Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
Kinh
Ngắn : Ví Dụ Lõi Cây
( Cùlasàropamasuttam
)
Lesser Discourse
On The Simile of The Pith
Hòa thượng Thích Chơn Thiện
I.
GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
Giới thiệu vài nét về Lục sư ngoại đạo Purana Kassapa, Makkhali-Gosalà, Ajita Kesa-Kumbala, Pakudha Kàtyayana, Saĩjaya Belatthaputta, và Nigantha Nàtaputta, và các chủ trương của lục sư ngoại đạo: 1. Purana Kassapa: Ông là nhà khổ hạnh lõa thể, chết năm 572 trước Tây lịch. Theo kinh Phạm Võng, Trường Bộ kinh I, chủ thuyết của ông gọi Phi nghiệp hay Vô nhân - Akiriyavàda hay Ahetuvàda. Theo ông, khi một người hành động hay khiến người khác hành động, thì không phải linh hồn hành động hay khiến người khác hành động. Linh hồn thực sự vô hành, ở ngoài kết quả của nghiệp thiện, ác. Thực tại cũng ở ngoài thiện, ác. 2. Makkhali-Gosàla: Theo kinh Sa Môn quả, lý thuyết của ông là "Luân hồi tịnh hóa" (Samsàra-suddhi). Theo lý thuyết này, tất cả các người phàm, trí theo thời gian luân hồi, sẽ chuyển hóa đi đến chỗ toàn thiện. 3. Ajita Kesa-Kambala: Chủ trương duy vật. Có thể nói là chủ trương đoạn diệt luận: Cá nhân chết là hết. Khi chết các nội đại trở về với các ngoại đại - đất, nước, gió, lửa; các căn trở về hư không. 4. Pakudha Kàtyayana: Chủ trương lý thuyết bảy phạm trù. Theo ông, không có hành động giết, nghe, biết, giảng dạy trong thực tế. Chỉ có hành động tách rời các đại. Khi một người chặt đôi một cái đầu với thanh gươm, thực sự không có giết chết một người, mà chỉ có sự việc thanh gươm đi vào giữa bảy yếu tố. 5. Saijaya Belatthaputta: Ông được xem là vị nổi tiếng nhất chủ trương Hoài nghi thuyết. Học thuyết của ông được hiểu là "Bất khả tri luận" (Agnostics), hay Hoài nghi luận (Sceptics), học thuyết "Trườn uốn con lươn" (Eel Wrigglers). Tôn giả Sàriputta là môn đệ của ông trước khi quy hướng đức Phật và trở thành vị Tướng quân Chánh Pháp. 6. Nigantha Nàtaputta: Học thuyết của phái Ni-kiền-tử nầy, theo kinh Sa Môn quả, Trường Bộ kinh I, là chủ trương "bốn tự chế", nhờ bốn tự chế (xem Sa Môn quả) này mà Ni-kiền-tử tự chủ và toàn thiện. II. NỘI DUNG TIỂU KINH VÍ DỤ LÕI CÂY 1. Như phần giới thiệu điểm xuyết trên về sáu học thuyết của lục sư ngoại đạo, đó là các tà thuyết, tà kiến. Do đó mà các giáo chủ ngoại đạo không bao giờ có thể là các bậc Chánh Đẳng Giác, hay Nhất Thiết Trí được. Thế nên, Bà-la-môn Pingalakoccha sau khi nghe các vị giáo chủ ấy tự xưng chứng Nhất Thiết Trí đâm ra ngờ vực, đến bạch hỏi Thế Tôn sự thật. Đức Thế Tôn tế nhị không trả lời thẳng câu hỏi của Pingalakoccha, mà chỉ nói lên kinh ngắn Ví Dụ Lõi Cây giới thiệu toàn bộ lộ trình giải thoát như Pháp cho đến quả vị giải thoát sau cùng: "Bất động giải thoát tâm", gián tiếp xác định rằng: Ai đã đi suốt lộ trình giải thoát, Ai đã vạch ra trọn lộ trình giải thoát ấy mới là Bậc Nhất Thiết Trí - chỉ có Bậc Nhất Thiết Trí mới có thể chuyển vận bánh xe Pháp. 2. Các bước đi giải thoát, cơ bản là tương tự phần giới thiệu ở kinh dài Ví Dụ Lõi Cây. Tuy nhiên, kinh số 30 này có sự trình bày lộ trình giải thoát rất đặc biệt như được trình bày dưới đây; 1) Thành tựu Giới.Chính chứng Diệt thọ tưởng định là an trú Tâm giải thoát bất động, thành tựu mục đích phạm hạnh. Cần phân biệt ý nghĩa thành tựu Định (điểm 2) ở trên chỉ là sự thành tựu sức mạnh tập trung (samatha) của ngoại đạo, hay ngoại đạo thường thực hiện; riêng từ Sơ thiền Sắc định đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định cũng là ý nghĩa thành tựu định, nhưng đây là Định uẩn của Phật giáo vốn có mặt trí tuệ tẩy trừ cấu uế tâm, tẩy trừ tham ái và xả các nội thọ (không trước dính nội thọ). Phần Thiền định Phật giáo có nét đặc thù, không tìm thấy ở ngoại đạo, là Thiền quán, tuệ quán (Vipassana). Nhờ sự phát triển trí tuệ mới có thể chứng đắc Diệt thọ tưởng định là định ở ngoài kinh nghiệm của ngoại đạo. Không có trí tuệ về sự thật như thật, và không chứng đắc Diệt thọ tưởng định thì không bao giờ có thể tự xưng là Nhất Thiết Trí. Đây là câu trả lời cho câu hỏi của Bà-la-môn Pingalakoccha. III. BÀN THÊM 1. Bà-la-môn Pingalakoccha là một trí thức thời đức Phật, sau khi nghe kinh ngắn Ví Dụ Lõi Cây đã thấy được "dấu chân voi", dấu chân của bậc "Nhất Thiết Trí", đã nhận ra Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác duy nhất ở đời và đã quy y bậc Đạo Sư, trọn đời quy ngưỡng. Sắc thái đặc thù của những ai thực hiện đúng con đường giải thoát của Phật giáo là trung thành với trí tuệ Vô ngã, không chấp thủ các sở đắc, các tri kiến, hoàn toàn thực hiện ly tham ái đối với bất cứ hiện hữu nào ở đời, giữa khi ngoại đạo thì đắm trước các thành quả của Giới, Định và các tri kiến, đắm trước tự ngã. Do không đắm trước mọi hiện hữu, mọi thành quả tu tập, đức Thế Tôn, và các đệ tử của Ngài, đoạn trừ hết các sanh y, lậu hoặc, chứng đắc "Bất động tâm giải thoát", giác ngộ, Niết bàn. 2. Diệt thọ tưởng định là định khi an trú thì thọ, tưởng uẩn bị diệt, hay ngũ uẩn diệt-không hoạt động; ngũ uẩn diệt tức khổ diệt: đây là thành tựu của phạm hạnh. 3. Đọc xong bản kinh 30, tên gọi "Lõi Cây" còn để lại âm hưởng bên tai; hình ảnh Lõi Cây hiện rõ trong tâm như đang thầm nói với hành giả rằng: thật là vô lý nếu người tu dừng lại ở bất cứ thành tựu nào của công phu trên đường về! Thật là ngớ ngẩn nếu người đi tìm lõi cây lại đem về các cành lá, vỏ cây và giác cây! Thật là vô minh, nếu người khát vọng chân lý và hạnh phúc lại tham trước tham ái, và các đối tượng tham ái, tham trước tiếng tăm và lợi dưỡng! Sứ mệnh của đệ tử Thế Tôn là tìm về "Bất động tâm giải thoát", và giúp những người khác tìm về. -ooOoo- |
( Nguyên Trừng đánh máy theo ấn bản do Hòa Thượng Chơn Thiện trao tặng)
[Trích giảng Trung Bộ] last updated: 08-05-2003