Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
Hòa thượng Thích Chơn Thiện
( Trung Bộ kinh III) ( Từ Kinh 101 đến Kinh 152 ) II. Tổng quát Trung Bộ Kinh 3 gồm có 52 kinh, trong đó có 23 kinh Thế Tôn giảng tại tịnh xá Cấp Cô Độc, ở Thắng Lâm, thành Xá Vệ ( Sàvatthì ); chín kinh giảng ở tịnh xá Trúc Lâm ( Ràjagaha ); bốn kinh giảng tại Lộc Mẫu Giảng Đường ( Sàvatthì ); bốn kinh giảng tại các nơi dân chúng Thích Ca (Sakka) ; một kinh giảng ở Trùng Các Giảng Đường ( Vesalì ); một kinh giảng tại Kusinara ( địa phương Thế Tôn nhập Niết Bàn); số còn lại giảng tại các nơi khác nhau khác. Năm mươi hai được phân ra năm phần : 1. Phần một ( từ kinh 101 đến kinh 110 ) : Phần Thị Trấn Các Sakka.
1. Phần một : Nhiều kinh đối thoại với các Bà-la-môn ngoại đạo : chỉ rõ các tà kiến của ngoại đạo. 2. Phần hai : Phần Bất Đoạn - Kinh 120 : đặc biệt nói đến
sự toại ý chọn cảnh giới thác sanh ...
3. Phần ba : Phần Không Tánh Phần nầy có nhiều giáo lý tuyệt
đặc biệt :
4. Phần bốn : Phần Phân Tích - Toàn 10 kinh nói lên đặc tính
"Phân tích" (vibanga) của giáo lý Phật giáo nói chung, và của
10 kinh thuộc phần nầy nói riêng...
5. Phần năm : Phần Lục Xứ Phần nầy rất đặc biệt và rất cần thiết cho công phu thiền quán hằng ngày, và công phu hộ trì các căn, rất trí tuệ và rất thiết thực... Đây là nội dung hành trì dành cho các căn cơ trí tuệ... III. Tổng luận 1. Với 20 kinh đầu của Trung Bộ Kinh I là đã đầy đủ cho một Tỷ kheo có nhận thức rõ về sự thật của cuộc đời, con người, hạnh phúc và khổ đau, nhận thức rõ về các hành động của thân, khẩu, ý dẫn đến hại mình, hại người, hại cả hai, hay lợi mình, lợi người, lợi cả hai, dẫn đến khổ đau hay hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Riêng Trung Bộ Kinh 3, cũng lập lại nội dung của 20 bản kinh đầu ấy, nhưng được Thế Tôn giảng dạy với ngôn ngữ khác biệt và bằng phương cách khác biệt. Điểm đặc biệt về giáo lý của Trung Bộ Kinh 3 nổi bật một số điểm tiêu biểu như được trình bày trong phần tiếp theo dưới đây. 2. Điểm giáo lý nổi bật tiêu biểu trong Trung Bộ 3 : 2.1. Có một số kinh trình bày dưới dạng thức "tổng thuyết" và "biệt thuyết"; phần biệt thuyết do các tôn giả đại đệ tử của Thế Tôn triển khai. Đây có thể được xem là điểm bàn rộng mở đầu cho các bộ luận về sau. 2.2. Trung Bộ 3 có nhiều kinh nhấn mạnh đến an trú "Không tánh" như là Phạm trú, Thánh trú, Phật trú mà quá khứ, hiện tại và vị lai đều thế. 2.3. Phần Lục xứ, Thập Nhị xứ, Thập bát giới, Ngũ uẩn; Ngũ đại, Lục đại, 18 thọ v.v... được nhiều kinh Trung Bộ 3 đề cập rất phong phú, đa dạng, minh bạch giúp cho người đọc thấy rõ sự phát triển văn huệ của tự thân, tâm lắng, nghiệp tiêu (ít, nhiều) ngay tại thời xem kinh; và giúp người đọc thấy rõ ràng công phu giải thoát, mà nếu muốn, đang ở trong tầm với của mình. 2.4. Địa bàn tu tập, qua Trung Bộ 3, tự hiện rõ nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu súc và 18 thọ: giác tỉnh từ cảc xúc, các thọ là điểm khởi động của giải thoát mà mỗi người có thể cảm nhận ngay trong hiện tại. 2.5. Trung bộ 3 cũng đề cập rất rõ các nét cương yếu về giáo lý về Nghiệp (Kamma) như đã được đề cập điển hình ở kinh "phân biệt nhỏ" và "phân biệt lớn" về Nghiệp. Tại đây, hai kinh nầy, có thể là tiếng nói đại diện cho Trung Bộ Kinh (toàn tập) cắt nghĩa về sự sai biệt giữa những cá nhân trong loài người. Cận tử nghiệp, mà yếu tố chánh kiến và chánh tín có mặt trước lúc mệnh chung quyết định cảnh giới thác sinh, thay đổi lộ trình chuyển kiếp, là một điểm giáo lý đặc biệt trí tuệ! 2.6. Định nghĩa về "Chánh tư duy" trong Trung Bộ 3 (vô dục, vô sân và vô hại tư duy) là một định nghĩa đặc biệt gợi ý cho các nhà nghiên cứu Phật học thấy rằng (có thể phát biểu như thế) "lý thuyết" "Bất Bạo Động" (ahimsa) của Thánh Gandhi (Ấn Độ) bắt nguồn, hay chịu ảnh hưởng rất lớn từ giáo lý Phật Giáo. 2.7. Thái độ "thuyết pháp" mà không tán thán, không chỉ trích trong kinh 139, Trung 3, hiện rõ sắc thái giáo dục, văn hoá của Phật Giáo rất đặc thù. 2.8. Tại Trung 3, các giáo lý ngoại đạo, lục sư ngoại đạo, được đề cập một số nét giáo lý khá rõ giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu, đối chiếu tôn giáo học. 2.9. Qua Trung 3, kinh cho thấy mối giao dịch, quan hệ giữa giáo hội của Thế Tôn và các giáo hội Bà-la-môn ngoại đạo: cả hai bên đều có chủ động trao đổi. Dù có nhiều nhà ngoại đạo đầy kiêu ngạo, đầy thù nghịch đến với Thế Tôn, nhưng Thế Tôn vẫn giữ nghiêm thái độ rất trí tuệ, hiểu biết, ôn hòa biểu hiện rõ châm ngôn của Phật Giáo là :"Chỉ có đời tranh chấp với Phật Giáo, mà không có sự việc Phật Giáo tranh chấp với đờỉ. 2.10. Cũng có rất nhiều giáo chủ ngoại đạo, Bà-la-môn tiếng tăm lừng lẫy tán thán quy ngưỡng Thế Tôn : một số trở thành đệ tử tại gia của Ngài, một số xuất gia đắc Thánh Quả. 2.11. Nhiều vua chúa, hoàng thân, vương tử, đại thần,..., cũng đến Giáo chúng học đạo và đã được Thế Tôn làm sáng tỏ chủ trương của Thế Tôn là bình đẳng giai cấp: giá trị mỗi người là ở thái độ sống, hành động thiện hay ác, chánh hay tà, vị tha hay vị kỷ, mà không ở màu da, chủng tộc, dòng họ hay tiếng tăm ở đời... 2.12. Trung Bộ Kinh cũng soi sáng, rất tỏ, ý nghĩa "Trung đạo tu tập" của Phật Giáo là Bát Thánh Đạo tránh xa hai thái cực hưởng thụ dục lạc và khắc kỷ, khổ hạnh, ép xác; và ý nghĩa "Trung đạo nhận thức" là "Duyên khởi" tránh xa chấp thường chấp đoạn. Tất cả các điểm ghi trên chỉ là một số điểm xuyết, bạn đọc cần tự mình đọc kỹ từng dòng kinh mới đón nhận được giải thoát, hỷ lạc cho tự thân. -ooOoo- |
[Trích giảng Trung Bộ] last updated: 26-11-2003