neitzsche cũng rất quan tâm đến giáo lý Niết bàn.

Sự ảnh hưởng PG trong đời sống văn hóa Ðức rõ ràng, nhất là bởi những tài liệu sách báo về PG do chính người Ðức viết. Nhiều người đã trở thành Phật tử thông qua những hoạt động văn hóa của họ, rồi họ thành lập những trung tâm PG thiền ở các cộng đồng dân cư. Ông Kanl Eugen Newmann, một học giả người Áo, đã cho in một tuyển tập các bài pháp thoại của Ðức Phật theo hệ Nikaya. Rồi đến năm 1879, ông Friendrich Max Mueller (1823-1900) cho xuất bản cuốn kinh Phật bằng tiếng Anh. Ông cũng là một trong những thành viên có công gây dựng Hiệp hội Thánh điển Pàli tại Anh quốc. Một người Ðức khác có công truyền giáo là ông Hermann Oldenberg (1854-1920), người đầu tiên viết về lịch sử truyền đạo của Ðức Thích Ca Mâu Ni cho thế giới phương Tây qua cuốn Ðức Phật-Cuộc đời, lời dạy và Giáo đoàn của Ngài (Buddha-His Life, His teaching and His Order) xuất bản năm 1881. Viết cuốn sách này đạo hữu Oldenberg muốn lên tiếng bác bỏ luận thuyết sai lầm của một học giả nào đó có ý cho rằng, một người được lịch sử gán cho một danh hiệu nổi tiếng "Buddha" (Phật) chưa bao giờ hiện hữu trên cõi đời này. Theo vị học giả này, Ðức Phật chỉ là một nhân vật biểu trưng của Phật giáo. Trong khi đánh đổ luận thuyết đó, ông Oldenberg đã đưa ra nhiều chứng cứ lịch sử về cuộc đời tu đạo và hành đạo của Ðức Phật. Ông muốn khẳng định rằng Ðức Thích Ca là một Ðức Phật lịch sử chứ không phải là một Ðức Phật huyền thoại. Quyển sách đã nhanh chóng nổi tiếng và phổ biến khắp nước Ðức. Ðến nay, quyển sách đã tái bản hơn 14 lần và danh hiệu "Gotama Buddha" rất quen thuộc với người dân châu Âu ngay từ lúc ấy. Có thể nói rằng, ông Oldenberg đã khơi dậy sự quan tâm đến PG của các học giả phương Tây đối với những bộ kinh thuộc hệ Nikaya. Ðó là giáo sư Luders, Von Lasenapp, F.Weller, Nobel, Walleser Waldschmidt... đã để tâm nghiên cứu kinh điển hệ Pàli; trong đó có một số vị quan tâm đến các kinh Sanskrit. Ðặc biệt cũng có nhiều công trình nghiên cứu về PG, phát triển bởi ba-bốn nhóm nhỏ, đứng đầu các nhóm này là Lạt Ma người Ðức Anagarika Govinda.

Nhiều bộ kinh Pàli đã được phiên dịch sang tiếng Ðức, quan trọng và nổi bật nhất là đã chuyển ngữ và ấn hành hoàn chỉnh năm bộ kinh hệ Nikaya. Những người có công trong công trình lịch sử này là những học giả và dịch giả tên tuổi như K. E. Newmann. K. S. Seidentucker, H. Oldenberg, E. O. Franker, Nyanatiloka Thera, D. Dalhke và Kurt Schmidt. Ðặc biệt, trong số những học giả nghiên cứu kinh Phật và sau đó khoác áo tu, nổi bật trong số đó có đạo hữu Walter Florus Gueth, một tín đồ Ky tô ở Hesser, đã đến xuất gia và tu học ở Tích Lan, vào năm 1903 với pháp danh là Nyanatiloka; Ngài là một tác giả và dịch giả PG nổi tiếng của 20 tác phẩm trong các thứ tiếng Ðức (15 quyển), Anh (6 quyển), Pháp (2 quyển), Pàli (2 quyển), Tích Lan (1 quyển). Các dịch phhẩm tiếng Ðức nổi tiếng của Ngài gồm có Tăng Chi bộ kinh (Anguttara Nikaya), kinh Pháp Cú (Dhammapala), Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhimagga). Trưởng lão Nyanatiloka cũng là người có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài cho phương Tây khi thành lập một tu viện tại Tích Lan. Kế thừa sự nghiệp hoằng pháp của trưởng lão Nyanatiloka là Tỷ kheo Nyanaponika, cũng là một trí thức Ðức, đã phát tâm xuất gia và về sau trở thành một Tăng sĩ nổi tiếng ở châu Âu với nhiều tác phẩm Phật học cả tiếng Anh lẫn tiếng Ðức. Một Tăng sĩ người Ðức khác là Lạt Ma Anagarika Govinda, (thế danh là Ernst Lothar Hoffmann), xuất gia tại Tích Lan vào năm 1928 với Trưởng lão Nyanatiloka và được huấn luyện theo truyền thống Theravada. Tuy nhiên, hai mươi năm sau, Ngài đã chuyển sang tu tập theo truyền thống Kim Cương thừa của PG Tây Tạng. Trong quá trình hoằng pháp tại quê nhà, Ngài đã có những đóng góp quyết định cho PG Ðức. Ngài cũng là tác giả nhiều tác phẩm có giá trị nổi bật trong số đó là quyển "Con đường mây trắng" (The Way of The White Clouds). Một phụ nữ châu Âu đầu tiên trở thành nữ tu PG là nghệ sĩ đàn piano Else Buchholz, con gái một vị chủ ngân hàng Ðức, cô đã đến Tích Lan vào năm 1926, xuất gia và tu học với pháp danh là Uppalavanna.

Giới trẻ Ðức cũng trở về với PG qua tác phẩm nổi tiếng "Siddarta" (Sĩ Ðạt Ta) của Hermann Hess (1877-1962), một nhà thơ, nhà văn từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1946. Sau khi từ bỏ mọi nghiên cứu về Tin Lành giáo, H. Hess bắt đầu tiếp xúc với Phật học và triết học Ấn, và chẳng bao lâu ông đã chinh phục bởi giáo thuyết này. Ông nghiên cứu PG và văn hóa Á Ðông qua ba lần viếng thăm Sri Lanka và Indonesia vào năm 1911. Kết quả của những công trình nghiên cứu đó đã giúp ông cho ra đời cuốn Sĩ Ðạt Ta, xuất bản năm 1922 và nó đã nhanh chóng được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi giới trẻ Ðức và lập tức được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng trên thế giới (bản dịch Việt ngữ với tựa đề "Câu chuyện dòng sông" do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch, Lá Bối in lần đầu tiên năm 1965).

Phật giáo Việt Nam tại Ðức

Như nhiều cộng đồng khác, phần lớn người Việt đến định cư tại Ðức vào giữa những năm bảy mươi của thế kỷ này. Hiện tại có khoảng 100.000 người Việt định cư tại đất nước này. Do chính sách phân bố của chính quyền Ðức, nên người Việt ở Ðức chỉ ở rải rác nhiều vùng khác nhau trên khắp nước Ðức. Dù vậy, người Việt ở Ðức đoàn kết và có nhiều hoạt động để khôi phục văn hóa và ngôn ngữ Việt, chẳng hạn, họ có khoảng 40 tờ tuần báo và Nguyệt san tiếng Việt và 20 chương trình phát thanh tiếng Việt để phục vụ cho cộng đồng.

Về tình hình PGVN tại Ðức, cũng như cộng đồng của mình, PGVN đã từng bước ổn định, phát triển và đi sâu vào xã hội Ðức. Hiện tại có 7 ngôi chùa và 14 chi hội Phật tử do người Việt chủ xướng, có tất cả 8 đơn vị Gia đình Phật tử (xin mời vào xem trang nhà của GDPT Minh Tâm theo địa chỉ: http://www.stud.uni-hannover.de/~loc ), gồm 500 đoàn sinh và 50 huynh trưởng và có khoảng 40 vị Tăng Ni đang lưu trú tu học tại Ðức.

Lãnh đạo tinh thần PGVN tại Ðức hiện nay là Thượng Tọa Thích Như Ðiển, viện chủ Chùa Viên Giác ở thành phố Hannover. Thượng tọa đến Ðức hoằng Pháp vào năm 1977 sau nhiều năm du học ở Nhật Bản. Lúc đầu, Thượng tọa thành lập một Niệm Phật Ðường Viên Giác tại thành phố Hannover để hướng dẫn tín đồ tu học. Nhưng vì nhu cầu tu học và chiêm bái của Phật tử tại gia ngày càng đông, nên Thượng tọa đã xin phép chính quyền Liên Bang Ðức một khu đất rộng lớn hơn để xây chùa, cuối cùng Bộ Nội Vụ Liên Bang Tây Ðức đặc trách về Tôn Giáo và Văn Hóa đã chấp thuận việc trên, nên chùa Viên Giác được dời về một vùng khác cũng ở Hannover vào năm 1981. Tại đây, TT.Như Ðiển đã làm lại từ đầu và tiến hành xây dựng cho cơ sở hoằng pháp mới . Qua nhiều năm làm việc cật lực, cuối cùng Chùa Viên Giác đã hoàn thành vào năm 1991 với tổng chi phí là chín triệu Ðức Mã ( tương đương khoảng năm triệu rưỡi Mỹ kim) .

Hiện tại, chùa Viên Giác được xem là di bảo của PGVN ở nước ngoài , là Trung tâm Văn hóa PG tại Ðức quốc với một điện Phật chứa khoảng 700 người cùng một lúc; một thư viện rộng lớn gồm nhiều loại Kinh sách khác nhau bằng nhiều ngôn ngữ như Việt, Anh , Pháp, Ðức, Nhật, Trung Hoa, v.v.  đặc biệt thư viện này có cả bộ Ðại Tạng Kinh chữ Hán thỉnh từ Ðài Loan vào năm 1981 gồm 100 quyển, mỗi quyển dày độ 2.500 trang qua sự tài trợ chi phí của chính quyền Ðức; một nhà máy in dùng để in những sách báo của PG và những hoạt động văn hóa, từ thiện v.v. Tất cả sở phí của nhà in như máy móc, giấy mực... cũng được chính quyền Ðức tài trợ. Nhờ vậy mà tờ tạp chí Viên Giác vẫn phát hành đều đặn trong 21 năm qua, tính đến nay đã phát hành được 110 số, mỗi kỳ là 5000 số (sáu kỳ mỗi năm).

Hằng năm chùa Viên Giác thường tổ chức những đại lễ như Phật Ðản, Vu Lan, Tết Nguyên đán v.v. quy tụ trên dưới 50.000 người Việt lẫn người bản xứ trên khắp nước Ðức về dự.

Ðặc biệt, chùa Viên Giác đặt nặng vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa PG và văn hóa Việt Nam tại Ðức, chùa đã tổ chức in ấn và phiên dịch nhiều tác phẩn PG ra tiếng Ðức và ngược lại, riêng Thượng Tọa Như Ðiển đã cho ấn hành hơn 20 tác phẩm (cả tiếng Việt lẫn tiếng Ðức) của mình để phổ biến cho Phật tử Ðức đọc. Năm 1998, Chùa Viên Giác còn mở thêm một trang báo điện tử gồm ba thứ tiếng Việt , Ðức và Pháp để phổ biến giáo lý cho Phật tử khắp nơi đọc. Ðịa chỉ vào xem là: http://www.comlink.apc.org/pvg và địa chỉ liên lạc Chùa Viên Giác hiện nay là: Karlsruher Str 6, 30519 Hannover, Germany. Tel: 05.11.879630; Fax: 05.11. 8790963.

Hiện nay, có khoảng 20 tăng sinh người Việt lẫn người Ðức đang theo tu học tại chùa Viên Giác, dưới sự dẫn dắt của TT.Như Ðiển. Ðó là một điều lạc quan cho tương lai PGVN tại Ðức trong việc phát triển Chánh Pháp tại xứ sở này. Nhìn chung, PGVN tại Ðức đang trên đà lớn mạnh dưới sự lãnh đạo nhiệt tâm và tận tụy của Thượng Tọa Thích Như Ðiển.

Có thể nói, Phật giáo Theravada đã ảnh hưởng rất lớn trong các cộng đồng PG Ðức ở giai đoạn đầu mới truyền giáo. PG Mahayana, bao gồm Nhật Bản, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam v.v. đã trở nên phổ biến sau thế chiến thứ hai. Từ những năm sáu mươi trở đi, Thiền học PG đã lan tỏa khắp đất nước này; các tác phẩm Thiền của Tanable Hajime, Hisamatsu Shinichi, Rudolf Otto, Eugen Herrigel, August Faust và đặc biệt là D. T. Suzuki, được phát hành rộng rãi để cung ứng cho trào lưu học và tu thiền ở Ðức. Từ đó đến nay, nhiều trung tâm thiền đã lần lượt ra đời và nhiều Thiền sư ở Á châu được cung thỉnh sang Ðức để tuyên dương pháp môn này.

Nếu năm 1962 tín đồ PG Ðức chỉ có 2.000, thì hiện nay (1999) con số đó đã được nâng lên hơn 70.000 người (số lượng được chính quyền liên bang thống kê và thừa nhận). Mặc dù số lượng tín đồ PG còn quá ít so với các nước Á châu, tuy nhiên PG ngày nay rất phổ biến ở Ðức; các nhà sách ở các thành phố lớn luôn tràn ngập Kinh sách PG và phong trào nghiên cứu và tu thiền ngày càng tăng. Dù vậy, PG Ðức vẫn còn hạn chế nhiều mặt, nhất là người lãnh đạo tinh thần và trực tiếp hướng dẫn tu học. Nếu ở phương Ðông, các Tăng sĩ làm công tác truyền giáo dẫn dắt người tại gia tu học; thì ở Ðức, người cư sĩ phải đảm nhận trọng trách ấy. Tuy nhiên, mọi tín đồ PG Ðức rất vui mừng, vì hiện nay, đất nước của họ rất nhiều giống dân khác nhau đến định cư và nước Ðức đã trở nên một quốc gia "đa tôn giáo". Dù Ky Tô giáo và Hồi giáo là hai tôn giáo chính ở xứ sở này, nhưng số lượng tín đồ PG vẫn đang gia tăng. Vì thế, chúng ta có quyền hy vọng rằng "vườn hoa Phật Giáo" sẽ nở rộ trong một tương lai gần.

Tổng hợp từ các tài liệu:

-- Maha Bodhi Magazine, India, 10/1974
-- Buddhism in The Modern World, New York, 1976
-- The Awakening of The West, California, 1994
-- Martin Petrich & H. Nicole , German Buddhist Newsletters, tháng 8/1995
Thích Nguyên Tạng,
Chùa Quảng Ðức
Melbourne, Australia
tháng 4-1999

[ Trở Về ]