Bài số 4:  

Thơ Yamabe no Akahito 山部赤人

 

a) Nguyên văn:

田子の浦に

うち出でてみれば

白妙の

富士の高嶺に

雪は降りつつ

b) Phiên âm:

Tago no ura ni

Uchi idete mireba

Shiratae no

Fuji no takane ni

Yuki wa furitsutsu

c) Diễn ý:

Từ bãi biển Tago mà nhìn,

Đỉnh núi Fuji xa xa,

Như đang khoác lớp áo trắng,

Tuyết vẫn rơi không ngừng.

 

d) Dịch thơ:

Bãi Tago đứng ngắm,
Đỉnh Phú Sĩ xa xa.
Tuyết vẫn còn đổ trắng,
Ngọn núi ánh như sa.

(ngũ ngôn)

Bãi Tago nhìn xa khơi,
Tuyết còn rơi mãi trắng trời Fuji.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shin-Kokin-shuu (Tân Cổ kim tập), thơ mùa đông, quyển 6, bài 675.

Tác giả: Yamabe no Akahito (Sơn Bộ, Xích Nhân, năm sinh năm mất không rõ).

Akahito sống giữa thế kỷ thứ 8 và là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thứ ba trong Man.yô-shuu. Ông tuy có tài thơ lớn ngang hàng với “ca thánh” Hitomaro (theo ý kiến của Ki no Tsurayuki) nhưng cũng như ông ấy, chỉ là một chức quan nhỏ trong triều. Giỏi về thơ vịnh cảnh, được xưng tụng là một trong 36 “ca tiên”. Trong Man.yô-shuu ông có 13 bài chôka và 37 bài tanka, có bài được viết vào khoảng năm 783 nên có thể suy luận ông sống trong khoảng này.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Ngọn núi Fuji chiếm lĩnh trung tâm toàn bộ phong cảnh.

Trong bài thơ, tác giả đã tả núi Fuji từ xa, khi đứng trên bãi biển Tago, nay thuộc vùng Shizuoka, một nơi ông có thể nhìn thấy toàn bộ ngọn núi hùng vĩ trang nghiêm.

Chữ gối shirotae (白妙bạch diệu) hay tấm vải trắng đẹp, để nói lên màu trắng tinh khôi của núi tuyết. Hai chữ tsutsu để diễn tả cảnh tượng tuyết vẫn tiếp tục rơi, làm cho cảnh vật có một không khí huyền ảo.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Điền Tử Phố
田 子 浦

 

Nhất xuất Điền Tử Phố,
一出 田 子 浦

Dao kiến Phú Sĩ Sơn.
遥 見 富 士 山

Cao cao thanh phong thượng,
高 高 青 峰 上

Phân phân bạch tuyết hàn.
紛 紛 白 雪 寒

Anh dịch:

From where my home, -

My lonely home, - on Tago’s shore

Doth stand, the wandering eye may roam

O’er Fusiyama’s summit hoar,

Whose lofty brow

Is whitened by th’ new-fallen snow.

(Dickins)

When to Tago's coast

I the way have gone, and see

Perfect whiteness laid

On Mount Fuji's lofty peak

By the drift of falling snow.

(Mac Cauley)

Thơ vịnh núi Fuji đã có nhiều tự thời xưa. Thi nhân thời Vạn Diệp như Takahashi no Mushimaro (Cao Kiều, Trùng Ma Lữ), các tác giả của Truyện Ise (Ise Monogatari) và Truyện Ông Già Đốn Trúc (Taketori Monogatari) đều có ghi lại thơ về cảnh núi ấy. 

Nói thêm về tài vịnh cảnh của Yamabe no Akahito, cần nhắc lại bài thơ của ông được ghi lại trong tập số 6 của Man.yô-shuu như sau:

Waka-no-ura ni
Shio michi koreba
Kata wo nami
Ashibe wo sashite
Tazu naki wataru

(Bến Waka nước triều đầy,
Bãi cạn chìm hết xua bầy hạc bay,
Vừa kêu, đáp xuống lau dày)

 

 



Bài số 4:  

Thơ Yamabe no Akahito 山部赤人

 

a) Nguyên văn:

田子の浦に

うち出でてみれば

白妙の

富士の高嶺に

雪は降りつつ

b) Phiên âm:

Tago no ura ni

Uchi idete mireba

Shiratae no

Fuji no takane ni

Yuki wa furitsutsu

c) Diễn ý:

Từ bãi biển Tago mà nhìn,

Đỉnh núi Fuji xa xa,

Như đang khoác lớp áo trắng,

Tuyết vẫn rơi không ngừng.

 

d) Dịch thơ:

Bãi Tago đứng ngắm,
Đỉnh Phú Sĩ xa xa.
Tuyết vẫn còn đổ trắng,
Ngọn núi ánh như sa.

(ngũ ngôn)

Bãi Tago nhìn xa khơi,
Tuyết còn rơi mãi trắng trời Fuji.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shin-Kokin-shuu (Tân Cổ kim tập), thơ mùa đông, quyển 6, bài 675.

Tác giả: Yamabe no Akahito (Sơn Bộ, Xích Nhân, năm sinh năm mất không rõ).

Akahito sống giữa thế kỷ thứ 8 và là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thứ ba trong Man.yô-shuu. Ông tuy có tài thơ lớn ngang hàng với “ca thánh” Hitomaro (theo ý kiến của Ki no Tsurayuki) nhưng cũng như ông ấy, chỉ là một chức quan nhỏ trong triều. Giỏi về thơ vịnh cảnh, được xưng tụng là một trong 36 “ca tiên”. Trong Man.yô-shuu ông có 13 bài chôka và 37 bài tanka, có bài được viết vào khoảng năm 783 nên có thể suy luận ông sống trong khoảng này.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Ngọn núi Fuji chiếm lĩnh trung tâm toàn bộ phong cảnh.

Trong bài thơ, tác giả đã tả núi Fuji từ xa, khi đứng trên bãi biển Tago, nay thuộc vùng Shizuoka, một nơi ông có thể nhìn thấy toàn bộ ngọn núi hùng vĩ trang nghiêm.

Chữ gối shirotae (白妙bạch diệu) hay tấm vải trắng đẹp, để nói lên màu trắng tinh khôi của núi tuyết. Hai chữ tsutsu để diễn tả cảnh tượng tuyết vẫn tiếp tục rơi, làm cho cảnh vật có một không khí huyền ảo.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Điền Tử Phố
田 子 浦

 

Nhất xuất Điền Tử Phố,
一出 田 子 浦

Dao kiến Phú Sĩ Sơn.
遥 見 富 士 山

Cao cao thanh phong thượng,
高 高 青 峰 上

Phân phân bạch tuyết hàn.
紛 紛 白 雪 寒

Anh dịch:

From where my home, -

My lonely home, - on Tago’s shore

Doth stand, the wandering eye may roam

O’er Fusiyama’s summit hoar,

Whose lofty brow

Is whitened by th’ new-fallen snow.

(Dickins)

When to Tago's coast

I the way have gone, and see

Perfect whiteness laid

On Mount Fuji's lofty peak

By the drift of falling snow.

(Mac Cauley)

Thơ vịnh núi Fuji đã có nhiều tự thời xưa. Thi nhân thời Vạn Diệp như Takahashi no Mushimaro (Cao Kiều, Trùng Ma Lữ), các tác giả của Truyện Ise (Ise Monogatari) và Truyện Ông Già Đốn Trúc (Taketori Monogatari) đều có ghi lại thơ về cảnh núi ấy. 

Nói thêm về tài vịnh cảnh của Yamabe no Akahito, cần nhắc lại bài thơ của ông được ghi lại trong tập số 6 của Man.yô-shuu như sau:

Waka-no-ura ni
Shio michi koreba
Kata wo nami
Ashibe wo sashite
Tazu naki wataru

(Bến Waka nước triều đầy,
Bãi cạn chìm hết xua bầy hạc bay,
Vừa kêu, đáp xuống lau dày)