Bài số 1:  

Thơ Thiên hoàng Tenji 天智天皇

 

a) Nguyên văn:

秋の田の

仮庵の庵の

苫をあらみ

わが衣手は

露にぬれつつ

b) Phiên âm:

Aki no ta no

Kario no io no

Toma wo arami

Wa ga koromode wa

Tsuyu ni nuretsutsu

c) Diễn ý:

Bên bờ ruộng thu (vào mùa lúa chín),

(Lều là) túp lều cất tạm để canh thú rừng phá hoại.

Mái lợp gianh sơ sài nên sương khuya từ từ nhỏ giọt,

(Làm ta chợt thấy lạnh vì) ống tay áo,

Đã thấm ướt không biết tự hồi nào.

 

d) Dịch thơ:

Vào thu đồng lúa chín,
Chòi canh, mái lợp thưa.
Chợt nhìn ống tay áo,
Sương thấm lạnh bao giờ!

(ngũ ngôn)

Ruộng thu lều tạm mái thưa, Tay áo người để sương khuya thấm dần.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Gosen-shuu (Hậu tuyển tập), quyển 6, thơ thu, phần trung, bài số 302.

Tác giả: phỏng định là Thiên Hoàng Tenji (Thiên Trí, 626-671).

Ông là vị thiên hoàng thứ 38 trong lịch sử Nhật. Con thứ hai Thiên Hoàng Jomei và nữ Thiên Hoàng Kôgyoku, ngày còn trẻ, Tenji có tên là hoàng tử Naka no Ôe (Trung Đại Huynh). Đã cùng với bầy tôi là Fujiwara no Kamatari lật đổ họ Soga, thực tiện cuộc đổi mới năm Taika (Đại Hóa) và thiên đô về vùng Ômi (tỉnh Shiga ngày nay). Thơ của ông có chép trong các tập 13, 14 và 15 của Man.yô-shuu. Mất năm 46 tuổi, trị vì từ 668 đến 671.Ông có bài thơ vịnh Đại Hòa Tam Sơn nói về mối tình tay ba giữa mình, cậu em trai (Thiên Hoàng Tenmu) và công chúa Nukata.

Nguyên bài này đã có trong quyển 10 (bài thứ 2.178) của Man.yô-shuu, với nội dung hơi khác, và chỗ tên tác giả ghi là “không rõ” (yomibito shirazu), có lẽ là một câu ca dao nói về sương khuya. Được truyền khẩu lâu năm, nó mất dần hình ảnh về nỗi khó nhọc đồng áng của người nhà nông trong nội dung, chỉ còn cảm giác mùa thu tiêu sơ đọng lại.

Rốt cuộc khi đưa vào Gosen-shuu (Hậu Tuyển tập), bài thơ được xem là một “ngự chế” của Thiên Hoàng Tenji (bài số 2.001, thơ thu, phần trung). Phải chăng vì Thiên Hoàng Tenji đã khai sáng ra triều Heian và là một thiên hoàng vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản nên người ta muốn nối kết bài thơ với hình ảnh ông vua lý tưởng biết thương dân chăng? 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Phong cảnh đồng quê tịch mịch vùng Asuka một chiều cuối thu.

Nói chung, các nhà bình luận thường cho rằng trong bài Aki no ta no này, thiên hoàng Tenji (nếu thực sự là tác giả) đã đặt mình vào cảnh ngộ của nhà nông qua đêm trong vựa chứa lúa đặt tạm giữa ruộng vào vụ gặt đề phòng thú rừng phá hoại để vịnh kiếp sống gian khổ của họ, khi mà những giọt sương khuya thấm (tay) áo cũng có thể là nước mắt.

Bài thơ tả cảnh cánh đồng một ngày giữa mùa thu, thê lương tịch mịch. Chữ lều tạm ( 仮庵kariiho đọc nuốt âm thành kario) và chữ bông lúa đã gặt ( 刈穂 kariho) chồng lên nhau thành ra 刈穂の庵 kariho no io theo kỹ thuật kake-kotoba (chữ đa nghĩa). Tuy nhiên, theo thi hào Teika, bài này xứng đáng đại diện cho loại waka u huyền bởi vì để lại dư vị sâu lắng, nói được những điều ở ngoài từ ngữ.

Nữ thi sĩ Baba Akiko xem việc đưa một bài thơ gán cho một thánh quân sáng nghiệp, đã rút quân khỏi Triều Tiên và chấn chỉnh nền móng triều đình, lên đầu quyển sách là chuyện đương nhiên trong xã hội cổ xưa. Người chủ biên Teika không thể làm khác. Huống chi nông nghiệp là nền tảng của kinh tế trong nước. Nhật Bản thời mới lập quốc chẳng được xưng tụng là Mizuho no kuni (nước của bông lúa thiêng) là gì? Như thế, sự quan tâm của nhà vua đến nông vụ có thể giải thích được. Nhà bình luận Shirasu Masako cho rằng bài này chính là bài số 2174 bắt đầu bằng câu Akita karu kariho chép trong tập thứ 10 của Man.yôshuu, nhưng vì âm vận trúc trắc, khó lòng đọc mà không vấp váp, nên sau khi qua nhiều bàn tay gia công sửa chữa, không biết tự lúc nào đã trở thành lưu loát. Shimazu Tadao cho rằng thuyết này đã bắt nguồn từ học giả quốc học Kamo no Mabuchi (1697-1769), đến nay được nhiều người cho là hợp lý.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thu Dã
秋 野

 

Thu nhật điền dã gian,
秋 日 田 野 間       

Am ốc sơ tháp tựu         
庵 屋 初 搭 就

Phúc cái thảo tịch sơ
覆 蓋 草 席 疏

Lãnh lộ thấp sam tụ.
冷 露 湿 杉 袖

Anh dịch:

My lowly hut is thatched with straw
From fields where rice-sheaves frequent stand,
Now autumn’s harvest well-night o’er,
Collected by my toiling hand:
Tatter’d roof the sky I view,
My clothes are wet with falling dew.

(Dickins)

Coarse the rush-mat roof
Sheltering the harvest-hut
Of the autumn rice-field;--
And my sleeves are growing wet
With the moisture dripping through.

(Mac Cauley)

Nhân vì Thiên Hoàng Tenji, người được xem là tác giả tác bài thơ đầu tiên cửa thi tập này, xưa từng dời đô về vùng Ômi nên kể từ năm 1940 (Shôwa 15), các cuộc thi bốc quân bài Hyakunin Isshu toàn quốc được tổ chức ở đền thần tỉnh Ôtsu (Ômi Jinguu) trong vùng. Riêng về lý do những cuộc thi tài nói trên, xin xem lời giải thích trong bài Bạt cuối sách.

 

 

 



Bài số 1:  

Thơ Thiên hoàng Tenji 天智天皇

 

a) Nguyên văn:

秋の田の

仮庵の庵の

苫をあらみ

わが衣手は

露にぬれつつ

b) Phiên âm:

Aki no ta no

Kario no io no

Toma wo arami

Wa ga koromode wa

Tsuyu ni nuretsutsu

c) Diễn ý:

Bên bờ ruộng thu (vào mùa lúa chín),

(Lều là) túp lều cất tạm để canh thú rừng phá hoại.

Mái lợp gianh sơ sài nên sương khuya từ từ nhỏ giọt,

(Làm ta chợt thấy lạnh vì) ống tay áo,

Đã thấm ướt không biết tự hồi nào.

 

d) Dịch thơ:

Vào thu đồng lúa chín,
Chòi canh, mái lợp thưa.
Chợt nhìn ống tay áo,
Sương thấm lạnh bao giờ!

(ngũ ngôn)

Ruộng thu lều tạm mái thưa, Tay áo người để sương khuya thấm dần.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Gosen-shuu (Hậu tuyển tập), quyển 6, thơ thu, phần trung, bài số 302.

Tác giả: phỏng định là Thiên Hoàng Tenji (Thiên Trí, 626-671).

Ông là vị thiên hoàng thứ 38 trong lịch sử Nhật. Con thứ hai Thiên Hoàng Jomei và nữ Thiên Hoàng Kôgyoku, ngày còn trẻ, Tenji có tên là hoàng tử Naka no Ôe (Trung Đại Huynh). Đã cùng với bầy tôi là Fujiwara no Kamatari lật đổ họ Soga, thực tiện cuộc đổi mới năm Taika (Đại Hóa) và thiên đô về vùng Ômi (tỉnh Shiga ngày nay). Thơ của ông có chép trong các tập 13, 14 và 15 của Man.yô-shuu. Mất năm 46 tuổi, trị vì từ 668 đến 671.Ông có bài thơ vịnh Đại Hòa Tam Sơn nói về mối tình tay ba giữa mình, cậu em trai (Thiên Hoàng Tenmu) và công chúa Nukata.

Nguyên bài này đã có trong quyển 10 (bài thứ 2.178) của Man.yô-shuu, với nội dung hơi khác, và chỗ tên tác giả ghi là “không rõ” (yomibito shirazu), có lẽ là một câu ca dao nói về sương khuya. Được truyền khẩu lâu năm, nó mất dần hình ảnh về nỗi khó nhọc đồng áng của người nhà nông trong nội dung, chỉ còn cảm giác mùa thu tiêu sơ đọng lại.

Rốt cuộc khi đưa vào Gosen-shuu (Hậu Tuyển tập), bài thơ được xem là một “ngự chế” của Thiên Hoàng Tenji (bài số 2.001, thơ thu, phần trung). Phải chăng vì Thiên Hoàng Tenji đã khai sáng ra triều Heian và là một thiên hoàng vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản nên người ta muốn nối kết bài thơ với hình ảnh ông vua lý tưởng biết thương dân chăng? 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Phong cảnh đồng quê tịch mịch vùng Asuka một chiều cuối thu.

Nói chung, các nhà bình luận thường cho rằng trong bài Aki no ta no này, thiên hoàng Tenji (nếu thực sự là tác giả) đã đặt mình vào cảnh ngộ của nhà nông qua đêm trong vựa chứa lúa đặt tạm giữa ruộng vào vụ gặt đề phòng thú rừng phá hoại để vịnh kiếp sống gian khổ của họ, khi mà những giọt sương khuya thấm (tay) áo cũng có thể là nước mắt.

Bài thơ tả cảnh cánh đồng một ngày giữa mùa thu, thê lương tịch mịch. Chữ lều tạm ( 仮庵kariiho đọc nuốt âm thành kario) và chữ bông lúa đã gặt ( 刈穂 kariho) chồng lên nhau thành ra 刈穂の庵 kariho no io theo kỹ thuật kake-kotoba (chữ đa nghĩa). Tuy nhiên, theo thi hào Teika, bài này xứng đáng đại diện cho loại waka u huyền bởi vì để lại dư vị sâu lắng, nói được những điều ở ngoài từ ngữ.

Nữ thi sĩ Baba Akiko xem việc đưa một bài thơ gán cho một thánh quân sáng nghiệp, đã rút quân khỏi Triều Tiên và chấn chỉnh nền móng triều đình, lên đầu quyển sách là chuyện đương nhiên trong xã hội cổ xưa. Người chủ biên Teika không thể làm khác. Huống chi nông nghiệp là nền tảng của kinh tế trong nước. Nhật Bản thời mới lập quốc chẳng được xưng tụng là Mizuho no kuni (nước của bông lúa thiêng) là gì? Như thế, sự quan tâm của nhà vua đến nông vụ có thể giải thích được. Nhà bình luận Shirasu Masako cho rằng bài này chính là bài số 2174 bắt đầu bằng câu Akita karu kariho chép trong tập thứ 10 của Man.yôshuu, nhưng vì âm vận trúc trắc, khó lòng đọc mà không vấp váp, nên sau khi qua nhiều bàn tay gia công sửa chữa, không biết tự lúc nào đã trở thành lưu loát. Shimazu Tadao cho rằng thuyết này đã bắt nguồn từ học giả quốc học Kamo no Mabuchi (1697-1769), đến nay được nhiều người cho là hợp lý.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thu Dã
秋 野

 

Thu nhật điền dã gian,
秋 日 田 野 間       

Am ốc sơ tháp tựu         
庵 屋 初 搭 就

Phúc cái thảo tịch sơ
覆 蓋 草 席 疏

Lãnh lộ thấp sam tụ.
冷 露 湿 杉 袖

Anh dịch:

My lowly hut is thatched with straw
From fields where rice-sheaves frequent stand,
Now autumn’s harvest well-night o’er,
Collected by my toiling hand:
Tatter’d roof the sky I view,
My clothes are wet with falling dew.

(Dickins)

Coarse the rush-mat roof
Sheltering the harvest-hut
Of the autumn rice-field;--
And my sleeves are growing wet
With the moisture dripping through.

(Mac Cauley)

Nhân vì Thiên Hoàng Tenji, người được xem là tác giả tác bài thơ đầu tiên cửa thi tập này, xưa từng dời đô về vùng Ômi nên kể từ năm 1940 (Shôwa 15), các cuộc thi bốc quân bài Hyakunin Isshu toàn quốc được tổ chức ở đền thần tỉnh Ôtsu (Ômi Jinguu) trong vùng. Riêng về lý do những cuộc thi tài nói trên, xin xem lời giải thích trong bài Bạt cuối sách.