BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font 


Thiền sư U Ba Khin

Tâm Thái


Nói về Thiền Vipassana thì có rất nhiều vị tăng nổi tiếng ở Miến Ðiện, Tích Lan, Thái Lan đã giảng dạy, nhưng đặc biệt là một pháp Thiền được phổ biến ở Âu châu, Mỹ châu lại là pháp Thiền của ngài U Ba Khin, một vị cư sĩ người Miến điện. Nhiều Trung tâm Thiền quốc tế (International Meditation Centers) đã được thành lập tại nhiều nước để truyền bá pháp Thiền của U Ba Khin.

Pháp Thiền của U Ba Khin thuộc môn Thiền Vipassana (tiếng Phạn, có nghĩa là Quán, Insight meditation). Thiền Vipassana thuộc hệ thống Nam Tông (Nguyên Thủy), căn cứ theo những pháp dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutta). Kinh này chỉ pháp tu một cách tổng quát với những nguyên tắc rộng lớn mà không đi sâu vào chi tiết thực hành như pháp Niệm hơi thở (Anapanasati), cho nên khi thực hành có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo sự chứng đắc của mỗi thầy, vì vậy không có được một pháp Thiền Vipassana thống nhất. Tuy vậy dù phương pháp khác nhau nhưng tất cả các Thiền Vipassana đều căn cứ vào kinh Tứ Niệm Xứ.

Kinh Tứ Niệm Xứ

Kinh này chỉ bốn pháp quán niệm là:

  1. quán niệm thân trong thân , tức quán niệm hơi thở, vị thế của thân như đi, đứng, nằm, ngồi; quán về tính cách ô trược của thân; quán về thành phần vật chất của thân; quán về sự tan rã của tử thi.
  2. quán niệm thọ cảm trong thọ cảm , thấy rõ những thọ lạc, khổ, hoặc vô ký.
  3. quán niệm tâm trong tâm , thấy rõ từng hoạt động của tâm như tham, giận, si mê, hôn trầm, định, loạn.
  4. quán niệm pháp trong pháp . Quán về những pháp như: Ngũ triền cái (năm chướng ngại tinh thần: tham dục, sân hận, hôn trầm, lo âu và hoài nghi), Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), Lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) cùng đối tượng của sáu căn là sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp), Thất giác chi (bẩy yếu tố ngộ đạo: chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, an, định và xả), Tứ diệu đế (khổ, tập, diệt và đạo).

Như vậy cho thấy không thể nào áp dụng cùng lúc tất cả chi tiết ghi trong kinh, mà mỗi người tùy theo căn cơ có thể áp dụng phương pháp nào thích hợp với mình. Ðiều này không đáng ngạc nhiên vì trong kinh Thủ lăng nghiêm, khi đức Phật hỏi về kinh nghiệm riêng của mỗi người về quá trình tu hành thì 25 vị Ðại Bồ tát và A la hán mỗi người đều trình bày pháp tu khác nhau, nhưng đều đã đắc đạo.

Sơ lược tiểu sử U Ba Khin (1899-1971)

Sayagyi U Ba Khin là một cư sĩ người Miến điện (Burma, hiện nay gọi là Myanmar). Ông là một viên chức cao cấp trong chánh phủ Miến điện, đã từng giữ những chức vụ như Chairman of Burma of State Agricultural Marketing Board, Director of Commercial Audit, Principal of the Government Institute for Accounts and Audits, Accountant General, Personal adviser to the Prime Minister. Khoảng năm 40 tuổi, ông theo học Thiền Vipassana của Saya Thet Gyi, cũng là một cư sĩ. Tuy là một công chức cao cấp với nhiều chức vụ hơn ai hết (có lúc giữ tới bốn chức vụ giám đốc), với một gia đình sáu con, mà ông vẫn hết lòng tu tập và truyền bá đạo. Năm 1948 ông sáng lập ra Trung tâm Quốc tế Thiền tại Rangoon. Ðến năm 1953 thì ông nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục phụ giúp chính phủ trong nhiều chức vụ giám đốc.

Vì vừa là một công chức cao cấp vừa là một cư sĩ nên pháp Thiền của ông có đặc tính nhắm vào thực hành nhiều hơn là về lý. Ông giảng dạy căn cứ theo kinh nghiệm cụ thể, cá nhân mà ông thâu thập được, hơn là giảng những phần lý đạo cao siêu. Ông đã huấn luyện được nhiều đệ tử ngoại quốc và một số đã được cho phép về lập Trung tâm tại nhiều nước khác nhau. Phương pháp của ông nhằm dạy các cư sĩ, vốn là những người phải lo kế sinh sống, bận việc gia đình, xã hội, mà vẫn có thể tu tập có kết quả. Chương trình tu tập của ông được truyền lại rất chi tiết, rõ ràng nên nhờ đó mà các Trung tâm áp dụng chính xác và đồng đều. Ông mất đi năm 1971.

Pháp Thiền của U Ba Khin

Pháp Thiền này có thể tóm tắt như sau: sau khi đã tập chú tâm bằng phương pháp Niệm hơi thở theo như Anapanasati tới trình độ khá thì chú niệm vào thân thể để theo dõi những cảm giác trong đó và tập trung sự quán vào tính cách "vô thường" (Phạn: anicca) của thân. Theo lời U Ba Khin, khi quán kỹ được tính cách vô thường của thân, thì tiến trình thanh lọc vọng tâm sẽ xẩy ra trong tâm và thân. Tiến trình này, tuy không phải là một lý thuyết hay quan niệm, nhưng khó giải thích được, chỉ khi người nào đã thực hành sẽ tự chứng được. Ông đã sơ tả trạng thái đó như sau: "Khi hành giả thấy rõ được chân lý Vô thường thì người đó sẽ thấy được sự bật sáng của "nibbana dhatu" ("giác phần", danh từ của ông để chỉ yếu tố mới trong tiến trình cải hóa), có năng lực dẹp sạch được những ô nhiễm, nghiệp xấu mà vốn là căn nguyên của bệnh tật về thân thể cũng như về tâm thần." Ông cũng cho biết là khi đạt được trạng thái đó thì sẽ thấy một sự chấn động mạnh ở nơi thân mà hành giả sẽ phải chịu đựng. Sự chấn động đó làm cho ta nhậy cảm với những phát xạ, rung động, ma sát của những "kalapas" ("đơn vị", phần tử nhỏ hơn nguyên tử) trong người cho nên ta sẽ cảm thấy như thân thể mình toàn là điện, có thể là khổ sở vì những cảm giác đó.

Ông chỉ rõ pháp tu Thiền của ông trong cuốn "Những điều cần thiết về Phật pháp trong việc tu Thiền" :

Trước hết hành giả cần thấu hiểu pháp Tứ Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Ông giải rộng nghĩa "Khổ" không phải chỉ là những cái đau khổ của cuộc đời, mà chính là tính cách Vô thường của mọi sự, nhất là sự Vô thường của ngay thân thể mình. Ông giảng thuyết Vô thường bằng cách quán về sự sinh trưởng, hủy diệt của những nguyên tố kalapas trong người, con người về phương diện vật chất chỉ là một hệ thống năng lượng và chấn động, luôn luôn thay đổi. Ông căn cứ định nghĩa kalapas là "đơn vị vật chất căn bản của mọi sự vật trên thế gian", nhỏ hơn tất cả những nguyên tử mà hiện nay khoa học biết được. Nguyên tố kalapas sinh ra rồi diệt tức thời, cả tỷ lần trong một chớp mắt, tạo ra một sự đốt cháy và cấp năng lượng cho sự sống. Con người khó trực nhận được từng kalapas, nhưng có thể nhận được sự sinh hoạt liên tục thay đổi của dòng năng lượng. Hiểu được điều đó là hiểu được pháp "Vô thường" và hiểu được "Khổ". Khi biết rõ Khổ và nguyên nhân của Khổ, thì pháp tu để đi đến việc thoát Khổ là Bát chánh đạo, gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Ông giảng kỹ về pháp Bát chánh đạo áp dụng cho từng giai đoạn của việc tu Thiền, tám chi phần đó còn được phân chia theo Giới, Ðịnh và Huệ. Có đạt được Huệ mới đạt được trạng thái an định nội tâm (inner peace) và đi tới thấu hiểu chân lý.

Pháp Thiền của ông U Ba Khin đi đúng theo lời dạy của kinh Tứ niệm xứ, ông áp dụng niệm hơi thở để định tâm trước rồi sau đó quán lý Vô thường để hiểu rõ Tứ diệu đế và điều cần thiết là thực sự sống theo Bát chánh đạo. Ông biết cách áp dụng Thiền Vipassana một cách thực tế để cho những người không xuất gia cũng đạt được đạo.

Về việc thực tập thì trước hết hành giả theo pháp niệm hơi thở, chỉ biết và thấy rõ hơi thở ra, hơi thở vào. Tập như vậy trong vài ngày, sau khi đã thuần thục, sẽ thực hành pháp Quán. Hành giả cần chú niệm vào những tiến trình sinh hoạt, cảm giác của thân mình để thấy rõ toàn thể thân này là một khối luôn biến chuyển, sẽ thấy rõ tính cách Vô thường của nó, như vậy rồi hiểu Khổ và Vô ngã. Về thực hành, hành giả phải tập trung sự chú niệm vào từng bộ phận thân thể để ghi rõ những cảm xúc biến đổi. Sự chú niệm đó sẽ khai thông được dòng năng lực trong thân thể. Từ đó mà hành giả thấu rõ tính cách vô thường của thân. Việc quán vô thường này không phải chỉ quán về thân, mà cũng có thể quán về tâm, tức là phải thấy được cả những Thọ, Tưởng, Hành và Thức cũng đều có tính cách vô thường. Tuy vậy ông thấy rằng quán về thân dễ thực hành hơn quán về tâm.

Ông đặt trong tâm của pháp Thiền này vào việc quán Vô thường. Ông cho rằng muốn hiểu Vô thường phải thực nghiệm rõ trong thân mình để thấy thật rõ như vậy, chứ không phải chỉ nghiên cứu ý nghĩa trong kinh điển. Sự thật cho thấy đúng như vậy, chúng ta thường thao thao nói về lý Vô thường một cách trôi chảy, có thể viết cả cuốn sách về đề tài đó, nhưng thực sự đã không tự chứng được lý đó bao nhiêu. Việc thực nghiệm đòi hỏi nhiệt tâm và nhất là sự hướng dẫn chân chính. Ngay như pháp Thiền này, nếu chúng ta không có dịp gặp được vị thầy thực tu, hoặc ít ra gặp bạn đã thực theo pháp này thì khó mà chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng. Ðể tìm hiểu kỹ hơn, xin nêu kinh nghiệm của một người đã từng đi theo con đường đó.

John Coleman là một nhân viên CIA đã có dịp hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. Ông đặc biệt chú ý tìm học pháp tu để kiếm được an tĩnh nội tâm. Ông đã được gặp nhiều vị nổi tiếng như D.T. Suzuki, Krishnamurti và các vị tu hành tại Ấn Ðộ, Nhật Bản, Miến Ðiện, Sikkim, Nepal, Thái Lan, và cả ở Pháp, Anh và Mỹ. Ông thực tâm đi học đạo chứ không phải đi với tính cách phóng sự hoặc nghiên cứu. Trong cuốn sách "The quiet mind", ông kể việc tìm thầy tại các nước, với những đạo khác nhau, nhưng sau bao lần thất bại nhiều khi muốn bỏ cuộc, rốt cuộc ông trở lại để thụ huấn với U Ba Khin và thành công trong pháp Thiền Vipassana. Ông được U Ba Khin chứng là đã thành công và được phép truyền dạy pháp Thiền này. Sau đây là sơ lược đoạn ông mô tả kinh nghiệm khi tu đến pháp Quán:

"Trong giai đoạn này (tu Quán) thầy (U Ba Khin) chỉ cho tôi phải theo dõi những hoạt động của những tế bào để thấy lý Vô thường. Tôi dùng sự chú ý để rà từ đỉnh đầu và từ từ xuống tới đầu ngón chân, tập trung chú ý vào từng mỗi bộ phận. Dần dần tôi có cảm giác ngứa ran như kiến bò tại chỗ nào mà tôi chú ý tới. Như khi tôi chú ý tới bàn tay thì tôi thấy như những hạt điện tử ở đó quay cuồng tạo ra sức nóng rực ở bàn tay. Tôi thực nghiệm được sự hoạt động của nguyên tố kalapas và thấy ảnh hưởng của nó tới cảm xúc như thế nào. Nhờ đó tôi cảm thấy được cả những rung động của những âm thanh dưới âm tốc, siêu âm, tần số radio, những tần số cao, tia X, phát xạ vũ trụ... Nói tóm lại những rung động dù với tốc độ và tần số nào tôi cũng cảm thấy được hết. Càng định tâm người tôi càng nóng rực đến độ có cảm tưởng thân tôi có thể bị thiêu hủy. Theo danh từ đạo Phật thì đó là tôi đang trả cái nghiệp báo từ trước đến giờ.

Tới lúc đó thầy bảo tôi phải ngồi yên trong một tiếng đồng hồ, không được đụng đậy, dù là chớp mắt. Tôi gắng sức làm theo, thấy rõ sức nóng càng tăng và đau đớn, khổ sở vô cùng nhưng tôi vẫn bền chí chịu đựng. Tôi đã thấu rõ lời Phật dạy về lý Khổ. Khắp người như lửa đốt bừng bừng. Tôi biết chỉ cần cử động nhỏ là có thể làm bớt nỗi khổ, nhưng tôi vẫn nhất quyết thực hành như lời dạy. Sau mấy ngày tập như vậy cơn đau vẫn tồn tại và ý nghĩ thúc giục tôi thoát khỏi nỗi đau đó cũng lôi kéo tôi. Nhưng tôi nhận thấy càng có ý muốn thoát khỏi cơn đau lại càng làm cơn đau gia tăng. Tôi cho rằng nếu thấy tất cả là vô thường thì những cơn đau cũng phải vô thường nên tôi bền bỉ chịu đựng. Có lẽ đó là điểm then chốt.

Bất thần tới một lúc mà tình trạng thất vọng đã tới cực độ, tâm tôi như ngưng hoạt động. Việc đó đã xẩy ra như một tiếng sét và tôi thấy mình không còn dính líu tới cái Ngã, mọi sự tìm kiếm ngưng lại và tôi thấy hết cơn đau. Sau đó là một trạng thái yên tịnh, thật là một sự sung sướng khác hẳn với cái nghĩa thường hiểu. Không có một danh từ nào diễn tả được. Thật là một kinh nghiệm kỳ lạ, chưa từng thấy trong đời tôi."

Những kinh nghiệm như vậy cho thấy pháp Thiền của U Ba Khin không phải là một lý thuyết suông. Các đệ tử từ nhiều nước trên thế giới đã tới theo học và sau khi được phép của ông, đã về nước và tiếp tục truyền bá. Hiện nay ngoài Trung tâm chánh tại Rangoon, Miến Ðiện, có năm Trung tâm quốc tế tại Anh, Ðông Úc, Tây Úc, Mỹ và Áo (Austria), mỗi trung tâm lại có nhiều chi nhánh khác. Mỗi khóa thường được tổ chức trong 10 ngày. Việc giảng dạy rất có quy củ và tổ chức thống nhất.

S. N. Goenka

Các đệ tử của ngài U Ba Khin thì rất nhiều, nhưng đặc biệt phải kể đến ông S. N. Goenka. Ông là một kỹ nghệ gia, quốc tịch Ấn Ðộ nhưng sinh và lớn lên tại Miến Ðiện và đã thụ huấn ngài U Ba Khin trong 14 năm. Ông Goenka về Ấn Ðộ năm 1969 để truyền bá và cũng tạo được rất nhiều đệ tử ở các nước. Số đệ tử của ông có thể nhiều hơn là của ngài U Ba Khin. Lý do chánh là vì chánh phủ Miến Ðiện có một thời đã áp dụng chính sách "bế quan, tỏa cảng" nên rất ít người được tới theo học ngài U Ba Khin. Ngoài trung tâm Ấn Ðộ còn có các trung tâm tại Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Pháp, Anh, Ðức, Nhật, Tích Lan, Thái Lan, Miến Ðiên, Nepal và các nước khác. Nhiều vị tăng Miến Ðiện, Ấn Ðộ và Tích Lan cũng tới theo học ông. Tại Mỹ có 4 trung tâm lớn ở Massachusetts, Texas, California và Washington. Pháp ông giảng dạy theo đúng pháp của U Ba Khin. Các trung tâm cũng được tổ chức quy mô, hệ thống như vậy.

Ghi chú: Quý độc giả muốn biết thêm chi tiết về các trung tâm Thiền này thì có thể dùng Internet theo những địa chỉ sau:

Tài liệu trích dẫn :

-- Living Buddhist Masters, của Jack Kornfield
-- The essentials of Buddha Dhamma in meditative practice, của U Ba Khin
-- The quiet mind, của John E. Coleman
-- Vipassana Meditation as taught by S. N. Goenka, của William Hart.