Bài số :  92

Thơ bà Sanuki hầu Nijô-in 二条院讃岐

 

a) Nguyên văn:

わが袖は

潮干に見えぬ

沖の石の

人こそ知らね

かわく間もなし

b) Phiên âm:

Wa ga sode wa

Shioi ni mienu

Oki no ishi no

Hito koso shirane

Kawaku ma mo nashi

c) Diễn ý:

Ống tay áo của ta

Giống như hòn đá ngoài khơi.

Nước triều có rút cũng không thấy bóng dáng.

Không có lúc nào khô mà mọi người đâu hay.

d) Dịch thơ:

Ống tay áo đẫm lệ,
Như đá giữa trùng khơi.
Nước triều dầu có rút,
Vẫn ướt mặn mà thôi.

(ngũ ngôn) 

Áo em như đá xa bờ
Triều dù rút cạn, bao giờ mới khô.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái phần 2, bài 760.

Tác giả: Bà Nijô-in Sanuki (Nhị Điều Viện, Tán Kỳ, 1141? – 1217?) là con gái của quan chính tam phẩm (zammi) Fujiwara no Yorimasa (Đằng Nguyên, Lại Chính). Bà lần lượt vào cung hầu hạ Thiên Hoàng Nijô (từ dó mới có yobina như thế) rồi hoàng hậu Ninshi (Nhiệm tử) của Thiên Hoàng Go Toba (tác giả bài 99), tức là người sau được gọi với cái tên xuất gia là Senshuumon-in (Tuyên Thu Môn Viện).

Bài thơ vịnh “mối tình ký thác nơi hòn đá”. Bài này có lẽ đã lấy bài thơ của bà Izumi Shikibu (bài 56 trong tập này) làm thơ gốc. Izumi viết “hòn đá dưới nước”, trong khi Sanuki ví von là “hòn đá ngoài khơi, dù nước triều rút đi rồi vẫn không lộ ra”, có vẻ mới mẻ hơn. Nhờ ý tưởng khá độc đáo này mà Sanuki được gọi là Oki no ishi no Sanuki (Sanuki-hòn-đá-ngoài-khơi).

Nijô-in Sanuki

 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Than thở cho mối tình chôn vùi không ai hay biết như hòn đá chìm ngoài khơi.

Khi nước triều rút tức lúc nước mắt đã khô, ngoài mặt thì mình là người hết vấn đề nhưng bên trong –như hòn đá chìm ngoài khơi- còn có chỗ chưa khô mà không ai biết được. Shioi oki no ishi ni mienu (hòn đá ngoài khơi khi triều rút) là một jô-kotoba cho đoạn sau Hito koso shirane kawaku ma mo nashi (không ai biết là chẳng lúc nào khô) vì nó giúp ta hiểu là hòn đá (mối tình) vì chìm quá sâu nên dầu triều hạ xuống cũng không ai thấy được. Hito vừa chỉ riêng con người yêu dấu ấy vừa chỉ chung xã hội.

Kỹ thuật dùng trong bài là jo-kotobahonkadori.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Y Sam Tụ.
衣 衫 袖 

Nông tụ nhất tự hải trung thạch,
儂 袖 一 似 海 中 石

Lạc triều thời tiết thạch do thấp.
落 潮 時 節 石 猶 湿

Tịch mịch thương tâm nhân bất tri,
寂 寞 傷 心 人 不 知

Lệ thấp y sam vô can nhật.
泪 湿 衣 衫 無 乾 日

 

Anh dịch:

My sleeve is as the rock unseen

Ne’er bared at lowest ebb of tide,

And none do guess my grief, I ween,

Now how my tear-drenched sleeve’s ne’er dried.

(Dickins)

Like a rock at sea,

E'en at ebb-tide hid from view,

Is my tear-drenched sleeve:--

Never for a moment dry,

And unknown in human ken.

(Mac Cauley)

 

 





Bài số :  92

Thơ bà Sanuki hầu Nijô-in 二条院讃岐

 

a) Nguyên văn:

わが袖は

潮干に見えぬ

沖の石の

人こそ知らね

かわく間もなし

b) Phiên âm:

Wa ga sode wa

Shioi ni mienu

Oki no ishi no

Hito koso shirane

Kawaku ma mo nashi

c) Diễn ý:

Ống tay áo của ta

Giống như hòn đá ngoài khơi.

Nước triều có rút cũng không thấy bóng dáng.

Không có lúc nào khô mà mọi người đâu hay.

d) Dịch thơ:

Ống tay áo đẫm lệ,
Như đá giữa trùng khơi.
Nước triều dầu có rút,
Vẫn ướt mặn mà thôi.

(ngũ ngôn) 

Áo em như đá xa bờ
Triều dù rút cạn, bao giờ mới khô.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái phần 2, bài 760.

Tác giả: Bà Nijô-in Sanuki (Nhị Điều Viện, Tán Kỳ, 1141? – 1217?) là con gái của quan chính tam phẩm (zammi) Fujiwara no Yorimasa (Đằng Nguyên, Lại Chính). Bà lần lượt vào cung hầu hạ Thiên Hoàng Nijô (từ dó mới có yobina như thế) rồi hoàng hậu Ninshi (Nhiệm tử) của Thiên Hoàng Go Toba (tác giả bài 99), tức là người sau được gọi với cái tên xuất gia là Senshuumon-in (Tuyên Thu Môn Viện).

Bài thơ vịnh “mối tình ký thác nơi hòn đá”. Bài này có lẽ đã lấy bài thơ của bà Izumi Shikibu (bài 56 trong tập này) làm thơ gốc. Izumi viết “hòn đá dưới nước”, trong khi Sanuki ví von là “hòn đá ngoài khơi, dù nước triều rút đi rồi vẫn không lộ ra”, có vẻ mới mẻ hơn. Nhờ ý tưởng khá độc đáo này mà Sanuki được gọi là Oki no ishi no Sanuki (Sanuki-hòn-đá-ngoài-khơi).

Nijô-in Sanuki

 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Than thở cho mối tình chôn vùi không ai hay biết như hòn đá chìm ngoài khơi.

Khi nước triều rút tức lúc nước mắt đã khô, ngoài mặt thì mình là người hết vấn đề nhưng bên trong –như hòn đá chìm ngoài khơi- còn có chỗ chưa khô mà không ai biết được. Shioi oki no ishi ni mienu (hòn đá ngoài khơi khi triều rút) là một jô-kotoba cho đoạn sau Hito koso shirane kawaku ma mo nashi (không ai biết là chẳng lúc nào khô) vì nó giúp ta hiểu là hòn đá (mối tình) vì chìm quá sâu nên dầu triều hạ xuống cũng không ai thấy được. Hito vừa chỉ riêng con người yêu dấu ấy vừa chỉ chung xã hội.

Kỹ thuật dùng trong bài là jo-kotobahonkadori.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Y Sam Tụ.
衣 衫 袖 

Nông tụ nhất tự hải trung thạch,
儂 袖 一 似 海 中 石

Lạc triều thời tiết thạch do thấp.
落 潮 時 節 石 猶 湿

Tịch mịch thương tâm nhân bất tri,
寂 寞 傷 心 人 不 知

Lệ thấp y sam vô can nhật.
泪 湿 衣 衫 無 乾 日

 

Anh dịch:

My sleeve is as the rock unseen

Ne’er bared at lowest ebb of tide,

And none do guess my grief, I ween,

Now how my tear-drenched sleeve’s ne’er dried.

(Dickins)

Like a rock at sea,

E'en at ebb-tide hid from view,

Is my tear-drenched sleeve:--

Never for a moment dry,

And unknown in human ken.

(Mac Cauley)