Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang chủ ]
Tọa lạc trên ngọn đồi Singuttara cao 58m so với mặt biển, giữa một mặt bằng 5,6 ha, tháp chùa Schwedagon lóng lánh dưới nắng từ sáng đến tối. Nhưng đẹp nhất là vào cuối chiều, những lớp vàng trên tháp phản chiếu ánh mặt trời sắp lặn, cho dội ra những tia sáng huyền ảo trong một bầu không khí mát dịu vì nhiệt độ trong ngày đang dần dần tiêu tan. Đúng vào lúc nầy, sở tan, trường đóng, từng đợt gia đình lũ lượt kéo nhau lên chùa lễ bái. Đây chính điện, thiền đường tương đối nhỏ, không đủ chỗ cho tất cả mọi người. Tín đồ nếu không múc nước tắm các tượng, đi dạo vòng quanh chùa, trên các dải chiếu trải quanh hay trên nền gạch, theo đường kim đồng hồ như tục lệ ở mọi chùa Phật khác, thì quỳ khấn, sụp lạy ngay trong sân chùa, khắp nơi, trước các ngôi tượng cũng như trước các bức tường. Mà thật sân chùa vô cùng sạch sẽ nhờ hằng ngày nhiều chục các cô các bà sắp thành hàng ngang cùng bước cùng quét, hòng mong đóng góp "công đức" cho gia đình, con cái và cả cho chính mình, ở đời nầy cũng như ở kiếp sau. Trời dần tối thì chùa cũng lên đèn. Ngọn tháp dần dần sáng chói trên nền trời đen thẩm, huyền diệu như viên ngọc bích trong tủ gương, một bảo vật cao 98 m đặt trên một cái nền 6,4 m nên trông như một tháp mẹ giữa một đàn tháp con.
Chùa Tháp Vàng Schwedagon ở Miến Điện Võ Quang Yến
Thật vậy, đi quanh kinh đô Yangon của xứ Myanmar (Miến Điện) từ đâu cũng dễ thấy tháp vàng chùa Schwedagon. Có bốn lối vào chùa đầy cửa hàng bán hàng cúng và vật lưu niệm cho khách du lịch hay kẻ hành hương. Hai bên đường cửa tây là một dảy tu viện kyaung nên còn giữ vẻ cổ kính thời trước. Cửa chính zaungdan nằm ở phía nam, có thang máy cho người yếu sức như ở cửa bắc. Hai bên cửa, hai tượng sư ưng chinthe khổng lồ 9 m đứng giữ. Chúng không có vẻ dữ tợn nhưng từ đây vào chùa phải đi chân không nên trong chùa không có tiếng lộp độp guốc dày ồn ào. Tháp chính zedi là một công trình đầy đặc dựng theo lối cổ truyền Miến Điện. Ở dưới là ba thềm vuông pichaya, chồng ở trên là các thềm bát giác trước khi đến năm thềm tròn, một cách để chuyển những thềm vuông qua hình tròn. Và những hình tròn nầy cũng là một phương tiện để chuyển những thềm nằm ngang ở dưới lên những thành phần dựng thẳng, thon mảnh phía trên : một hình chuông klaunglaung bon đường kính 105 m, những dải vòng đốt baungyit cao 12,5 m, hai vòng cánh sen sấp và ngữa kyahlan cao 9,5 m, một hình chén lật ngữa thabeik rồi một hình bắp chuối hnget pyawbu cao 16 m. Nếu ở dưới chỉ có những lá vàng che phủ, ở trên 13.153 tấm vàng 30 cm vuông trang hoàng phần hoa sen và bắp chuối. Trên cùng là một vành hti hình dù, bằng sắt mạ vàng, cao 10 m, gồm có bảy tầng, nặng hơn một tấn. Vòng nầy thon dần thành một mũi nhọn mang 1065 chuông vàng nhỏ bằng vàng, 420 chuông nhỏ bằng bạc, một cái chong chóng cao 4,6 m xoay theo chiều gió và một quả cầu seinbu. Cái chong chóng mạ vàng và bạc, khảm 1383 viên đá quý, rubi, xaphia, topa, và 1100 viên kim cương tổng cộng 270 cara còn quả cầu cũng khảm 4351 viên kim cương tương ứng với 1800 cara và trên chóp một viên kim cương độc chiết 76 cara. Mỗi năm, tháp phải được mạ vàng lại và 53 m khối đã được dùng năm 1955 !
Chùa Schwedagon không chỉ có tháp chính nầy. Nhiều tháp nhỏ hơn bao quanh nó, đặc biệt bốn cái ở bốn hướng, bốn cái ở bốn góc chân tháp xung quanh có những người sư tử manoktikavà sư ưng chinthe ngồi chầu, và 60 cái quanh chu vi làm thành một rừng zedi, phần lớn mạ vàng hay ít nhất cũng ở trên nóc, đua nhau sáng chói suốt ngày đêm. Trong số các tháp nầy có một cái đặc biệt gồm có tám hốc dành cho tám đức Phật ngồi giữ tám con thú tượng trưng cho tám hành tinh, tương đương với tám phương hướng kết hợp với tám ngày trong tuần : voi có ngà (Thủy tinh, nam, sáng thứ tư), rắn naga (Thổ tinh, tây nam, thứ bảy), chuột (Mộc tinh, tây, thứ sáu), voi không ngà (Rahu, tây bắc, chiều thứ tư), chuột lang (Kim tinh, bắc, thứ sáu), chim garuda (mặt trời, đông bắc, chủ nhật), cọp (mặt trăng, đông, thứ hai) và sư tử (Hỏa tinh, đông nam, thứ ba). Xen lẫn với các tháp là những điện đủ loại như điện thờ đất, thờ mặt trời, thờ mặt trăng, cùng các hành tinh : Thủy, Thổ, Hỏa, Mộc, Rahu (hành tinh thần thoại), điện Konagamana với những tượng xưa nhất của chùa thờ những vị Phật trước đức Gautama, điện Kakusandha với bốn bức tượng ngữa gan bàn tay lên trời, điện Tazaung arakanais với tượng đức Phật nằm dài 8,5 m, điện Shin Itzagone với đức Phật mắt to lạ thường, điện đức Phật làm phép lạ, điện U Nyo với những tranh gỗ chạm kể lại sự tích đức Phật, điện những dấu ấn đức Phật, điện thờ Gautama mà uy thế sẽ kéo dài đến thế kỷ 45, điện Mahabodhi phiên bản của chùa Godh Gaya bên Ấn Độ,... bên cạnh những tượng đặt ngoài trời hay trong tủ kính như tượng vua natThagyamin, tượng thần nat Bo Bo Gyi tức là vị hộ pháp của chùa, các tượng Mai La Mu và Sakka tức là hai nhân vật thần thoại được xem như là phụ mẫu của vua Okkalapa, người sáng lập ra chùa,... Lịch sử của chùa cũng đi đôi với sự tích những cái chuông có tiếng của chùa. Trước tiên là một cái nặng 30 tấn do vua Dhammazedi dâng cúng ; năm 1608, Felipe de Brito y Nicota, người Bồ Đào Nha, muốn cướp đem về đúc súng ca nông, chuông rơi xuống nước mất tiêu. Chuông Maha Gandha, nặng 23 tấn, được vua Singu cho đúc năm 1779 ; đầu thế kỷ 19, người Anh muốn đem chuông qua Calcutta, chuông cũng rơi xuống nước, lần nầy người dân thành công vớt lên được đưa về chùa cũ. Một cái chuông thứ ba, Maha Tissanda, nặng hơn 40 tấn, do vua Tharrawady biếu tặng năm 1841, đồng thời với 20 kg vàng, hiện nay còn thấy ở chùa.
Người Miến Điện tin là chùa Schwedagon được xây cất từ 2500 năm nay, nhưng những nhà khảo cổ đều nhất trí tháp không thể được dựng trước thời đại môn nghĩa là giữa hai thế kỷ 6 và 10. Tục truyền khi đức Phật còn ngồi định tâm trước gốc cây bồ đề, hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika lại dâng Ngài một cái bánh mật. Để cám ơn, Ngài nhổ tám sợi tóc biếu cho họ. Trên đường về, vua Ajetta cướp hai sợi khi họ băng qua vịnh Bengan, sau đó vua thần rắn naga lại còn chiếm mất hai sợi nữa. Trong lúc đó, vua môn Okkalapa nước Suwannabhumi cầu khấn (có thể ở điện Kannaze mà tượng Phật được gọi là Sudaungbyi nghĩa là "đức Phật chấp thuận ước nguyện của nhà vua") để có được thánh tích. 49 ngày trước khi nhận quà biếu đầu tiên, đức Phật đã xuất hiện báo trước cho nhà vua biết. Thần thoại kể rằng đồi Singuttara, nơi vua Okkalapa ngự trị, xưa kia đã có chứa một cái gậy, một cái gáo nước và một mảnh áo của các đức Phật trước, lâu ngày mất linh thiêng nếu không có thánh tích mới. Vì vậy, khi hai anh em lái buôn đem hộp đựng tóc về thì vua đang chờ đợi, lập tức cho lập đàn cúng tế và mời tất cả các vị thần linh địa phương kể cả các thần nat lại dự. Tất cả đều ngạc nhiên khi mở hộp đựng tóc thì thấy còn đầy đủ tám sợi. Hơn nữa, hộp vừa mới mở thì bổng nhiên hào quang sáng tỏ khắp mặt đất, sấm chớp rực trời, bảo táp nổ dậy rúng động cả núi Meru, cho rơi ngọc quý xuống đến đầu gối, làm hoa nở, trái mọc trên Hy Mã Lạp Sơn mặc dầu không phải đúng mùa... và nhất là gây ra một số phép lạ : người câm biết nói, người mù biết thấy, người điếc biết nghe, người què biết đi,...
Biết là thánh tích rất thiêng, vua truyền cho đem rửa sạch (có lẽ ở giếng cạnh Sandawdwin) và đóng một cái hộp bằng vàng để tạm thời chứa đựng (đặt ở điện Naungdawgyi do chính vua Okkalapa cho cất) trong lúc xây dựng một cái tháp xứng với thánh tích ấy. Khi tháp xây xong, vua lại làm lễ và chuyển tóc qua tháp. Người Miến Điện tin cái tháp nầy gồm có nhiều lớp : ở trong là một cái tháp bằng vàng, sau đó lần lượt được phủ thêm những tháp bằng bạc, đồng, chì, cẩm thạch và ngoài cùng bằng sắt. Mặc dầu linh thiêng như vậy, chùa tháp dần dần bị bỏ quên cho đến đời vua Ashoka mới lại được sửa sang. Qua thời đại Pagan, các vua Anawratha rồi Byinya U de Pegu và Binnyagyan lần lượt cho trùng tu và tiếp tục xây thêm, nâng tháp cao lên đến 90 m. Qua thế kỷ 15, tục lệ dán lá vàng vào tháp bắt đầu. Nữ hoàng Shinsawbu hoàn chỉnh chùa có hình dáng ngày nay, từ đấy lưu danh lâu đời. Bà đích thân dâng chùa 40 kg vàng là trọng lượng của bà để lợp đỉnh chùa. Vua Dhammazedi, rể của bà, và cũng là người kế vị, còn làm hơn : ông cúng chùa bốn lần trọng lượng của ông và vợ ông. Năm 1485, ông cho dựng ba tấm bia kể sự tích chùa bằng ba thứ tiếng Miến Điện, pali và môn, chuyển một truyền thuyết qua một chuyện thật. Rủi thay, nhiều cuộc hỏa hoạn và động đất làm thiệt hại nhà chùa như năm 1768 làm gảy mất chỏm zedi. Vua Hsinbyushin cho sửa lại như ta thấy ngày nay.
Một ngôi chùa kiến trúc đặc sắc như vậy, tượng trưng cho một đất nước thấm nhuần Phật giáo, ai mà không thèm được lại viếng thăm. Trong lòng mỗi người Miến Điện đều có ấp ủ mộng mơ một ngày kia có dịp lại vảng cảnh chùa đồng thời cúng lạy cầu khấn. Tôi được đưa đến đây một buổi chiều xuân, nắng ấm, thẩn thơ dạo quanh cho đến lúc mặt trời lặn. Tháp vàng óng ánh như khêu gợi, quyến rũ khách du hành. Vì vậy, không quản thì giờ, ngại khó khăn, tôi đã tranh thủ để trở lại một lần nữa, cũng vào cuối chiều. Lần nầy hết còn có cái ngạc nhiên thú vị của cuộc khám phá ban đầu, tuy vậy tôi vẫn thích thú tìm được hạnh phúc trong sự chờ đợi một cảnh tượng đã sống, một cảnh đẹp đã trông, và cảm thấy như bị mê hoặc, vì cái thẩm mỹ đã đành, mà tuồng như cũng vì cái vượng khí thiêng liêng của một ngôi chùa từng được xem là một " bí ẩn mạ vàng,... một kỳ quan lừng lẫy" để dùng chữ của Rudyard Kipling đã từng được may mắn lại chiêm ngưỡng nơi nầy.
1988-2006
Võ Quang Yến
[ Trở Về ]