Người Cư Sĩ [ Trở Về ]
(Nguyên tác: 'The Not-self Strategy' của Tì khưu Thanissaro. Việt dịch: TKN Giải Nghiêm) (Bản quyền 1993, Thanissaro Bhikkhu. Nguồn www.accesstoinsight.org version 1993. Có thể sao, in, phổ biến bất kỳ ở đâu. Tuy nhiên, sự phổ biến phải hoàn toàn miễn phí, theo nguyện vọng của tác giả, các bản dịch và trích dẫn cũng phải được ghi rõ như vậy.) |
Các
sách vở Đạo Bụt thường trình bày rằng giáo lý siêu hình
căn bản nhất của đạo Bụt là không có linh hồn hay không
có Ngã. Tuy nhiên, tham cứu một vòng các Kinh điển trong tạng
Pali - văn kiện xưa nhất ghi lại lời dạy của Bụt - lại
đưa ta đến giả thiết Bụt dạy giáo lý Anatta hay thuyết
'Không Phải Ngã,' không phải như một xác nhận siêu hình,
mà như là một biện pháp nhắm đến giải thoát khổ đau.
Nếu dùng khái niệm 'không phải là tôi' để vô hiệu hoá
sự đồng nhất mình với bất cứ hiện tượng nào, người
ta sẽ vượt ra ngoài vòng của mọi khổ đau và ràng buộc.
Và 'cái vượt ra ngoài vòng khổ đau & ràng buộc' ấy --
Kinh Tạng nói rằng -- tuy có thể chứng nghiệm, nhưng lại
nằm ngoài phạm vi của sự diễn tả, và do đó cả ý niệm
'Ngã' lẫn 'không phải Ngã' đều không thể áp dụng.
Bằng chứng cho cách giải thích này tập trung quanh bốn điểm: 1/ Đoạn Kinh khi Bụt được yêu cầu xác định lập trường trong câu hỏi mang tính bản thể học 'Có hay Không có Ngã', Ngài đã từ chối trả lời. 2/ Những đoạn Kinh khẳng định tuyệt đối rằng không có ngã chỉ ứng trong phạm vi những thực tại có thể diễn tả được, chứ không bao gồm hết thảy thực tại có thể chứng nghiệm được. 3/ Quan niệm không-có-ngã được xếp cùng với quan niệm có-ngã như những 'quan niệm gông cùm' ('Kiến Phược') mà một người hướng đến giải thoát khổ đau phải hết sức tránh. 4/ Người đã đạt được mục đích giải thoát nhìn thực tại mà tâm không còn bị khống chế bởi bất cứ một ý niệm nào, kể cả những ý niệm căn bản như Ngã & Vô Ngã, đúng & Sai. Tiếp theo đây là những đoạn Kinh liên hệ, chọn lọc từ tạng Pali. Những đoạn Kinh này được dẫn với lời cảnh báo trước rằng: nói cho đến tận cùng thì không thể chứng minh xác quyết một điều gì bằng sự trích dẫn văn kiện. Các học giả đã nêu ra những lý lẽ để ngờ vực hầu như toàn bộ Kinh Tạng - qua việc đưa ra cách dịch mới cho những từ ngữ cốt lõi, hay đặt vấn đề về tính trung thực của hầu hết các đoạn Kinh. Và vì vậy, cách kiểm chứng đúng nhất cho bất kỳ một lối diễn dịch nào là thực hành theo và xem nó dẫn mình đến đâu trong chiều hướng giải thoát. ******* |
1. So sánh hai cuộc đối thoại sau đây: Sau khi ngồi qua một bên, lãng tử Vacchagotta hỏi bậc đạo Sư: 'Vậy, Sa Môn Gotama, có ngã không?' Khi được hỏi như vậy, bậc Đạo Sư im lặng. Mogharaja: _ Nhìn đời như thế nào Này Mogharaja, Nhìn đời như không huyễn. Thần Chết không thấy được. Nhưng, cách diễn dịch này đã bỏ qua hai câu nói đầu tiên của Bụt với Ananda: Bất kỳ ai là người hỏi, trả lời Có hay Không Có Ngã đều sẽ rơi vào hai triết thuyết (biên kiến) mà Bụt luôn tránh trong suốt cuộc đời giáo hoá của Ngài. Trong câu nói thứ ba, Bụt quan tâm đến việc tránh mâu thuẫn với 'kiến giải tất cả mọi hiện tượng đều không-phải-Ngã', không phải vì Ngài cho rằng tự thân kiến giải này là một chân lý siêu hình, mà vì Ngài thấy rằng sự phát khởi kiến giải này có thể dẫn đến giải thoát. (Chúng ta sẽ xem thêm nội dung của kiến giải này ở điểm 2.) Điểm vừa nêu được xác minh khi ta đem so với đoạn Kinh thứ hai. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai cuộc đối thoại nằm ở những câu hỏi. Trong cuộc đối thoại thứ nhất, Vacchagotta xin Bụt xác quyết có hay không có Ngã, và Bụt im lặng. Trong cuộc đối thoại thứ hai, Mogharaja hỏi cách nhìn cuộc đời để có thể vượt ngoài tầm cái Chết, và Bụt trả lời, Ngài dạy nhìn cuộc đời mà không dính đến một ý niệm nào về Ngã. Điều này làm gợi ra giả thiết: giáo lý không-phải-ngã (Vô Ngã/Phi Ngã), thay vì là một khẳng định rằng không có ngã, lại là một kỹ thuật nhận thức để đưa đến vượt thoát sinh tử, đạt được Niết Bàn, - đây là một cách nhận thức sự vật vắng bóng sự tự đồng nhất, vắng bóng cảm giác 'là tôi, có tôi', và không có sự ái luyến đối với cái 'tôi' và cái 'của tôi' xen vào. Do đó, có lẽ trung thực hơn cả là đánh giá cuộc đàm thoại thứ nhất theo nghĩa đen của nó, và nói rằng câu hỏi có hay không có Ngã là câu hỏi mà Bụt không trả lời, không xác nhận có hay không, dù người đối thoại là một người rối loạn tinh thần như Vacchagotta hay một người ưu tú như Ananda. Với Bụt, giáo lý 'không-phải-Ngã' (not-self) là một kỹ thuật hay một pháp môn hướng đến giải thoát, và không phải là một lập trường về siêu hình (metaphysical) hay bản thể (ontological.) ******* |
2.
Những đoạn Kinh sau đây, thường được trích dẫn chung như
những chứng cớ hùng hồn nhất rằng Bụt phủ nhận sự
tồn tại của một cái Ngã dựa vào những từ ngữ không
cố định (lỏng lẻo) nhất. Dù sao, hãy lưu ý xem các từ
'thế giới' và 'toàn thể' được định nghĩa như thế nào.
Bụt đáp: Vì trống rỗng, không có Ngã hay cái gắn liền với Ngã (ngã sở.) Do đó nói rằng thế giới là không, là trống rỗng. Những gì là trống không, không có Ngã hay Ngã Sở? Con mắt trống một cái Ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. Sắc ... nhãn thức ... nhãn xúc (sự tiếp xúc giữa nhãn căn và sắc trần) trống một cái ngã hay một cái gì gắn liền với ngã. Tai ...Mũi ...Lưỡi ...Thân ... Trí năng (ý căn) không có ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. ý niệm (pháp) ... ý thức ... ý xúc (sự tiếp xúc giữa ý căn và pháp trần) không có ngã hay một cái gì gắn liền với ngã. Vì vậy nói rằng
thế giới là không, là trống rỗng.
Cái gì là Toàn Thể? Mắt & hình sắc, tai & âm thanh, mũi & mùi hương, lưỡi & vị nếm, thân & xúc chạm, ý & pháp trần. Này các tì khưu, đó gọi là Toàn Thể. Người nào nói rằng 'bỏ cái Toàn Thể này, tôi sẽ diễn tả một cái khác', nếu bị hỏi căn cứ vào cái gì mà nói như vậy, người đó sẽ không giải thích được, và phải chịu thất bại. Vì sao? Vì vì cái đó nằm ngoài phạm trù. S.xxxv.23
Sariputta: Này hiền hữu, đừng nói như vậy. MahaKotthita: Với sự dừng & tắt hẳn của sáu xứ, có phải là không còn gì nữa? Sariputta: Này hiền hữu, đừng nói như vậy. MahaKotthita: ..., có phải là vừa còn vừa không còn không? Sariputta: Này hiền hữu, đừng nói như vậy. MahaKotthita: ..., có phải là vừa không phải còn vừa không phải không còn? Sariputta: Này hiền hữu, đừng nói như vậy. MahaKotthita: Hỏi ... còn có cái gì khác không, thầy nói 'Này hiền hữu, đừng nói như vậy.' Hỏi ... có phải không còn gì nữa, ... có phải vừa còn vừa không còn, ... có phải vừa không còn vừa không không còn, thầy (đều) nói: 'Này hiền hữu, đừng nói như vậy.' Vậy, phải hiểu lời nói đó như thế nào? Sariputta: Nói
... còn cái gì khác, ... không còn cái gì khác, ... vừa còn
vừa không còn, ... vừa không còn vừa không không còn, là
phân biệt cái không (thể) phân biệt. Ở đâu có sáu phạm
trù của xúc, ở đó có phân biệt. ở đâu có phân biệt,
ở đó có sáu phạm trù của xúc. Cùng với sự dừng tắt
hẳn, không còn gì sót lại (tận diệt) của sáu phạm trù
của xúc là sự dừng lại, giảm đoạn của phân biệt.
Này các tì khưu, giới xứ đó được chứng nghiệm nơi mà mắt (tầm nhìn) dừng lại và sắc tưởng (chú giải của tâm ý) phai nhạt. Giới xứ đó được chứng nghiệm nơi mà tai dừng lại và thanh tưởng phai nhạt, ... nơi mà mũi dừng lại và hương tưởng phai nhạt, ... nơi lưỡi dừng lại và vị tưởng phai nhạt, ... nơi mà thân dừng lại và xúc tưởng phai nhạt, ... nơi ý dừng lại và tư tưởng phai nhạt: Giới xứ đó cần phải được chứng nghiệm.S.xxxv.116
Một đoạn Kinh khác thường được dẫn với ý Bụt dạy rằng không có Ngã là bài kệ sau đây trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), đặc biệt đoạn kệ thứ ba, trong đó từ Pháp nhằm chỉ cho các sự vật hữu vi & vô vi (do & không do nhân duyên hợp thành.) Nhưng, xin hãy lưu ý, điều mà toàn bài kệ muốn nói là: những tuệ giác này là một phần của con đường (Đạo), và không phải là cứu cánh. 'Chư hạnh đều vô thường' _Chúng ta sẽ thấy trong đoạn Kinh dưới đây, Bụt nói hành giả đạt đến giác ngộ do thấy được những giới hạn của các pháp hữu vi, thấy được cái vượt lên trên chúng, và không nắm chấp cái nào cả. Trong bài kệ kế tiếp, người đặt câu hỏi nhắc đến cứu cánh như là một pháp, trong khi đó, Bụt lại trình bày cứu cánh như là sự cắt bỏ, chấm dứt tất cả mọi pháp - và do vậy, cứu cánh vượt lên trên 'mọi pháp' và bất kỳ một diễn đạt nào. Một khi hành giả đã thành tựu cứu cánh thì, đến đây, không một ngôn từ nào -- hữu, vô, ngã, phi-ngã - có thể áp dụng được. Upasiva: Sn.v.6 |
3.
Mặc dầu khái niệm 'không phải Ngã' (Phi Ngã/vô ngã) là một
phương tiện giúp người ta tự tháo gỡ khỏi những tham đắm
& bám víu dẫn đến khổ đau, nhưng quan niệm không có
ngã lại là một trong những quan niệm về siêu hình hay bản
thể trói buộc người ta vào khổ đau.
Có trường hợp một người phàm phu, không được hướng dẫn ... không phân biện được ý tưởng nào là đáng quan tâm, ý tưởng nào là không đáng quan tâm. Do vậy, người đó không để tâm đến những ý tưởng đáng quan tâm, và (thay vào đó) chú trọng vào những ý tưởng không đáng quan tâm... Người ấy bận tâm một cách không thích đáng như vầy: 'Trong quá khứ tôi đã hiện hữu? Trong quá khứ tôi đã không hiện hữu? Trong quá khứ tôi đã là gì? Trong quá khứ tôi đã như thế nào?Đang là một cái gì bây giờ, vậy tôi đã là gì trong quá khứ? Trong tương lai tôi sẽ hiên hữu? Trong tương lai tôi sẽ không hiện hữu? Trong tương lai tôi sẽ trở thành gì? Trong tương lai tôi sẽ như thế nào?Đang là một cái gì bây giờ, vậy tôi sẽ là gì trong tương lai?' Hoặc người ấy hoang mang về chính hiện tại: 'Tôi đang hiện hữu? Tôi không hiện hữu? Tôi là cái gì? Tôi như thế nào? Sự hiện hữu này từ đâu tới? Sự hiện hữu này đi về đâu?' ---- M2 |
4. Như vậy, mặc
dầu trên đường đi hành giả phải sử dụng Chính Kiến,
nhưng khi đạt đến cứu cánh giải thoát, người ấy vượt
qua mọi quan niệm (kiến.) Với người đã đạt đến cứu
cánh, kinh nghiệm xảy ra mà không có 'chủ thể' hay 'đối
tượng' chồng chất thêm vào, không có sự phân giải kinh
nghiệm (năng tri) hoặc cái được kinh nghiệm (sở tri.) Chỉ
kinh nghiệm, đơn thuần trong tự thân nó.
Này các tì khưu, trong vũ trụ -- với các chúng thiên,, ma & Phạm, các dòng Sa Môn & Phạm Chí, quý tộc & thường dân -- bất cứ cái gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nhận biết, được đạt tới, được theo đuổi, được cân nhắc bởi ý căn: Ta đều biết rõ. Trong cõi này... bất cứ cái gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nhận biết, được đạt tới, được theo đuổi, được cân nhắc bởi ý căn: Ta đều trực tiếp biết (chánh tri.) Cái ấy được biết bởi Như Lai, nhưng Như Lai không bị đắm nhiễm bởi nó...Một quan niệm chỉ đúng hay sai khi người ta xét nó đúng đắn đến đâu so với một tiêu chuẩn nào đó. Nếu chỉ xem đó đơn thuần là một lời nói, một sự việc như tự thân nó, thì đúng và sai không còn áp dụng được. Như vậy, với Như Lai, người không còn gán các ý niệm chủ thể hay đối tượng vào kinh nghiệm, chỉ xem hình sắc, âm thanh, cảm thọ & tư tưởng hoàn toàn như chính tự thân chúng, thì các quan niệm không còn là đúng hay sai, mà chỉ là những hiện tượng để cảm nghiệm. Không có ý niệm chủ thể nên không có chỗ đứng cho 'Tôi biết, tôi thấy', không có ý niệm đối tượng nên không có chỗ đứng cho 'Nó chính là như vậy!' Các ý niệm (Kiến) về đúng - sai, Ngã - Không Có Ngã (hữu - vô), v.v., mất hết quyền năng nắm giữ của chúng, và tâm được trả về với Chân Như: không bị động chạm, hay ảnh hưởng bởi bất cứ gì. thấy người khác thua mình cũng tức là cùm xích, theo lời bậc trí tuệ. sẽ phân tranh vì chúng. Với người không chấp nhiễm đối với ba điều trên, 'bằng', 'hơn' không xuất hiện. Căn cứ vào điều gì để Bà La Môn (A La Hán) bảo là 'đúng' hay là 'sai', Tranh chấp cùng với ai khi tự thân vị ấy chẳng khởi 'hơn', 'kém', 'bằng. Như loài sen có gai không vấy bởi bùn nhơ, Bậc trí giả bình an, vô tham, không cấu nhiễm bởi dục và thế giới. Bậc đã đắc trí tuệ thì không thể đo lường hoặc làm cho hãnh diện bởi Kiến hay tư tưởng, vì người ấy không còn bị lung lay bởi chúng. Vị ấy không bị dẫn bởi lễ nghi, tập tục hay trích dẫn giáo điều. Với người không bị cuốn (thản nhiên) đối với tưởng thì không có trói buộc; Với người đã giải thoát nhờ thấy được rõ ràng, thì không còn ảo tưởng. Những ai còn nắm bắt vào kiến và vào tưởng thì vẫn còn loay hoay tranh chấp trong thế giới. "Vaccha, 'chỗ
trụ' (lập trường) là cái Như Lai đã diệt bỏ rồi. Điều
mà Như Lai thấy là: "Sắc là như vậy, sự sinh khởi của
sắc là như vậy, sự tan biến của sắc là như vậy; thọ
là như vậy, sự sinh khởi của thọ là như vậy, sự tan biến
của thọ là như vậy; tưởng là như vậy...; ý hành là như
vậy...; thức là như vậy, sự sinh khởi của thức là như
vậy, sự tan biến của thức là như vậy." Chính vì vậy,
ta nói rằng, -- với sự giảm, đoạn, dừng lại, xả &
ly đối với mọi chia chẽ, mọi toan tính, mọi ngã kiến &
ngã sở kiến & ngã ái - Như Lai được giải thoát, do không
còn sự bám víu/thức ăn (cho triền phược.)
Cho dù bốn luận điểm trên có phải là lời dạy của Bụt hay không, điều quan trọng phải nhớ là mục tiêu cơ bản của Bụt khi trình bày giáo lý không-phải-ngã (Vô Ngã) trước nhất là: để những ai áp dụng giáo lý này có thể đạt được giải thoát khỏi mọi khổ đau & bức chế.---- D 1 - "Bạch Thế Tôn không." - "... Ta cũng vậy...Này các tì khưu, các thầy nghĩ sao: Nếu có ai gom, đốt, hay tùy ý làm gì đó với cỏ, lá, nhánh cây trong vườn Kỳ Đà này, thì ý tưởng'Chính mình là cái người ấy đang gom, đốt, hay tùy ý làm gì đó' có khởi lên nơi quý thầy không? - "Bạch Thế Tôn không. Vì sao vậy? Vì những cái kia không phải là Ngã, cũng không gắn liền với Ngã." - "Chính như vậy,
này các tì khưu, cái gì không phải của mình: Hãy buông nó
ra. Buông nó ra để được lợi lạc lâu dài. Cái gì không
phải là của mình? Sắc không phải là của mình... Thọ không
phải là của mình... Tưởng...Hành...Thức không phải là của
mình. Hãy buông nó ra. Buông nó ra để được lợi lạc lâu
dài."
- "... đam mê & mong cầu sắc, thọ, tưởng, hành, & thức." - "... vì trông thấy những nguy hiểm (hay bất lợi) nào mà thầy ông dạy điều phục đam mê & mong cầu đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức?" - "... khi một người không có tự do đối với những đam mê, mong cầu, ưu ái, khát khao, nhiệt não & thèm muốn đối với hình sắc, v.v..., thì từ bất cứ một thay đổi & biến dịch nào nơi hình sắc đó, v.v..., buồn, đau, than khóc, tiếc thương & tuyệt vọng cũng khởi sinh ra." - "... và do thấy được ích lợi gì mà thầy ông dạy sự điều phục đam mê & mong cầu đối với hình sắc, v.v...?" - "... Khi một
người có tự do đối với đam mê & mong cầu,ưu ái, khát
khao, nhiệt não & thèm muốn đối với hình sắc, v.v...,
thì từ bất cứ một thay đổi & biến dịch nào nơi hình
sắc đó, v.v..., buồn, đau, than khóc, tiếc thương & tuyệt
vọng cũng đều không khởi sinh ra."
Từ trước đến nay, Anuradha, ta chỉ trình bày về Khổ và sự dừng lại Khổ. ('The
Not-self Strategy' của Thanissaro Bhikkhu,
Việt dịch: TN Chân Giải Nghiêm (tu chỉnh May, 2007)) |
[ Trở Về ]