Bài số :  94

Thơ quan Tham Nghị Masatsune 参議雅経

 

a) Nguyên văn:

み吉野の

山の秋風

さ夜ふけて

ふるさと寒く

衣うつなり

b) Phiên âm:

Mi Yoshino no

Yama no akikaze

Sayo fukete

Furusato samuku

Koromo utsu nari

c) Diễn ý:

Gió thu luồn trong núi vùng Yoshino thiêng liêng

Cho đến khi đêm đã khuya rồi,

Làm cố đô (quê nhà) thêm lạnh.

Đã nghe có tiếng chày đập áo.

d) Dịch thơ:

Gió thu luồn trong núi,
Cho đến tận đêm thâu
Cố đô chừ rét mướt,
Chày vải gợi cơn sầu.

(ngũ ngôn) 

Gió thu núi lạnh đêm thâu,
Tiếng chày đập vải gieo sầu cố đô.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Shin Kokin-shuu (Tân Cổ Kim Tập), thơ thu phần hạ, bài 483.

Tác Giả: Sangi (quan Tham Nghị) Fujiwara no Masatsune (Đằng Nguyên, Nhã Kinh, 1170 – 1221) là một trong những người biên soạn Shin Kokin-shuu. Làm quan trải ba đời thiên hoàng, đến chức tham nghị, tùng tam phẩm.Theo học Shunzei (bài 83) và làm việc ở Viện Thi Ca (Wakadokoro). Ông là tổ tiên của dòng họ Asukai (Phi Điểu Tỉnh), nổi tiếng về thơ waka, thư đạo và đá cầu. 

Lời thuyết minh của Shin Kokin-shuu cho biết bài này vịnh đề tài Đảo Y (Đập Áo), một đề tài cổ điển trong thơ chữ Hán. Tiếng chày gỗ (kizuki) đập áo (hay vải) trên bệ đá (kinuta) để nó mượt mà hơn là hình ảnh của mùa thu hàn đới.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Tiếng chày đập áo trên vùng cố đô khi trời vào thu.

Trong thơ Đường có nhiều thơ nói về cảnh mùa thu, người ta lấy chày đập áo. Nổi tiếng hơn cả có:

Trường An nhất phiến nguyệt,
長 安 一 片 月
Vạn hộ
đảo y thanh.
万 戸 搗 衣 声
Thu phong xuy bất tận,

秋 風 吹 不 尽
Tổng thị Ngọc Quan tình...

総 是 玉 関 情

(Lý Bạch)

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
寒 衣 処 処 催 刀 尺
Bạch Đế thành cao
cấp mộ châm.
白 帝 城 高 急 暮 砧 

(Đỗ Phủ)

Do đó, “đập áo” là hình ảnh của “tình hoài hương”.

Tiếng chày đập áo lúc khoan lúc nhặt trong vùng núi sâu Yoshino gợi lên một không khí cô tịch. Từ Mi đặt trước Yoshino là một chữ tu sức với nghĩa đẹp đẽ, thiêng liêng. Người Nhật khi nói đến Yoshino, ngoài việc liên tưởng đến vẻ đẹp thiên nhiên (tuyết, anh đào) còn nghĩ đến một nơi nay bị bỏ hoang, rơi vào quên lãng. Yoshino được xem là cái nôi, chốn cố hương (furusato) của dân tộc Nhật vì những triều đại đầu tiên (như các Thiên Hoàng đời thứ 15 Ôjin, 21 Yuuryaku và 40 Tenji) đều có ly cung ở đấy.

Hai câu 4 và 5 còn có thể đọc như sau:

Furusato samuku
Samuku
koromo utsu nari

Nghĩa là từ samuku được hiểu 2 lần. Có sự tiếp nối giữa “hàn thôn” và “hàn y”.

Kỹ thuật sử dụng ở đây là honkadori vì bài này lấy một bài thơ vịnh tuyết mùa đông đã có trong Kokin-shuu của Sakanoue no Korenori (bài 31) làm bài thơ gốc (honka) và chuyển sang thơ nói về mùa thu.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cát Dã Thu Phong.
吉 野 秋 風

 

Cát Dã sơn hạ khởi thu phong,
吉 野 山 下 起 秋 風

Thâm dạ phong xuy lãnh nhược băng.
深 夜 風 吹 冷 若 氷

Cố lý hàn thôn tiểu viện lý,
故 里 寒 村 小 院 里

Thì văn thôn nữ đảo y thanh.
時 聞 村 女 擣 衣 声

 

Anh dịch:

Now autumn gusts sweep

Down Mi-yoshino ‘s steep,

And far into the night so drear

The sound of beating of the cloth,

Borne to me on the night-wind forth,

From my lonely village home, I hear.

(Dickins)

From Mount Yoshino

Blows a chill, autumnal wind,

In the deepening night.

Cold the ancient hamlet is;--

Sounds of beating cloth I hear.

(Mac Cauley)

Yoshino trở lạnh

Bashô có thơ vịnh cảnh buổi tối mùa thu lạnh lẽo trên đường lữ thứ ghé qua Yoshino như sau:

Kinuta uchite
Ware ni kikaseyo ya
Shukubô ga tsuma

(Hỡi bà hàng trọ kia ơi,
Tiếng chày đập vải cho tôi nghe cùng).

 

 





Bài số :  94

Thơ quan Tham Nghị Masatsune 参議雅経

 

a) Nguyên văn:

み吉野の

山の秋風

さ夜ふけて

ふるさと寒く

衣うつなり

b) Phiên âm:

Mi Yoshino no

Yama no akikaze

Sayo fukete

Furusato samuku

Koromo utsu nari

c) Diễn ý:

Gió thu luồn trong núi vùng Yoshino thiêng liêng

Cho đến khi đêm đã khuya rồi,

Làm cố đô (quê nhà) thêm lạnh.

Đã nghe có tiếng chày đập áo.

d) Dịch thơ:

Gió thu luồn trong núi,
Cho đến tận đêm thâu
Cố đô chừ rét mướt,
Chày vải gợi cơn sầu.

(ngũ ngôn) 

Gió thu núi lạnh đêm thâu,
Tiếng chày đập vải gieo sầu cố đô.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Shin Kokin-shuu (Tân Cổ Kim Tập), thơ thu phần hạ, bài 483.

Tác Giả: Sangi (quan Tham Nghị) Fujiwara no Masatsune (Đằng Nguyên, Nhã Kinh, 1170 – 1221) là một trong những người biên soạn Shin Kokin-shuu. Làm quan trải ba đời thiên hoàng, đến chức tham nghị, tùng tam phẩm.Theo học Shunzei (bài 83) và làm việc ở Viện Thi Ca (Wakadokoro). Ông là tổ tiên của dòng họ Asukai (Phi Điểu Tỉnh), nổi tiếng về thơ waka, thư đạo và đá cầu. 

Lời thuyết minh của Shin Kokin-shuu cho biết bài này vịnh đề tài Đảo Y (Đập Áo), một đề tài cổ điển trong thơ chữ Hán. Tiếng chày gỗ (kizuki) đập áo (hay vải) trên bệ đá (kinuta) để nó mượt mà hơn là hình ảnh của mùa thu hàn đới.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Tiếng chày đập áo trên vùng cố đô khi trời vào thu.

Trong thơ Đường có nhiều thơ nói về cảnh mùa thu, người ta lấy chày đập áo. Nổi tiếng hơn cả có:

Trường An nhất phiến nguyệt,
長 安 一 片 月
Vạn hộ
đảo y thanh.
万 戸 搗 衣 声
Thu phong xuy bất tận,

秋 風 吹 不 尽
Tổng thị Ngọc Quan tình...

総 是 玉 関 情

(Lý Bạch)

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
寒 衣 処 処 催 刀 尺
Bạch Đế thành cao
cấp mộ châm.
白 帝 城 高 急 暮 砧 

(Đỗ Phủ)

Do đó, “đập áo” là hình ảnh của “tình hoài hương”.

Tiếng chày đập áo lúc khoan lúc nhặt trong vùng núi sâu Yoshino gợi lên một không khí cô tịch. Từ Mi đặt trước Yoshino là một chữ tu sức với nghĩa đẹp đẽ, thiêng liêng. Người Nhật khi nói đến Yoshino, ngoài việc liên tưởng đến vẻ đẹp thiên nhiên (tuyết, anh đào) còn nghĩ đến một nơi nay bị bỏ hoang, rơi vào quên lãng. Yoshino được xem là cái nôi, chốn cố hương (furusato) của dân tộc Nhật vì những triều đại đầu tiên (như các Thiên Hoàng đời thứ 15 Ôjin, 21 Yuuryaku và 40 Tenji) đều có ly cung ở đấy.

Hai câu 4 và 5 còn có thể đọc như sau:

Furusato samuku
Samuku
koromo utsu nari

Nghĩa là từ samuku được hiểu 2 lần. Có sự tiếp nối giữa “hàn thôn” và “hàn y”.

Kỹ thuật sử dụng ở đây là honkadori vì bài này lấy một bài thơ vịnh tuyết mùa đông đã có trong Kokin-shuu của Sakanoue no Korenori (bài 31) làm bài thơ gốc (honka) và chuyển sang thơ nói về mùa thu.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cát Dã Thu Phong.
吉 野 秋 風

 

Cát Dã sơn hạ khởi thu phong,
吉 野 山 下 起 秋 風

Thâm dạ phong xuy lãnh nhược băng.
深 夜 風 吹 冷 若 氷

Cố lý hàn thôn tiểu viện lý,
故 里 寒 村 小 院 里

Thì văn thôn nữ đảo y thanh.
時 聞 村 女 擣 衣 声

 

Anh dịch:

Now autumn gusts sweep

Down Mi-yoshino ‘s steep,

And far into the night so drear

The sound of beating of the cloth,

Borne to me on the night-wind forth,

From my lonely village home, I hear.

(Dickins)

From Mount Yoshino

Blows a chill, autumnal wind,

In the deepening night.

Cold the ancient hamlet is;--

Sounds of beating cloth I hear.

(Mac Cauley)

Yoshino trở lạnh

Bashô có thơ vịnh cảnh buổi tối mùa thu lạnh lẽo trên đường lữ thứ ghé qua Yoshino như sau:

Kinuta uchite
Ware ni kikaseyo ya
Shukubô ga tsuma

(Hỡi bà hàng trọ kia ơi,
Tiếng chày đập vải cho tôi nghe cùng).