Bài số 21  

Thơ pháp sư Sosei 素性法師

 

a) Nguyên văn:

今来むと

言いしばかりに

長月に

有明の月を

待ち出でつるかな

b) Phiên âm:

Ima komu (kon) to

Iishibakari ni

Nagatsuki no

Ariake no tsuki wo

Machiidetsuru kana

c) Diễn ý:

Người ấy nói sẽ đến ngay

Cho nên suốt đêm thu dài ta mãi chờ.

Đến khi vầng trăng hiện ra,

Trên bầu trời rạng sáng.

 

d) Dịch thơ:

Hẹn năm tao bảy tiết,
Nào thấy bóng người đâu!
Trăng lên, ngày đã rạng,
Đêm thu dài, ôi chao!

(ngũ ngôn) 

Người lỗi hẹn, mình đợi chờ,
Đêm thu vò võ trăng mờ tàn canh.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ Kim Tập), thơ luyến ái, phần 4, bài 691.

Tác giả: Pháp sư Sôsei (Sôsei Hôshi), một vị tăng sống khoảng hậu bán thế kỷ thứ 9 đến đầu thế kỷ thứ 10, tục danh là Yoshimine Harutoshi (Lương Lĩnh, Huyền Lợi). Con của tăng chính Henjô (tác giả bài 12), người trước khi xuất gia là một đại thần.

Tuy thân đàn ông, lại là nhà sư nhưng tác giả đặt mình vào vị trí phụ nữ để nói giùm (代詠daiei = đại vịnh, kỹ thuật mitate) cho một người đàn bà chờ người yêu mà không đến. Nàng đợi mãi cho đến khi con trăng ló ra lên trên nền trời hừng sáng. Chờ người yêu, rốt cục giống như chờ trăng mọc. Thường thường, ngày xưa khi các ông đến thăm người yêu thì lúc ngày rạng là phải ra về, thế nhưng trời đã sáng mà người nàng mong đợi vẫn chưa thấy tới. Đêm mùa hạ ngắn nhưng đêm thu lại dài, nỗi cay đắng của nàng vì thế càng sâu sắc.

Sôsei Hôshi

 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Oán hận vì đợi mãi suốt đêm mà người con trai không đến.

Ima kon có nghĩa “Đến ngay thôi!”. Nagatsuki để chỉ tháng 9 âm lịch, tiết vãn thu, lúc đêm dài nhất. Còn vầng trăng có cái tên ariake no tsuki là trăng qua khỏi ngày 16, không còn tròn trịa và bắt đầu treo trên vòm trời lúc trời hừng sáng. Con trăng này sẽ lặn về hướng tây giữa ban ngày.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Tức Tương Thử Xứ Lai.
即 将 此 処 来 

Tức tương thử xứ lai,
即 将 此 処 来

Tằng thị quân ngôn thuyết.
曽 是 君 言 説

Cữu đẳng khước bất chí,
久 等 却 不 至

Hầu kiến hiểu không nguyệt.
侯 見 暁 空 月

 

Trung Quốc cũng có câu thơ cổ: 

Hữu ước bất lai quá dạ bán,
有 約 不 来 過 夜 半
Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.

閑 敲 棋 子 落 燈 花

Nguyễn Bính dịch:  

(Nửa đêm cái hẹn qua rồi,
Quân cờ gõ nhãm làm rơi hoa đèn)

Anh dịch:

Oh, maiden! heedless of thy vow,
Why com’st thou not? ‘ Tis “long-moon” night,
And th’Ariake moon shines now,
Forgetfulness with welcome light.

(Dickins)

Just because she said,
"In a moment I will come,"
I've awaited her
E'en until the moon of dawn,
In the long month, hath appeared.

(Mac Cauley)

"Chú ý là hai ông Dickins và Mac Cauley khi chuyển ngữ sang tiếng Anh đã đứng ở cương vị một người đàn ông chờ người yêu không đến.
Điều này không đúng với phong tục Nhật Bản thời Heian vì lúc đó, chỉ có đàn ông mới đến thăm đàn bà vào ban đêm (yobai) mà thôi.
"

 

 





Bài số 21  

Thơ pháp sư Sosei 素性法師

 

a) Nguyên văn:

今来むと

言いしばかりに

長月に

有明の月を

待ち出でつるかな

b) Phiên âm:

Ima komu (kon) to

Iishibakari ni

Nagatsuki no

Ariake no tsuki wo

Machiidetsuru kana

c) Diễn ý:

Người ấy nói sẽ đến ngay

Cho nên suốt đêm thu dài ta mãi chờ.

Đến khi vầng trăng hiện ra,

Trên bầu trời rạng sáng.

 

d) Dịch thơ:

Hẹn năm tao bảy tiết,
Nào thấy bóng người đâu!
Trăng lên, ngày đã rạng,
Đêm thu dài, ôi chao!

(ngũ ngôn) 

Người lỗi hẹn, mình đợi chờ,
Đêm thu vò võ trăng mờ tàn canh.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ Kim Tập), thơ luyến ái, phần 4, bài 691.

Tác giả: Pháp sư Sôsei (Sôsei Hôshi), một vị tăng sống khoảng hậu bán thế kỷ thứ 9 đến đầu thế kỷ thứ 10, tục danh là Yoshimine Harutoshi (Lương Lĩnh, Huyền Lợi). Con của tăng chính Henjô (tác giả bài 12), người trước khi xuất gia là một đại thần.

Tuy thân đàn ông, lại là nhà sư nhưng tác giả đặt mình vào vị trí phụ nữ để nói giùm (代詠daiei = đại vịnh, kỹ thuật mitate) cho một người đàn bà chờ người yêu mà không đến. Nàng đợi mãi cho đến khi con trăng ló ra lên trên nền trời hừng sáng. Chờ người yêu, rốt cục giống như chờ trăng mọc. Thường thường, ngày xưa khi các ông đến thăm người yêu thì lúc ngày rạng là phải ra về, thế nhưng trời đã sáng mà người nàng mong đợi vẫn chưa thấy tới. Đêm mùa hạ ngắn nhưng đêm thu lại dài, nỗi cay đắng của nàng vì thế càng sâu sắc.

Sôsei Hôshi

 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Oán hận vì đợi mãi suốt đêm mà người con trai không đến.

Ima kon có nghĩa “Đến ngay thôi!”. Nagatsuki để chỉ tháng 9 âm lịch, tiết vãn thu, lúc đêm dài nhất. Còn vầng trăng có cái tên ariake no tsuki là trăng qua khỏi ngày 16, không còn tròn trịa và bắt đầu treo trên vòm trời lúc trời hừng sáng. Con trăng này sẽ lặn về hướng tây giữa ban ngày.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Tức Tương Thử Xứ Lai.
即 将 此 処 来 

Tức tương thử xứ lai,
即 将 此 処 来

Tằng thị quân ngôn thuyết.
曽 是 君 言 説

Cữu đẳng khước bất chí,
久 等 却 不 至

Hầu kiến hiểu không nguyệt.
侯 見 暁 空 月

 

Trung Quốc cũng có câu thơ cổ: 

Hữu ước bất lai quá dạ bán,
有 約 不 来 過 夜 半
Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.

閑 敲 棋 子 落 燈 花

Nguyễn Bính dịch:  

(Nửa đêm cái hẹn qua rồi,
Quân cờ gõ nhãm làm rơi hoa đèn)

Anh dịch:

Oh, maiden! heedless of thy vow,
Why com’st thou not? ‘ Tis “long-moon” night,
And th’Ariake moon shines now,
Forgetfulness with welcome light.

(Dickins)

Just because she said,
"In a moment I will come,"
I've awaited her
E'en until the moon of dawn,
In the long month, hath appeared.

(Mac Cauley)

"Chú ý là hai ông Dickins và Mac Cauley khi chuyển ngữ sang tiếng Anh đã đứng ở cương vị một người đàn ông chờ người yêu không đến.
Điều này không đúng với phong tục Nhật Bản thời Heian vì lúc đó, chỉ có đàn ông mới đến thăm đàn bà vào ban đêm (yobai) mà thôi.
"