Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Home Page]


Chùa Ðậu
Nguyễn Bá Lăng

Chùa có tên chữ là Pháp Vũ Tự và Thành Ðạo Tự ở làng Gia Phúc huyện Thường Tín, tỉnh Hà-Ðông. Chùa thờ nữ thần Pháp Vũ (một vị trong Tứ Pháp) tục gọi là Bà Ðậu nên chùa thường được gọi là chùa Ðậu.

Theo truyền thuyết, chùa được lập từ thời Sĩ Nhiếp đời Tam Quốc (T.K. III) đồng thời với chùa Dâu (chốn tổ của Tứ Pháp) ở Luy Lâu nay thuộc Bắc Ninh, nhưng theo văn bia thì chùa được lập từ triều Lý. Chùa được trùng tu nhiều lần, lần tu tạo quan trọng đáng kể có lẽ đã được thực hiện vào thời Mạc (T.K. XVI). Di tích là những viên gạch đỏ son có in hình trang trí hoa lá và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566-1577).

Theo bia Dương Hòa năm thứ 5 (1639) thì lại có một cuộc đại trùng tu vào năm 1635 đời vua Lê Thần Tôn do cung tần Ngô Thị Ngọc Nguyên đứng ra làm hội chủ hưng công. Chùa có quy mô rộng lớn như ngày nay, trên căn bản có thể kể là bắt đầu từ thời này. Khuôn viên chính là 1 hình chữ nhật 43m x 32m gồm phía trước là một tòa tiền đường 7 gian 2 chái. Hai đầu phía sau nối vào 2 dẫy hành lang 11 gian thì gian đầu một bên thờ Ðức Ông, một bên thờ Ông Giám Trai, 6 gian sau đắp tượng La Hán và Kim Cương, 2 gian cuối dùng làm phòng ngủ chư tăng. Lưng khuôn viên là hậu đường cũng 7 gian 2 chái như tiền đường. - đây có bàn thờ các vị sư tổ, tượng và bàn thờ hậu và chính phi (bà Ngọc Nguyên ?), có cả tượng và bàn thờ ông đốc công điều khiển việc trùng tu chùa (năm 1635 ?).

Hai đầu hậu đường là 2 phòng của hành lang 2 bên kéo dài. Trong lòng khuôn viên là 2 tòa trung điện và thượng điện dựng trên nền cao, có nhà thiên tượng hay ống muống rộng nối vào nhau từ tiền đường, qua trung điện đến thượng điện thành thế chữ vương là kiểu đặc biệt của chùa này mà không nơi nào có.

Trước mặt tiền đường là 1 sân gạch rộng, hai bên có xây nhà giải vũ 5 gian làm nơi sửa soạn nghi lễ rước sách, hội hè và là nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương. Trước sân dựng 1 gác chuông và 2 cửa phụ ra vào. Gác chuông kiểu đẹp, dưới xây tường, trên lầu gỗ với 8 mái đao góc uốn cong. Hình như tòa gác chuông này đã được tôn nền cao lên để khoảng giữa đủ chiều cao cho kiệu rước đi lọt qua.

Tòa thượng điện và trung điện là phần xưa nhất của chùa. Hai tòa này và cả ống muống, vách bọc chung quanh được làm hoàn toàn bằng gỗ theo kỹ thuật ván đổ nong như ở các kiến trúc xưa, nhưng ở đây trên mỗi thanh đổ đầy đặn đều được trang trí bằng những hình chạm nổi hạt ngọc bốc lửa (hỏa châu). Còn trong mỗi ô cửa sổ thông gió trổ ở 2 bên hông sườn kiến trúc thì chạm thủng tứ linh: long, ly, quy, phượng vùng vẫy, múa chầu giữa những cụm mây lửa hoặc chạm từng chữ thánh thọ vô cương nổi giữa những rồng, phượng, rùa, lân và mây lửa, bố cục sôi nổi. Trên mỗi cây cột lim, chạm 1 ổ rồng hình bầu dục nhọn đầu trong chiều dài của cột. Trong những tai trượng nghiêng, ôm bọc đầu những khuôn cửa, thì chạm tiên nữ đội mũ cánh sen, xòe đôi cánh, dang cánh tay trần, cầm quạt và uốn ngón múa may. Những cánh cửa cũng chạm rồng uốn khúc giữa những cụm mây hoặc trên nền triện gấm, qui tiền1 trổ thủng. Chùa Ðậu vì vậy nổi tiếng là được trạm trổ công phu và rực rỡ trong Kiến trúc Việt Nam.

Mái hai tòa thượng điện, trung điện này cùng ống muống được lợp bằng loại ngói mũi hài cổ đặc biệt là to dầy khoảng cỡ 20 cm x 30 cm x 3 cm.

Nếp tiền đường bên ngoài cũng được đục chạm, trang trí rực rỡ, sống động với những rồng mây, nhưng chỉ ở bộ phận rường kèo bên trên và được tô mầu thuốc phần nhiều là xanh lam và trắng, mang phong dạng của nghệ thuật T.K. XVIII không mạnh và độc đáo bằng hai tòa điện bên trong. Cột kèo của tòa nhà này cũng không to mập, vững vàng như hai tòa kia. Ðáng tiếc là hai tòa điện cổ kính và nổi tiếng về phong cách chạm trổ công phu rực rỡ này đã bị quân đội viễn chinh Pháp đốt cháy năm 19472. Khoảng năm 1952 nhà sư trụ trì chỉ xây cất lại một am gạch kiểu long đình trên nền điện cũ để thờ bà Ðậu; mà không hiểu do may mắn nào mà tượng còn tồn tại được vì thượng điện hay cung cấm chính là nơi thờ Bà. Pho tượng bà Ðậu ở đây có mặt trái soan, tay phải giơ lên đưa hai ngón tay giữa hướng lên trời, là kiểu khác với các tượng Tứ Pháp thờ tại nhiều nơi trong vùng đồng bằng Bắc bộ và có thể coi là đẹp hơn cả.

Chùa xưa có nhiều đồ cổ quý hiếm như bình, choé sứ, quạt tê giác, đai ngà, trống đồng, gương đồng và những hòm áo gấm thất thể do vua Lê, chúa Trịnh dâng cúng. Sau vụ hỏa hoạn do quân Pháp gây ra, bới đống tro tàn, người ta chỉ nhặt lại được cuốn kim phả, là một cuốn sách bằng đồng gồm khoảng chục tờ có khắc sự tích Tứ Pháp và lịch sử chùa. Nhưng cuốn sách này đã bị lửa nóng làm cho cong queo hoặc chẩy nát một phần.

Các chùa thờ Tứ Pháp phần nhiều đều thiết trí theo kiểu: tiền Phật hậu thánh nghĩa là thờ Phật ở đằng trước, thờ thánh ở đằng sau. Vì vậy ở đây tòa thượng điện hay cung cấm là nơi thờ thánh Pháp Vũ (bà Ðậu), căn trước trung điện (chính thức là thượng điện) mới là nơi thờ Phật. - căn ngoài: tiền đường chỉ đắp có hai ông hộ pháp mặc giáp phục ngồi ngang trên lưng sư tử. - hai giẫy hành lang và ở nhà hậu có những bàn thờ và những tượng như đã kể trên. Tại những giẫy nhà này còn dựng nhiều tấm bia đá kể từ T.K XVII đến T.K XVIII. Có nhiều kiểu khác nhau và đẹp như tấm do Bích quận công Vũ Tất Trân dựng mà người soạn văn bia là tiến sĩ Nguyễn Công Thái. Chùa cũng còn bài minh do Tứ Xuyên Bá Phạm Trọng Xuyên soạn khắc trên một chiếc khánh đồng đúc năm 1774 và hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc hai bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1862-1709) và chúa Trịnh Cương (1709-1729).

                Chùa Pháp Vũ

Thanh quang mơn mởn chốn giao quang,
Gấp mấy trần gian mấy thế thường
Cả mở tượng đồ, đô tuệ chiếu
Vẹn gồm khoe lục, lục kim cương
Doành thậu bích hải, doành quanh quất
Sắc ánh từ vân sắc rỡ ràng
Ðức thịnh càng ngày càng hiển ứng
Ðừng thay đừng lạnh dấu dâng hương.

                                            Trịnh Căn

Chùa được một bà cung phi đứng ra hưng công, lại được các vua chúa đến thăm, đề thơ như vậy đủ tỏ rằng là một danh lam đến như thế nào?

Chùa Ðậu nằm ở giữa vùng quê bằng phẳng nhưng có sông Nhuệ chảy phía sau lưng, có hồ nước vòng bọc xung quanh khiến chùa được tạo dựng như một hòn đảo. Do đó quang cảnh cũng khá đặc biệt. Nếu khéo sửa sang tô điểm, hài hòa kiến trúc với thiên nhiên: cỏ thông reo liễu rũ, có cổ thụ, sen hồ thì cũng sẽ xứng đáng với những buổi thịnh trị thời xưa.

Phía tay trái từ ngoài đi vào góc tây nam khuôn viên chính còn dựng thêm một ngôi chùa nữa, gọi là Công Minh Tự. Chùa nhỏ thôi nhưng kiến trúc khá đặc biệt là binh đồ chữ nhật đứng, thờ dọc, mặt tiền mở ra đầu hồi, dưới làm hàng hiên, trên làm mái cong có hai cây trụ gạch đứng trấn hai bên. Mái đầu hồi bên trên làm nhô ra thành điểm dốc, lại thêm một mái hắt trong lòng để che khung bảng đề tên chùa. Chùa có nhiều tượng, tượng đẹp, nét mặt tươi nhuận, từ bi và hầu hết đều sơn thếp rực rỡ. Ngoài hiên có dựng một cây bia đá vuông kiểu cách cổ kính và bên trong có một pho tượng đá sơn mầu trắng, một phiến đá chạm phù điêu đều đáng chú ý.

Tại chùa Ðậu, ngoài những đồ đá, bia, tượng nói trên còn phải kể đến đôi rồng đá ở bậc thềm tiền đường đi xuống sông. Rồng chạm với cái mào mũi khoang và giải tóc lướt dài trên thân mình uốn khúc là nét đặc trưng của mỹ thuật thời Trần.

Và đặc biệt nhất của chùa Ðậu là hai pho tượng hay chính xác hơn là hai nhục thân của hai nhà sư đã tu ở chùa này vào thế kỷ XVII, là thiền sư Ðạo Châu Vũ Khắc Minh và thiền sư Ðạo Tâm Vũ Khắc Trường.

Tương truyền hai vị là người thôn Gia Phúc sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau tu tại chùa Ðậu. Trước khi viên tịch, hai vị có dặn dò đệ tử là khi thấy các ngài ngồi tĩnh tọa, siêu thoát rồi thì hãy cứ để yên vậy một thời gian; nếu thấy có mùi hôi thì hãy đem chôn. Ðệ tử thấy xác không hư thối nên để vậy mà thờ. Có lẽ các vị đã ứng dụng phương pháp dùng lửa tam muội (nhân hỏa) để tự thiêu hủy dần dần các chất hữu cơ dễ hư nát trong người rồi kết tinh, để lại những thành phần ít ô trọc như xương da. (Có thể vì hiện tượng này mà chùa có tên là Thành Ðạo Tự đó chăng? Và rồi phong tục gọi là chùa Ðậu? Những bia cổ của chùa vẫn khắc là Pháp Vũ Tự). Về sau để bảo vệ nhục thân của hai vị được tốt hơn, người ta đã thêm một lớp sơn bó bên ngoài rồi phủ quang dầu lên trên, biến nhục thân thành một loại tượng riêng biệt.

Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngồi theo thế nhập thiền, mình cong gấp xuống vì thời gian, đầu hơi cúi xuống phía trước và thân gầy đét lộ xương da. Sau năm 1931 ở đầu tượng có một vết nứt độ 2mm lộ ra ở bên trong cùng là xương sọ, tiếp đến một lớp bồi dầy từ 2 đến 4 mm, chất bồi là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mạt cưa giã nhỏ, đoạn phủ một lớp sơn ta mầu cánh gián, và ngoài cùng thì phủ quang dầu. Gần đây các nhà nghiên cứu chiếu quang tuyến X, thấy rõ xương cốt còn nguyên vẹn bên trong tượng xác. Pho tượng hiện nay cao 57 cm và nặng 7 kg.

Thiền sư Vũ Khắc Tường là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh, theo tương truyền là người đã cho khắc tấm bia năm Dương Hòa thứ 5 và như vậy là nhà sư đã tham gia trực tiếp vào cuộc đại trùng tu Pháp Vũ Tự vào những năm trước đó. Tượng thiền sư đã bị nước lụt tràn đến (khoảng đầu T.K XX?) làm trôi gẫy làm hai đoạn nên người ta đã gắn lại và tô bọc bằng cát vôi mật, vì thế pho tượng xác này nặng hơn pho kia. Tượng được sơn trắng, tô môi vẽ mắt, ngồi ngay hơn nên vì thế mà kém nét tự nhiên hơn. Hai pho tượng trước kia được thờ trong hai ngôi miếu nhỏ, xây bằng gạch, ở bên ngoài khuôn viên chính, nay được di chuyển vào thờ trong hai khám gỗ tại hậu đường.

Tương truyền là khi công cuộc đại trùng tu chùa Pháp Vũ hoàn tất rồi còn dư nhiều gỗ tốt, bà cung phi Ngọc Nguyên (thường gọi là bà Chúa) cho chôn dìm hàng bè gỗ lim và truyền lại là để dành cho hậu thế. Khi nào cần đến để sửa chữa lại chùa thì vớt lên mà dùng.

Nhưng từ hồi phần chánh điện chùa bị đốt cháy đến nay đã nửa thế kỷ, mà phần này vẫn chưa được phục hồi lại. Gần đây dân làng mới dựng được mấy gian nhà cầu đơn sơ để làm chỗ tạm thờ Phật.

Nguyễn Bá Lăng
Xuân 1996

(1) Qui tiền: hoa văn chạm hình những bát giác như trên mu rùa, những lồng chếch lên nhau thành những dáng đồng tiền có lỗ vuông.

(2) Trong cuộc tuần sát ở vùng này, năm 1947, quân đội Pháp thấy có nhiều thùng dầu tây chứa trong buồn kho chùa, bèn đem ra dội hắt vào tòa thượng điện rồi châm lửa đốt cháy. Dân làng chỉ kịp chữa được có tòa tiền đường, hành lang, nhà hậu chung quanh.



[ Trở Về ]