(Trần nhân Tông) |
THIỀN TÔNG CHỈ NAM |
Trẫm
thầm nghĩ : Phật không có Nam Bắc, mọi người đều có thể
tu cầu. Tánh có trí ngu, đồng sẵn giác ngộ. Vì vậy, phương
tiện dẫn dụ đám người mê, để sáng tỏ đường tắt
sanh tử, là kinh điển của đức Phật. Ðặt mực thước
cho đời, làm mô phạm cho người sau, là trọng trách của
các bậc Thánh trước (Tổ). Cho nên Lục Tổ nói: "Những
bậc Thánh trước (Tổ) cùng Ðại sư (Phật) không
khác". Nên biết giáo pháp của Phật nhờ các bậc Thánh trước
truyền bá ở đời. Nay trẫm đâu không thể lấy trách nhiệm
các bậc Thánh trước làm trách nhiệm của mình, giáo pháp
của Phật làm giáo pháp của mình.
Vả
lại, thuở trẫm còn niên thiếu, có chút ít hiểu biết vừa
nghe lời dạy của Thiền sư thì tâm tư lóng lặng, bỗng dưng
thanh tịnh, nên để tâm nơi nội giáo, tham cứu Thiền tông,
dốc lòng tìm thầy, chí thành mộ đạo. Tuy ý nói hồi hướng
đã nẩy mầm, mà cơ cảm xúc chưa thấu suốt.
Năm
mười sáu tuổi, Thái Hậu đã chán cõi đời, trẫm nằm rơm
gối đất, khóc ra máu mắt, đau đớn nát lòng; ngoài nỗi
đau buồn này, đâu rảnh nghĩ việc khác. Chỉ vài năm sau,
Thái Tổ Hoàng Ðế cũng băng hà, lòng thương mẹ chưa nguôi,
nỗi xót cha càng thống thiết, buồn thảm tràn trề khó bề
dẹp được. Trẫm nghĩ: Công cha mẹ đối với con, nuôi nấng
vỗ về không thiếu điều gì, dù con phải xương tan, thịt
nát vẫn chưa đủ đền đáp trong muôn một. Huống nữa, Thái
Tổ Hoàng đế khai cơ lập nghiệp rất đổi gian nan, trị
nước giúp đời càng thêm hệ trọng. Người đem đất nước
giao cho ta khi còn thơ ấu, khiến ta ngày đêm canh cánh không
chút thảnh thơi. Ta lòng riêng tự bảo: trên đã không cha
mẹ để nương tựa, dưới ngại chẳng xứng lòng dân mong
đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng lui về
ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu rõ việc
lớn sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay
hơn sao? Thế là chí trẫm đã quyết định.
Ðêm
mùng ba tháng tư năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính
Bình thứ năm (1242), trẫm đổi y phục đi ra khỏi cửa cung
bảo tả hữu rằng: "Trẫm muốn đi dạo để ngầm nghe lời
dân, biết được chí dân, mới hiểu thấu nỗi khó khăn của
họ". Bấy giờ tả hữu theo trẫm không quá bảy tám người.
Giờ hợi đêm ấy, trẫm cởi một ngựa lặng lẽ ra đi; sang
sông thẳng về hướng đông, mới nói thực lòng cho tả hữu
biết. Tả hữu ngạc nhiên, tất cả đều khóc. Giờ mẹo
hôm sau, đến bến đò Ðại Than bên núi Phả Lại, sợ có
người biết, trẫm lấy áo che mặt qua sông, đi tắt theo đường
núi. Ðến tối vào nghỉ chùa Tăng Giác Hạnh, đợi sáng lại
đi. Leo trèo lặn lội, núi hiểm suối sâu, ngựa mõi mệt
không thể tiến lên được; trẫm bèn bỏ ngựa vin vách đá
lần bước, đến giờ mùi mới tới sườn núi Yên Tử. Sáng
hôm sau, trẫm trèo thẳng lên đỉnh núi, tham kiến vị đại
Sa môn Quốc sư Trúc Lâm. Quốc sư vừa thấy trẫm mừng rỡ,
ung dung bảo:
"Lão
tăng ở lâu nơi sơn dã, xương cứng mặt gầy, ăn rau đắng
cắn hạt dẻ, uống nước suối dạo cảnh rừng, lòng như
mây nổi theo gió đến đây. Nay Bệ hạ bỏ ngôi nhân chủ,
nghỉ đến nơi quê hèn rừng núi, chẳng hay Bệ hạ mong cầu
điều gì mà đến đây".
Trẫm
nghe nói, hai hàng nước mắt tự trào, đáp lại Sư rằng:
"Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ
dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế
vương đời trước, thịnh suy không thường, cho nên trẫm
đến núi nầy chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác".
Sư
bảo: "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm.
Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ
tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên
ngoài".
Bấy
giờ ông chú Trần Công, người em họ mà Tiên quân gởi gấm
đứa con côi. Sau khi Tiên quân bỏ thế gian và quần thần,
trẫm phong làm Thái sư tham dự quốc chính. Nghe tin trẫm trốn
đi,ông liền sai tả hữu đi mọi nơi dò tìm tung tích rồi
cùng người trong nước lên đến núi nầy.
Gặp
trẫm, ông thống thiết nói:"Thần nhận sự ủy thác của
Tiên quân, tôn Bệ hạ làm chúa thần dân. Lòng dân trông đợi
Bệ hạ như con nhỏ mong đợi cha mẹ. Huống nữa, ngày nay
các cố lão trong triều đều là bề tôi thân thuộc, dân chúng
sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục tùng. Cho đến đứa bé lên bảy
cũng biết Bệ hạ là cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà
đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời dặn dò còn vẳng bên
tai. Nay Bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để mong thỏa
chí mình. Như thần nghĩ, Bệ hạ tính kế tự tu thì có thể
được, còn quốc gia xã tắc thì sao? Chỉ để lời dạy suông
cho đời, chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên
hạ. Bệ hạ nếu không nghĩ lại, chúng thần cùng người
trong thiên hạ đồng chết ngay hôm nay, quyết chí không trở
về".
Trẫm thấy Thái sư cùng các cố lão quần thần không có ý bỏ trẫm, liền đem lời bày tỏ với Quốc sư. Quốc sư cầm tay trẫm bảo: "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ hạ không về sao được. Song phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao lãng". Vì thế, trẫm cùng mọi người trở về Kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh rổi, trẫm họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và các kinh Ðai thừa... đều nghiên cứu qua. Trẫm thường đọc kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", trong khoảng để quyển xuống ngâm nga, bỗng nhiên tự ngộ. Liền đem sở ngộ này viết thành bài ca, để tên là "Thiền Tông Chỉ Nam". Năm này, Quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, trẫm mời ở chùa Thắng Nghiêm, trông coi việc ấn bản các kinh. Trẫm đem tập sách này trình Sư, Sư xem qua liền tán thán rằng: "Tâm chư Phật ở trọn nơi đây, sao không nhân khắc in các kinh, khắc in luôn để dạy kẻ hậu học". Trẫm nghe lời này, sai thợ viết chữ chân phương, ra lệnh khắc bản in. Chẳng những để chỉ đường mê cho hậu thế, mà còn muốn tiếp nối công lớn các bậc Thánh nhơn đời trước. Vì thế tự làm lời tựa này. |
KHÓA NGHI SÁU THỜI SÁM HỐI |
Tiện
lợi việc đi lại dưới sông trên bộ, là nhờ xe, thuyền;
tẩy sạch bụi dơ nơi thân tâm, là do sám hối .
Muốn tẩy sạch thân tâm mà không dùng sám hối, khác nào
muốn tiện lợi qua lại mà chẳng dùng xe, thuyền. Thế mới
biết công dụng sám hối rất là to. Cho nên kinh Ðại Tập
nói: "Như áo dơ hằng trăm năm, có thể trong một ngày giặt
được sạch sẽ. Như thế, trong trăm ngàn kiếp đã tích tụ
các nghiệp chẳng lành, do nhờ Phật lực, khéo thuận tư duy,
có thể trong một ngày hay một giờ, trọn hay tiêu diệt!"
Vả lại, chúng sanh từ trước đến nay tánh giác thanh tịnh tròn sáng, trong trẻo như hư không chẳng có mảy bụi. Do bọt vọng dấy lên, cõi uế hiện thành, năng và sở nương nhau, Phật với chúng sanh thấy hai. Căn tánh sai biệt, ngu trí phân chia, chỉ cho một cửa, khó được ngộ nhập. Vì thế, đức Phật chúng ta trí nguyện rộng lớn, mở cửa phương tiện, tùy lối chỉ đường về, đúng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu của chúng sanh từ vọng mà sanh, khuyên họ một niệm kính thành quy y sám hối. Khiến thân tâm thanh tịnh, trong sạch như xưa. Gió yên thì sóng lặng, bụi sạch thì gương sáng. Sao thế? Vì trước khởi tâm ác, như mây che mặt trăng, sau sanh tâm thiện, như đuốc sáng tan bóng tối. Ôi! Công dụng sám hối lớn lao há chẳng vậy sao? Trẫm
nhờ quyến thuộc nhà trời, ở ngôi chí tôn, nên việc dân
gian quốc chính phiền rộn. Phồn hoa dụ dỗ bên ngoài, thị
dục mê hoặc ở trong. Miệng thì chán ngán vị ngon, thân phải
đeo mang vàng ngọc. Thấy nghe đuổi theo thinh sắc, ở ăn toàn
chốn gác đài. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy
vi, học giả mù độn, căn lành kém mỏng. Ngày thì căn trần
va chạm, lưới nghiệp kéo lôi; đêm thì mê ngủ che đậy,
dây lười trói buộc. Ngày đêm dính mắc, đâu không phải
là lỗi chuốc họa gây thù. Trẫm vì lẽ đó, ôm ấp trong
lòng, thương cảm xen lẫn, quên ăn mất ngủ. Nhân khi việc
triều rãnh rổi, xem khắp Kinh, Luận và các văn nghi lễ, tuyển
chọn pháp có được tự lợi, lợi tha dùng để chỉ dạy
cho người. Trăn trở suy đi nghĩ lại, xưa tạo nghiệp trọn
do sáu căn. Vì thế đức Phật Thích Ca khi chưa thành đạo,
trước vào núi Tuyết sáu năm tu khổ hạnh, là do sáu căn
đó vậy. Phỏng theo ý ấy, lấy sáu căn phân làm sáu thời,
mỗi thời lễ sám một căn. Chính trẫm chế nghi văn sám hối
này, gọi là "Khóa nghi sáu thời lễ Phật sám hối".
Văn
thì rườm rà, lời thì xa xôi. Nếu văn rườm rà thì người
lười sám hối, lời xa xôi thì dễ sanh nghi. Cho nên không
dùng lời phù phiếm dồn cho đầy quyển, cốt khiến người
đọc tụng vui vẻ, người nghe thấy dễ ngộ. Mới mong những
kẻ có lòng tin, ngày đêm phát tâm chí thành, theo khóa nghi
này làm lễ sám hối. Ðây chẳng phụ chí nguyện tự lợi,
lợi tha của trẫm.
Người
sáng mắt thời sau, chớ xem nghi văn này mà phát cười. Tuy
nhiên như thế:
Ðâu thấy hoàng oanh đậu liễu xanh. |
VĂN GIỚI SÁTPhàm
các loài sanh từ trứng, thai, ẩm, hóa tính vẫn đồng, thấy
nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo nghiệp kết oán, nên
thọ tên hiệu khác. Ngày trước vốn loài người, nay sanh
đàn giống khác nhau. Hoặc là bạn bè, hoặc là anh em. Thay
đổi áo xiêm đai mũ, biến thành mai vảy cánh lông. Vợ quên
chồng, chồng quên vợ, con trái cha, cha trái con. Ðã thấy
đổi đầu khác mặt, lôi về mổ bụng chặt chân. Luống
do tham sống sợ chết, lại không một lời kêu đau khổ. Ngươi
giết nó, nó giết ngươi, hắn ăn mày, mày ăn hắn, hằng
ngày không dứt, mãi tạo oán trái. Kiếp kiếp trả nhau, đời
đời thù nhau.
Người
quay đầu liền đến quê nhà, kẻ phóng tâm hằng chìm địa
ngục. Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Ðạo dạy: "Ái
vật háo sanh"; Phật chỉ cấm sát là giữ giới, người phải
để ý tuân hành chớ phạm.
Kệ
rằng:
Sợ chết tham sanh nào khác tình. Từ trước thánh hiền lòng chẳng nở, Ðâu cam thấy chết vẫn tham sinh. VĂN GIỚI TRỘMNgười
làm nhân gnghĩa là quân tử, kẻ làm trộm cắp là tiểu nhân.
Người quân tử ôm lòng cứu giúp kẻ cô bần, đứa tiểu
nhân thì tham tài lấy vật. Vật của người lấy làm của
mình, mặc kệ nhiều người trách cứ, chỉ biết lợi ích
cho mình. Ðâu biết giàu sang tại trời, chỉ thả ý tham cầu.
Thuốc chó, đào hầm, đục tường, khoét vách theo gót tướng
quân Sơn Dương, tập làm Khương Thượng quân tử. Nghịch
trời trái đất, dối pháp khinh hình. Khi sống thì pháp luật
trừng trị, lúc chết bị minh ty khảo tra.
Không
những đống vàng khối ngọc,dầu rằng cọng cỏ mảy lông.
Ngửi mùi hương sen trong ao mà Ðịa thần còn quở, cho vay
lấy lời Diêm vương còn phạt. Lưới trời lồng lộng, làm
thiện thì thoát, làm ác phải mang. Phép nước thênh thang,
làm việc công thì khỏi, làm việc tư thì phạm.
Kệ
rằng:
Trăm mưu ngàn kế khổ mong cầu. Ðời này ví được của mấy người, Nào biết muôn phen kiếp ngựa trâu. VĂN GIỚI SẮCLưng
ong tóc mượt hay khiến tâm tánh say mê, sắc én mày ngài làm
cho hồn phiêu phách lạc. Ðưa mắt liếc chẳng phải dao mài
mà ai không đứt ruột. Lưỡi uốn tợ sáo diều, mọi người
đều phải lắng nghe. Người mê thì nghĩa thân sơ đều dứt;
kẻ tham thì đạo đức tiêu tan. Trên thì phong giáo đắm chìm,
dưới thì khuê môn tán loạn. Bất luận phàm phu học giả,
đều say áo đẹp thích điểm trang. Kỷ cương quốc gia rơi
chốn Tô đài; giới thể bị chôn vùi nơi dâm thất.
Thảy
do phóng mắt đuổi theo bên ngoài, nên không xoay đầu nhìn
lại bên trong. Cởi hết lụa là che thân chỉ bày làn da bọc
thịt. Ðộc giác gần Nữ am mà hoàn tục; chân quân xa Thán
phụ nên thăng thiên. Người chẳng theo sắc được năm thần
thông, kẻ mê sắc thì mất các giới hạnh.
Kệ
rằng:
Thấy rồi mắt dán, ý nao nao. Thảy đều một đãy da hôi thúi, Thầm cắt ruột người chẳng dụng dao. VĂN GIỚI VỌNG NGỮTâm
là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc. Nghĩ một niệm
thì hưởng ứng chẳng sai; nói một lời thì bóng theo chẳng
lệch. Quân tử trọng lời như biện; cổ nhân ngừa nói như
bình. Nói ra thì ngay thẳng công bằng; mở lời không cong queo
tà vạy. Không nói đây kia hay dỡ, chẳng bàn mình phải người
sai. Ðâu dám khua môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn
lời. Vả nghiệp của thân là nặng, song họa của miệng là
trước. Chẳng những kẻ nói là vọng ngôn, còn khiến người
nghe làm bậy.
Ðời
này bị người khinh rẻ, sau khi chết bị nghiệp kéo lôi.
Hoặc kềm sắt, kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc nước đồng
sôi rót vào miệng ôm lòng đau đớn.
Kệ
rằng:
Cứ mãi làm người vọng ngữ thôi. Riêng ý cầu tài mong người thích, Sau cùng khó tránh nghiệp kéo lôi. VĂN GIỚI RƯỢUNgười
ưa uống rượu thì đức hạnh suy kém, lời nói nhiều lầm
lỗi. Hơi nóng xông nát dạ dày, vị cay xuyên thủng gan ruột.
Rối loạn tinh thần, tâm tánh hôn mê. Chẳng nghĩ đến cha
mẹ, tội ngũ nghịch chuyên làm. Hoặc ồn náo nơi tiệm quán,
hoặc say mèm ngoài đường sá. Khi trời mắng đất, hũy Phật
chê Tăng. Miệng lãm nhãm hát ca, thân trần trụi nhảy múa.
Ðã không tiếp Phật cúng dường, mà lại theo bọn mũ đen
bất chánh. Tan thân mất mạng từ đó mà sanh, mất nước
tan nhà từ đây mà có.
Bỏ
rượu thì ngàn điềm lành điều tới, uống rượu thì trăm
họa kéo về. Ðại Võ không uống rượu nên muôn họ đều
theo. Thái Khang mê rượu nên năm con đều oán. Ðâu chỉ hàng
phong lưu phải răn, mà bậc đạt giả cũng cần phải tránh.
Bao nhiêu người rạng rỡ trên đời, lại bị tối tăm trong
rượu.
Kệ
rằng:
Bao nhiêu người trí mất thông minh. Chẳng riêng Tăng sĩ không gìn giới, Mất nước, tan nhà từ đó sanh. |
Nguyên là, tứ đại vốn không, ngũ ấm chẳng có. Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chơn không. Vọng ấy từ không, không hiện vọng, vọng sanh các sắc. Ðã trái không sanh không hóa, mãi làm có hóa có sanh. Không sanh hóa thì không hóa sanh; có hóa có sanh nên có sanh có hóa. Hoặc sanh thánh hiền ngu trí, hoặc hóa vảy cánh lông sừng. Luôn luôn chìm đắm nơi bến mê, mãi mãi trôi lăn trong biển khổ. Mờ mờ mịt mịt nào biết nào hay, rối rắm lăng xăng chẳng tinh chẳng ngộ. Trọn là buông tâm chạy đi, đều không nắm mũi kéo về. Khiến đến qua lại sáu đường, xuống lên bốn núi. Bốn núi là: Sanh, Già, Bệnh, Chết. Nay lần lượt trình bày bốn núi để lại đời sau. KỆ BỐN NÚINgộ xong chẳng có muôn vật không. Mừng được ba chân lừa có sẵn, Cởi lên thúc mạnh vượt cao phong. NÚI THỨ NHẤTNúi
thứ nhất là tướng Sanh:
Vì sai một niệm nên hiện đa đoan. Gá hình hài nơi tinh huyết
mẹ cha, nương khí âm dương dưỡng nuôi thai nghén. Trong tam
tài người đứng giữa, lại hàng chí linh của muôn vật.
Chẳng luận kẻ trí người ngu, đều thuộc bào thai bao bọc;
hỏi chi một người trăm họ đều trong lò bể mà ra. Hoặc
mặt trời biểu hiện, vua thánh giáng sanh; hoặc các sao ứng
điềm, tôi hiền xuất hiện. Văn chương quét sạch ngàn quân,
võ luợc chiến thắng trăm trận. Trai cậy phong tư ném quả,
gái khoe sắc đẹp nghiêng thành. Một trận cười nghiêng nước,
hai trận cười đổ thành. Ðua danh khoe đẹp, tranh lạ đấu
trân, xem ra thảy đều luân hồi, đáo để khó trốn sanh hóa.
Tướng
Sanh của người là mùa xuân trong năm. Hanh thông đang độ
tam dương, muôn vật rực màu tươi tốt. Một trời trong sáng,
nơi nơi liễu thắm hoa cười; muôn dặm phong quang, chốn chốn
oanh kêu bướm lượn.
Kệ
rằng:
Xưa nay không mống cũng không manh. Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm, Liền trái không sanh nhận có sanh. Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị, Mắc mờ chúng sắc, tiếng mê tai. Lang thang làm khách phong trần mãi, Ngày cách xa quê muôn dặm trình. NÚI THỨ HAINúi
thứ hai là tướng Già :
Hình dung thay đổi, khí huyết đã suy, dáng gầy tuổi cao,
ăn uống hay sặc thường nghẹn. Tóc xanh má đỏ đổi thành
tóc bạc da mồi, ngựa trúc áo hoa biến thành gậy cưu xe cói.
Dẫu rằng mắt sáng như Ly Lâu cũng khó phân rành màu sắc;
dù cho tai thính như Sư Khoáng cũng không nhận rõ âm thanh.
Tiều tụy như cây liễu lúc thu về, điêu linh như đóa hoa
khi xuân hết. Bóng chiều vừa ngã non tây, dòng nước sắp
chảy về biển đông.
Tướng
Già của người là mùa hạ trong năm. Trời nóng đá chảy
muôn vật đều khô, nắng nóng sôi vàng trăm sông sắp cạn.
Hoa tàn liễu úa, bờ lạch trong vườn há còn lưu giữ. Bướm
lượn oanh bay, dưới lá đầu cành già sắp tới.
Kệ
rằng:
Thọ yểu người trời chớ vọng cầu. Bóng ngã nương dâu, chiều sắp đến, Thân như bồ liễu tạm qua thu. Phan Lang thuở nọ còn xanh tóc, Lã Vọng ngày nay đã bạc đầu. Cuồn cuộn việc đời trôi chẳng đoái, Vầng ô gác núi, nước trôi xuôi. NÚI THỨ BANúi
thứ ba là tướng Bệnh :
Tuổi đã già khọm, bệnh đến cao hoang. Chân tay mỏi mệt,
mạch lạc khó thông, trăm lóng rã rời, nóng lạnh chẳng thuận.
Tan mất tánh chơn thường, sai lệch nguồn điều sướng. Ngồi
đứng khó khăn, co duỗi đau đớn. Mạng dường ngọn đèn
trước gió, thân như hòn bọt trên sông.Tâm sanh bóng quỷ
lô nhô, mắt thấy không hoa lốm đốm. Hình hài gầy yếu,
ai là Biển Thước thuốc thang; thân thể hao mòn, nào kẻ Lư
Nhân cứu chữa. Bạn bè luống nhọc viếng thăm, anh em uổng
sức nâng đỡ. Bệnh nặng nhiều tháng chẳng lành, nằm liệt
nhiều tuần chưa khỏi.
Tướng
Bệnh của người là mùa thu trong năm. Gặp khi sương lạnh
mới rơi, đến lúc cỏ cây đều héo. Rừng rậm xum xuê, một
trận gió vàng đã lơ thơ; núi biếc non xanh, móc ngọc mới
sa liền trơ trọi.
Kệ
rằng:
Gieo rắc tai ương đến thế nhân. Ðại để có thân là có bệnh, Ví bằng không bệnh cũng không thân. Linh đơn chớ cậy trường sanh thuật, Lương dược khó mong được sống bền. Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới, Xoay tâm về đạo dưỡng thiên chơn. NÚI THỨ TƯNúi
thứ tư là tướng Chết :
Bệnh càng trầm trọng mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong
hưởng trăm năm, thân thế trở thành giấc mộng. Thông minh
trí tuệ khó trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai
hùng đâu chống được khi vô thường đã đến. Thiếp thuận
vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột, anh nhường em kính
vội nên ly biệt suốt đời. Vật mình lăn đất, vỗ trán
kêu trời. Tường hoa nhà rộng có làm chi, kho đụn vàng kho
rồi cũng bỏ. Dạ đài mù tối luống nghe gió bấc vi vu, tuyền
hộ then gài chi thấy mây sầu ảm đạm.
Tướng
Chết của người là mùa đông trong năm. Càn khôn ứng Thái
tuế tròn vòng, nhật nguyệt hướng huyền huyền hội tụ.
Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết tơi bời, dương
khí tan dần, nước tám đức đóng băng càng lạnh buốt.
Kệ
rằng:
Lão ngư say tít chiếc thuyền chành. Bốn bề mù mịt mây sầm bóng, Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh. Theo lớp hạt mưa bay phất phới, Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành. Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh, Trăng lặng lòng sông, đêm mấy canh? (Ngô Tất Tố) Bảo táp cuồng
phong đất bụi bay,
|
|
Hết
thảy các người! Thân là gốc khổ, thể chất là nhân nơi
nghiệp nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận giặc làm con.
Các
ông nên chín chắn xem, chỉ sắc thân này khi chưa vào bào
thai thì nơi nào được có. Bởi do niệm khởi duyên hội,
năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, hình dung giả có.
Quên thật quên gốc, hiện giả hiện dối, hoặc nữ hoặc
nam, hoặc đẹp hoặc xấu. Trọn là buông tâm chạy đi, toàn
không một bước trở về, chạy rong trên đường sanh tử,
mất tuốt "bản lai diện mục". Do đó, dương mắt nhìn bên
ngoài, ai biết xoay đầu ngó lại bên trong. Khi lại, sanh là
hóa sanh; nơi đến, trong mộng nói mộng . Lăng xăng lộn xộn,
vội vội vàng vàng, lấy giả làm chơn, trái không quên sắc.
Ðầu sọ khô cài hoa dắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông
hương, cắt lụa là che đậy máu tanh, dồi son phấn át thùng
phân thúi. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp. Không thể
nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu.
Hết
thảy các người! Giống hệt con rối, đều nhờ sợi tơ kéo
rút, đùa đến đùa đi, cùng sanh một thứ, sau khi buông đi,
thật là đáng chết. Tự khởi muôn việc tính toán, đều
do lục tặc công phá. Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ
thích sắc tài rượu thịt. Luống đua đầu lằn sừng ốc,
cam chịu lợi ràng danh buộc. Trọn ngày dồn sức mong cầu,
tối lại trở thành mộng tưởng. Chất chứa nghiệp dơ như
giếng, chẳng biết tóc bạc như sương. Một hôm bệnh nặng
trầm kha, trăm năm trọn về mộng lớn. Tim gan đau đớn dường
thể oán thù, thân thể ốm gầy giống như quỷ đói. Còn
muốn cầu đảosống dai, nào biết sát sanh hại mạng. Chỉ
mong biết đời sống như tùng bá, đâu ngờ thân thể ví tựa
nhà xiêu. Hồn phách tuy về cõi quỷ, thi hài vẫn còn ở nhân
gian, tóc lông răng móng chưa kịp tiêu, đàm dãi máu me đều
chảy trước. Rữa nát thì máu mủ chảy trào, hôi hám ắt
xông trời ngộp đất, đen nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật
đáng tởm. Chẳng luận giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc
để trong nhà thì dòi đục tửa sanh, hoặc ném ra đường
quạ ăn chó xé. Người đời đều bịt mũi đi qua, con hiếu
thì lấy chiếu mền quấn dấu. Nhặt thu hài cốt, chôn cất
thịt xương. Quan quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã,
mã mồ giao cho muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng,
ngày nay xương trắng tro đen, Khi mưa lệ rơi thì mây sầu
thê thảm, khi gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu. Ðêm
vắng thì quỷ khóc thần sầu, năm dài thì ngựa giày trâu
đạp. Lửa đom đóm lập lòe trong đám cỏ xanh, tiếng dế
ngân nỉ non cạnh hàng dương liễu. Bia ghi nữa chìm rêu xanh
phủ, tiều phu dẫm mãi thành lối mòn. Dầu cho văn chương
cái thế, giả sử tài sắc nghiêng thành, chung cuộc đâu có
đường khác, cuối cùng cũng chỉ một lối đi. Mắt bị sắc
dẫn, trèo lên cây kiếm; tai theo tiếng lôi, tiến lên núi
đao; ý chua cay vạt dầu sôi nung nấu. Nhân gian trọn một
trăm năm, trong địa ngục mới là sáng tối.
Nếu
người tác gia đủ mắt, cần phải sớm gấp hồi quang, chuyển
thân nhảy khỏi vòng sanh tử, khoảng khảy tay cắt đứt lưới
ái ân. Dù là nam hay nữ thảy đều tu được; dầu rằng trí
hay ngu trọn đều có phần. Nếu chưa đạt được Phật tâm,
Tổ ý hãy trước nương trì giới tụng kinh. Ðến lúc Phật
cũng chẳng phải, Tổ cũng chẳng phải, thì giới gì trì,
kinh nào tụng. Nơi sắc huyễn cũng là chơn sắc, ở thân phàm
cũng là thân Phật. Phá sáu thức làm sáu thần thông, dạo
tám khổ thành tám tự tại.
Tuy
nói thế ấy, mà mỗi người vào trong sắc thân rồi bỏ đó
thật khó thay!
Hết
thảy các người! Chỉ sắc thân này lại làm sao giải thoát?
Nếu chưa giải thoát, cần phải nghe đây:
Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau. Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh, Sương biếc bên trời, dãy núi cao. |
RỘNG
KHUYẾN PHÁT |
Ở
đời cái quý tột chỉ là vàng ngọc mà thôi. Nhưng xét kỹ
chỗ quý tiếc ấy, chẳng bằng thân mạng. Ví như có người
giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ròng làm
giáp để che chở cho thân. Ðến khi lâm chiến binh đao bị
thua, hoặc cởi giáp ném gươm mà chạy, mong được thân mạng
an toàn mà thôi, giáp vàng ròng chẳng bằng cái quý thân mạng,
đây là thực vậy.
Ngày
nay không thế, trái lại quý vật kia mà khinh thân này. Chẳng
biết thân này khó được có ba. Thế nào là ba?
1.-
Trong lục đạo chỉ có người là quý, đến khi nhắm mắt
đi rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến. Hoặc vào
đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la chẳng được
làm người. Ðây là cái khó được thứ nhất.
2.-
Ðã được làm người, lại sanh nơi mọi rợ, tắm thì đồng
sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ty không có, nam
nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe
chư thánh giáo hóa. Ðây là cái khó được thứ hai.
3.-
Ðã được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân
thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt, còng,
gù; miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp. Thầy chẳng được
gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường
thể ở ngoài quê vắng. Ðây là cái khó được thứ ba.
Nay
đã làm người, được sanh nơi phồn thịnh lại đầy đủ
sáu căn, đâu chẳng là quý sao? Người đời luôn luôn đuổi
theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân
mạng rất quý báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh.
Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào
có khác gì. Tuy thân mạng thực là quý trọng, vẫn chưa quý
trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử nói: "Sớm nghe
đạo, chiều chết cũng vui". Lão Tử nói: "Tôi sở dĩ có hoạn
lớn, vì tôi có thân". Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả thân
cứu cọp đói. Ðâu chẳng phải ba bậc thánh nhân đều khinh
thân mà trọng đạo đó sao? Than ôi! Thân mạng thật lá quý
trọng còn phải xả để cầu vô thượng Bồ đề, huống
là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại tiếc sao? Ở trong
ấp mười nhà vẫn có người trung tín, huống là cả thế
gian há không có người thông minh sáng suốt sao? Ðã nghe lời
này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trể. Kinh
nói: "Một phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại",
thật là thống thiết. Cho nên Khổng Tử nói: "Người không
chịu làm, tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy".
Rõ
ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyễn tứ
đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm trong trần lao,
mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận. Chẳng biết
một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái
thế cũng chỉ là một trường đại mộng, phú quý kinh nhân
khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc
thành không, khoe giỏi khoe hay cứu cánh chẳng thật.
Núi sông bại hoại mấy anh hùng. Ðầu xanh chưa mấy lúc, tóc bạc đã sớm điểm sương, ngày vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hình hài buông lòng tham mê tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai. Sông yêu chìm
nổi lúc nào thôi,
Chẳng nguyện vượt ra lối nghiệp, chỉ vì có công phu. Vua Diêm La chợt truy tìm, Thôi tướng công há cho triển hạn. Ngoái đầu nhìn người thân chẳng thấy, đến đây rồi nghiệp báo tự mang. Quỷ vương, ngục tốt mặc sức khảo tra, cây kiếm núi đao khôn chống đở. Hoặc nhốt dưới ngọn núi lửa, hoặc giam trong núi Thiết vi. Vào vạt dầu sôi muôn kiếp ngàn đời, bị chặt chém một đao thành hai khúc. Ðói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi. Suốt ngày luôn chịu khổ đau, năm trăm kiếp chẳng thấy hình bóng. Trả xong tội nghiệp trở vào luân hồi. Bỗng mất thân người khi trước, trở lại mang lấy đãy da. Ðội lông mang sừng, hàm sắt dây yên, lấy thịt nuôi người dùng mạng trả nợ. Sanh bị khổ dao bầm chày nện, sống bị nạn nước sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt. Khi đó mới hối hận, học đạo không nhân. Chi bằng ngày nay tu tập, chớ để đời này trôi qua. Ðức Phật Thích Ca trước bỏ hoàng cung đi thẳng vào núi Tuyết. Cư sĩ Bàng Long Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu. Chân Vũ chẳng tiếc ngôi vua chỉ cầu tu hành. Lữ Công đã làm thần tiên vẫn còn tham vấn. Tô Ðông Pha thường gần Phật Ấn, Hàn Văn Công lại lễ Ðại Diên, Bùi Công bị đoạt hốt nơi Thạch Sương, Phòng Tướng hỏi pháp ở Quốc Nhất. Diệu Thiện không nhận phò mã, thành Phật không ngờ, Lục Tổ mới gặp khách nghe kinh liền tỉnh ngộ. Ðạo Thiền nếu không thú vị, hiền thánh sao chịu quy y, Hoa Lâm cảm hóa hai cọp theo luôn, Ðầu Tử có ba con chim báo sáng. Lý Trưởng giả giải kinh mà thiên trù dâng cơm. Tu Bồ Ðề ngồi yên mà Ðế Thích tán hoa. Ðạt Ma một chiếc dép về Tây, Phổ Hóa rung chuông bay đi. La hán đến tham vấn với Hòa thượng Ngưỡng Sơn, Nhạc Ðế quy y với Thiền sư Tư Ðại, Cảnh Sơn đến nay vẫn được Long vương thỉnh cúng. Tuyết Phong ngày xưa hay sai người gỗ phá non. Ðây là những nguyên do để nghiệm biết, chớ tự khinh mà lui sụt. Chồn hoang còn nghe Bá Trượng nói pháp. Loài ốc sò vẫn biết hộ kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật được hóa làm con trời. Năm trăm chim quạ nghe tiếng pháp thảy được làm hiền thánh. Mãng xà nghe sám hối được sanh thiên. Rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Chúng là loài vật còn hay lãnh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm. Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống, qua mất một đời. Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn mà không thức tỉnh. Ðâu biết tánh giác Bồ đề mỗi mỗi viên thành, nào hay căn lành Bát nhã người người đầy đủ. Chớ luận đại ấn tiểu ấn, thôi phân tại gia xuất gia. Chẳng cuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản tâm. Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng. Người chưa rõ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật. Huống là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu muốn vượt khỏi vòng quanh lục đạo, chỉ có con đường tắt nhất thừa. Cần tìm chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi mới là vào cửa, hành được mới hay thoát tục. Bước bước đạp trên đất thật, đầu đầu đều đội hư không. Khi dùng thì muôn tánh toàn bày, buông đi thì mảy bụi chẳng lập. Vượt đến chỗ không còn tương quan sanh tử, cơ liễu ngộ quỷ thần nhìn chẳng ra. Là phàm là thánh đồng vào đường này, hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ. Thật ngộ như thế, còn kẹt giữa đường. Thôi nói tam huyền hướng thượng, cốt rõ một câu rốt sau. Hãy nói hiện nay cái gì là "một câu rốt sau?" Non xanh chốn
ấy nhìn trời rộng,
|
LUẬN VỀ THỌ GIỚITịnh
giới tiếng Phạn gọi là Ba La Ðề Mộc Xoa. Sở dĩ chư Phật
ba đời được thành đạo không vượt ngoài giới. Nên nói:
"Người có phá giới, được gọi là Tỳ kheo, người không
phá giới gọi là ngoại đạo". Ðây là chỉ người có thọ
giới cùng người không thọ giới. Thọ giới rồi lại phá
còn gọi Tỳ kheo; huống là người thọ tất cả tịnh giới,
lại kiên trì giữ gìn! Cho nên hiện tại Bồ tát lấy đây
(giới) mà độ sanh; vị lai người tu hành do đây (giới) mà
giải thoát. Kinh nói: "Giới như đất bằng, muôn điều lành
từ đó sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới
như hòn ngọc sáng, hay phá mờ tối. Giới như chiếc thuyền,
hay đưa người qua biển. Giới như chuổi anh lạc,trang nghiêm
pháp thân".
Người
có tội phải sám hối, nếu không sám hối thì tội càng sâu.
Một phen mất thân này, muôn kiếp chẳng được lại. Ngày
nay tuy an, sáng mai khó bảo đảm. Nên giữ giới pháp này,
chóng qua sanh tử. Thờ Phật làm thầy, trước phải y theo
giới luật. Cổ Ðức nói: "Qua sông phải dùng bè, đến bờ
chẳng cần thuyền". Ðây là cổ nhân dùng giới luật làm
thuyền bè. Song người nay chẳng dùng thuyền bè qua sông, mà
được đến bờ kia, thật ít thay!
LUẬN TỌA THIỀNPhàm
người học đạo chỉ cầu kiến tánh. Tuy thọ được tất
cả tịnh giới, mà không tọa thiền thì định lực chẳng
sanh; định lực chẳng sanh thì vọng niệm không diệt, muốn
được kiến tánh thật khó vậy. Ðức Phật Thích Ca vào núi
Tuyết, ngồi ngay thẳng sáu năm, chim cáp làm tổ trên đầu,
cỏ tranh mọc xuyên qua bắp vế, mà thân tâm thản nhiên. Tử
Cơ ngồi tựa ghế, thân như cây khô, tâm tợ tro tàn. Nhan
Hồi ngồi quên, tay chân rã rời. Ðuổi thông minh, lìa ngu
trí, đồng với đại đạo. Ðó là các bậc thánh hiền trong
tam giáo ngày xưa, đã từng ngồi định.
Song
đi đứng nằm ngồi đều là thiền, không phải chỉ riêng
ngồi. Nhưng vì đi thì cất bước, đứng thì nhọc nhằn,
nằm thì mờ mịt mà yên tỉnh, yên tỉnh thì cái nghĩ sanh,
nghĩ sanh thì niệm khởi. Muốn dứt các niệm nên tập ngồi
thiền định, nếu khi ngồi không dứt các niệm, tâm khỉ
đua nhảy, ý vượn chạy rong, hoặc vọng tưởng mà biết
tiền trần, hoặc vô ký mà quên tự tánh. Tựa giường tựa
vách, nhắm mắt che tròng, ngủ gục nước miếng chảy, đầu
cúi xương sống cong. Tuy giả danh là tọa thiền, mà ngồi
dưới núi đen, trong hang quỷ. Cho nên thiền sư Hoài Nhượng
nói: "Mài gạch muốn làm gương" là nói về người này vậy.
Vả
lại, thiền có bốn thứ:
1.-
Tạo kế khác, ưa trên chán dưới mà tu, gọi là "Ngoại đạo
thiền".
2.-
Chánh tín nhơn quả, cũng ưa trên chán dưới mà tu, gọi là
"Phàm phu thiền".
3.-
Rõ lý sanh (nhân) không, chứng đạo thiền chơn mà tu, gọi
là "Tiểu giáo thiền".
4.-
Ðạt nhân, pháp đều không mà tu, gọi là "Ðại giáo thiền".
Nay
người hậu học, cần lấy "Ðại giáo thiền" làm chánh. Nơi
đây tập tọa thiền dứt niệm, chớ sanh kiến giải.
LUẬN VỀ GIỚI, ÐỊNH, TUỆPhàm
tất cả người tu hành đều do hai việc: chán sanh, tử. Bỏ
cha mẹ vợ con, xuất gia cầu đạo, phụng thờ đức Phật
làm thầy. Noi theo đường tắt của chư Phật chỉ có kinh
mà thôi. Song trong kinh nói ra duy giới, định, tuệ. Luận giải
thoát nói: "Giới, định, tuệ gọi là đạo giải thoát". Giới
là oai nghi. Ðịnh là chẳng loạn. Tuệ là nghĩa giác tri. Lấy
giới để trừ ác cấu, lấy định để trừ triền cấu,
lấy tuệ để trừ sử cấu. Cho nên dùng giống thiện này
(giới, định, tuệ) mà theo đạo gọi là Sơ thiện, Trung thiện.
Hậu thiện. Giới là sơ thiện, định là trung thiện, tuệ
là hậu thiện.
-
Giới là sơ thiện: vì tinh tấn trì giới thành tựu bất thối
nên mừng. Vì mừng nên nhảy nhót, vì nhảy nhót nên cử động,
vì cử động nên vui, vì vui nên tâm không định.
-
Ðịnh là trung thiện: do thân cử động nên dừng, do dừng
nên tâm trụ, do tâm trụ nên biết như thật.
-
Tuệ là hậu thiện: do thấy biết như thật nên chán ghét,
do chán ghét nên lìa dục, do lìa dục nên giải thoát.
Vì
thế dùng giới trừ ác thú, dùng định trừ Dục giới, dùng
tuệ trừ tất cả cõi. Nương theo giới, định, tuệ này mà
tu, tức là đường tắt của chư Phật.
LUẬN GƯƠNG TUỆ GIÁOTuệ
sanh từ sức định. Nếu tâm định thì gương tuệ sanh, nếu
tâm loạn thì gương tuệ diệt. Cũng như chiếc gương bằng
đồng trước phải nhờ mài giũa, sau mới trong sạch soi sáng.
Nếu chẳng mài giũa thì tỳ vết bụi nhơ phủ tối. Ðã bị
bụi nhơ phủ ánh sáng làm sao sanh? Cho nên trí tuệ do định
hiện, định tuệ nương nhau không thể thiếu một.
Nếu
mượn danh tọa thiền, tâm chưa được định mà gương tuệ
sanh thì không bao giờ có. Tuy có tánh tuệ mà không tập tọa
thiền, tự cho đã có tuệ thì cần tọa thiền làm gì? Người
như thế, tuy có tuệ mà không sáng suốt. Nếu khi thiền định,
tâm chưa được định mà muốn cầu tuệ, ví như sóng gió
chưa dừng mà mong thấy bóng mặt trăng. Nếu tâm đã định
lại sanh tà giải, cầu mong được tuệ, cũng như sóng gió
đã lặng, bóng trăng lóng trong mà lại lấy tay muốn vớt
bóng trăng trong nuớc, khi nào được thấy.
Tổ
sư nói: "Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch".
Lại nói: "Tịch tịch tinh tinh phải, tịch tịch vô ký sai.
Tinh tinh tịch tịch phải, tinh tinh loạn tưởng sai".(*) Tinh
tinh tịch tịch phải, tịch tịch tinh tinh là thuốc, vô ký
loạn tưởng là bệnh. Nếu thân có bệnh phải nhờ thuốc
đối trị, thân đã bình định còn gì phải trị. Nếu được
như thế thì định tuệ thành tựu.
Chú
thích: (*) Trong chánh văn: "Tịch tịch tinh tinh thị vô ký,
tinh tinh tịch tịch thị loạn tưởng". Nguyên bản của thiền
sư Huyền Giác: "Tịch tịch tinh tinh thị, tịch tịch hôn trầm
phi". Có lẽ ở đây in sót mấy chữ.
LUẬN VỀ NIỆM PHẬTPhàm
niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện,
khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện. Tâm khởi ác là niệm
ác, sanh nghiệp ác thì ứng nghiệp ác. Như gương hiện ảnh,
tợ bóng theo hình. Cho nên thiền sư Vĩnh Gia nói: "Ai vô niệm,
ai vô sanh?" là nghĩa này vậy.
Nay
học giả muốn khởi chánh niệm để dứt ba nghiệp, cũng
nhờ công phu niệm Phật. Thế nào là niệm Phật được dứt
ba nghiệp? Vì khi niệm Phật thân ngồi ngay thẳng, không làm
hạnh tà là dứt thân nghiệp. Miệng tụng chân ngôn, chẳng
nói lời tà là dứt khẩu nghiệp, Ý gắng tinh tấn, chẳng
khởi tà niệm là dứt ý nghiệp. Song người trí có ba bực:
1.-
Bậc thượng trí thì tức tâm tức Phật, chẳng nhờ tu thêm.
Niệm tức là trần, chẳng cho một điểm. Niệm trần vốn
tịnh, nên gọi như như bất động, tức là thân Phật. Thân
Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng tướng không
hai, lặng lẽ thường còn chẳng biết, đó là Phật sống.
2.-
Bậc trung trí ắt nương niệm Phật. Chú ý chuyên cần, niệm
niệm chẳng quên, tự tâm thuần thiện. Niệm thiện đã hiện,
niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu chỉ còn niệm thiện.
Do niệm là ý niệm, nên niệm niệm diệt đó. Khi niệm diệt
ắt về chánh đạo. Lúc mạng chung được vui Niết bàn: thường,
lạc, ngã, tịnh, là Phật đạo vậy.
3.-
Bậc hạ trí miệng siêng niệm lời Phật, tâm muốn thấy
tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật. Ngày đêm siêng
năng tu hành, không thối chuyển. Sau khi mạng chung, tùy niệm
thiện đó được sanh về nước Phật. Sau được chư Phật
dạy bảo chánh pháp, chứng được Bồ đề cũng vào quả
Phật.
Ba
bậc trên sâu cạn chẳng đồng, chỗ được là một vậy.
Song bậc thượng trí nói thì dễ mà hành thì khó. Người
thời nay muốn theo gương học, toàn không có chỗ gá nương,
trọn trông bờ rồi lui rất khó đặt chân. Bậc trung trí
nếu hay siêng tu như lời nói ở trên thì tức khắc thành
Phật. Nếu như lậu chưa hết mà lâm chung, tùy quả báo kia
trở lại thọ sanh ở đời, nhận quả báo thiện. Quả báo
thiện đã hết, không có người đánh thức, trở lại rơi
vào đường ác. Như thế đó cũng là khó vậy. Bậc hạ trí
lấy niệm Phật làm nấc thang, lấy tinh tấn làm cây thang,
chú ý duyên lành, nguyện sanh về nước Phật. Siêng năng không
lười biếng, tâm tánh thuần thục. Sau khi mạng chung, tùy
theo sở nguyện được sanh về nước Phật. Ðã sanh vế nước
Phật thân đó không bao giờ mất.
Người
học thời nay, đã được thân người, ba nghiệp đồng có,
mà chẳng dùng niệm Phật, cầu sanh về cõi Phật, đâu chẳng
khó sao? Như muốn niệm Phật, tức lấy bậc hạ trí làm trước.
Tại sao? Vì có chú ý vậy. Ví như xây đài ba tầng, mà chẳng
dùng tầng dưới làm trước thì không thể có vậy.
|
TỰA |
NÓI
RỘNG |
Bàn
Sơn để lời rằng: "Một con đường hướng thượng ngàn
thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng".
Khiến người học các nơi thảy nhằm trên đầu đường này
tham lấy ý thiền. Thử hỏi các ông, ý thiền làm sao tham?
Nếu tham được việc ấy, lại như kẻ ngu trên đầu thêm
đầu, dưới đuôi thêm đuôi, trong mắt thêm bụi, trên thịt
thêm bướu. Nói đến thì môi méo miệng lệch, nhìn đến
thì tròng mắt rơi rớt. Ðức Phật đứng bên liếc mắt nhìn,
Tổ Ðạt Ma tựa góc châu mày, Mã Tổ treo phất tử, Thù Sơn
dấu trúc bề, Triệu Châu rách nát vải thô, Vân Môn dẹp
bỏ bánh hồ, Ðức Sơn ném phắt cây gậy, Lâm Tế im hơi.
Phật Phật Tổ Tổ đều ẩn dấu, người người đều tan
mật. Dùi không thể vào, kim không thể dung, đầu đồng cũng
không thể tiến được, trán sát vọt cũng chẳng thủng. Lửa
nháng còn không đuổi kịp, điện xẹt cũng còn sau đuôi.
Tịnh ngộ thì chìm trong làng say, động mê thì đi trên đường
sanh tử, giả sử được phó chúc trên hội Linh sơn trọn
là một đường bày vẽ. Thiếu Thất truyền riêng cũng là
hang dây bò. Mặc dù ông có cơ dường điện chớp, tiếng
hét liền ngộ, nói thao thao như dòng nước chảy; câu thoại
đầu liền tiến được, tham qua tham lại, lâu ngày chầy tháng,
trên miệng tạm có chút ít lưu loát, đâu không khỏi thân
vẫn ở trong hang ổ.
Này
các người! đến trong đây cũng chẳng được vượt qua một
mức, người học ngã nhào phóng mắt nhìn bờ thẳm rất khó
bề tiến bước. Hôm nay tôi vì tất cả các người, chẳng
khỏi vuốt râu trên miệng cọp, bước khỏi đầu sào. Chỗ
nói gió khua tùng vang, chỗ nín trăng rọi đầm trong. Khi đi
thì mây bay nước chảy, lúc đứng thì non yên núi vững. Lời
lời là kế sống đức Thích Ca, câu câu vốn gia phong Tổ
Ðạt Ma. Buông đó thì chữ bát mở toang, nắm đó thì một
cửa không kẻ hở. Tại trong hang quỷ làm lầu các Di Lặc,
ở dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Chốn
chốn là đại quang minh tạng, cơ cơ đều bất nhị pháp môn.
Mặc cho tối đi sáng lại, ngại gì mây che trăng khuất. Minh
châu trong tay, xanh thì rọi xanh, vàng thì rọi vàng, gương
sáng trên đài Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Ðâu
quan hệ gì thân huyễn trọn là pháp thân. Chẳng nhọc trên
đảnh phóng quang, vốn đủ sáu thần thông dụng. Hất nhào
cung điện Ma vương, lột trần tâm can ngoại đạo. Biến đại
địa thành thế giới hoàng kim, khuấy trường hà làm tô lạc
cho người trời, trong lỗ mũi pháp luân thường chuyển, dưới
chân mày chùa báu hiện tiền. Trên sóng gái đá múa diệu
bà sa, người gỗ thổi sáo ca khoản đãi. Hoặc gặp trường
thì đùa cợt, hoặc được chỗ thì mở rộng lòng. Hoặc
duỗi tay dìu dắt, hoặc quay về núi rừng. Khi lười biếng
thì ngủ mây gối đá, khi hứng thú thì vịnh gió ngâm trăng.
Dạo chơi nơi quán rượu phòng trà, cười đùa nơi bờ hoa
rặng liễu. Hoa vàng rợp rợp đều là tâm Bát nhã, trúc biếc
xanh xanh vốn thực lý chân như. Vạch cỏ hiện bản lai diện
mục, đào đất dứt đường hiểm sanh tử. Xoay đầu ngựa
sắt đánh lối về, xỏ mũi trâu đất dắt đi hành khước.
Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật vẫn còn?
Phật cũng phi, tâm cũng phi; chơn cũng vào, giả cũng vào. Ngoài
cửa tam yếu mặc tình hét hai làm ba, chữ thập đầu đường
tha hồ gọi chín làm mười. Sáo không lỗ thổi bản vô sanh,
đàn không dây khảy bài khoái hoạt (vui sống). Kìa nơi nơi
chẳng phải tri âm, đây chốn chốn đâu cho nghe lỏm.
Chỉ
một con đường hướng thượng xưa nay làm sao nói? Dốt! Lửa
này chưa từng đốt miệng. Lắng nghe! Lắng nghe! Nếu nghe
được lời này thì tai điếc ba ngày, nếu chẳng nghe được
chạy qua nhanh. Lại trao cho chẳng?
Nhà nhà có lối thẳng Trường An. Trở về dưới nguyệt người ít đến, Một ánh trăng soi khắp mọi miền.
Sưu
tầm và đánh máy: Thanh-Sơn
VA-2002 (PL. 2546) Source : http://www.buddhismtoday.com |