BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Sự phục sinh của
Phật giáo tại Ấn ÐộD. C. Ahir
Vào đầu thế kỷ thứ 19, Phật Giáo vẫn không được biết đến ở Ấn Ðộ,
nơi nó được sinh ra, lớn lên, và đạt đến những thành tựu cao nhất. Không
có chùa chiền, không có Văn Học, không có tín đồ. Ngay cả tên Phật Ðà cũng
bị xóa trong ký ức của người Ấn Ðộ. Số phận của vua A Dục(Ashoka) và những
vị vua Phật Giáo khác, những Thánh Tăng và Học Giả đã có những cống hiến
lớn lao cho nền Văn Hóa, Nghệ Thuật và Văn Học Ấn Ðộ cũng tương tự. Gia
tài Phật Giáo dấu kín dưới lớp bụi và vôi gạch đổ nát trong chân trời tối,
được những viên chức tò mò của người Anh bắt đầu phơi bày ra ánh sáng.
Những trụ đá của Vua a Dục dĩ nhiên là những đối tượng đập vào mắt họ. Câu
chuyện lãng mạng về những khám phá của ngành khảo cổ bắt đầu từ thủ đô của
Ấn Ðộ, vào năm 1750 khi Padre Tieffenthaler, khám phá ra Trụ Delhi-Meerut
trên Ðỉnh Delhi. Cùng trong năm đó, Allhabad-Trụ Kosam ở Allhabad, cũng
được khám phá. Tiếp theo đó là sự khám phá Trụ Lauriya- Araraj ở Bihar vào
năm 1784. Năm 1785, Trụ Delhi-Topra ở Ferozshah Koat, Delhi được Ðại Úy
Polier khám phá. Ông giới thiệu một số hình vẽ những câu khắc trên đó cho
ông William Jones, người thiết lập Hội Á Châu Bengal ở Calcutta vào năm
1784 để sưu tập, giải mã và dịch những mảnh khảo cổ và các loại khác do
những thành viên của hội tìm được.
Vào năm 1836, một số câu khắc trên Ðá và Trụ được khám phá trong nhiều khu vực ở Ấn Ðộ. Nhưng không có người nào biết cả nội dung, lẫn tên của người đã tạo ra chúng. Không một học giả Ấn Ðộ nào có đủ trình độ để giải mã những câu khắc xưa nhất của Ấn Ðộ đã được tìm thấy không những trên Ðá và Trụ mà còn trên một số công trình kiến trúc. Vào năm 1837, James Prinsep, một viên chức cao cấp của Sở Ðúc Tiền Ấn Ðộ ở Calcutta, và là Tổng Thư Ký Hội Á Châu Bengal, sau nhiều năm cần mẫn nghiên cứu và làm việc, đã thành công trong việc giải mã những câu khắc. Vào tháng 7 năm 1837, ông xuất bản những bản sao, sự phiên âm ngữ âm, và bản dịch ra Anh Ngữ những câu khắc trên Trụ đã được biết đến trong lúc đó. Vào năm 1838, Prinsep giãi mã và xuất bản bản dịch câu khắc trên Tảng Ðá Girnar, trụ nầy được khám phá bởi Thiếu Tá James Tod vào năm 1822, và câu khắc trên Tảng Ðá Dhauli được khám phá bởi Ðại Úy M. Kottoe vào năm 1837. Ông cũng làm một cuộc nghiên cứu tỷ giảo hai câu khắc trên đá đó và thấy rằng chúng có cùng một ngôn ngữ và nội dung. Những chữ mở đầu của tất cả các chỉ dụ trên Trụ và Tảng Ðá là: Người được chư thần thương yêu, Vua Piyadasi, đã nói thế nầy. Ai là Vua Piyadasi, điều đó vẫn còn nằm trong bí mật. May mắn thay, cũng vào khoảng thờ gian đó, George Turnour dịch và ấn hành bằng tiếng Anh cuốn Mahavamsa, một cuốn sử biên niên viết bằng tiếng Pali của Miến Ðiện. Chữ Piyadasi thấy trong Mahavamsa giúp James Prinsep nhận ra rằng Vua Piyadasi chính là Vua A Dục(Ashoka), là vị Hoàng Ðế Phật Giáo vĩ đại). Sự giãi mã những chỉ dụ của Vua A Dục và sự nhận diện ra Vua A Dục là một biến cố, mở ra kỷ nguyên mới. Nó làm phong phú cho lịch sử Ấn Ðộ và Phật Giáo đến nỗi tất cả các sách lịch sử đều phải viết lại. Sự xuất hiện của ông Alexander Cunningham, vị Tổng Giám Ðốc đầu tiên của Cơ Quan Nghiên Cứu Khảo Cổ Ân Ðộ vào năm 1821, là một ân huệ cho Ấn Ðộ nói chung và Phật Giáo nói riêng. Không nghi ngờ điều gì ông là một nhà khảo cổ tiên phong vĩ đại nhất, và là một vị anh hùng hổ trợ cho sự phục sinh của phật Giáo ở Ấn Ðộ. Khám phá quan trọng đầu tiên của ông thực hiện tại Sanchi. Mặc dù những công trình kiến trúc ở Sanchi đã được khám phá năm 1818 nhưng mãi cho đến năm 1851, Ðại Tháp mới được Cunningham mở ra. Bên trong Tháp, ông khám phá ra xá lợi của hai vị đại đệ tử của Ðức Phật là Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallana). Những xá lợi nầy được mang về London, được giữ và chăm sóc cẩn thận cho đến khi nó được trả về Ấn Ðộ vào thế kỷ sau. Tác phẫm Bhilsa Topes hay là những Công Trình Kiến Trúc Phật Giáo Ở Trung Ấn vào năm 1854 là một nghiên cứu toàn diện về những Chùa Chiền ở Sanchi. Sự nhiệt tâm và say mê của Cunningham trong lãnh vực khảo cổ mở ra một viễn ảnh về việc nghiên cứu những công trình kiến trúc cổ. Và một điều may mắn khác, một học giả người Pháp M. Stanisla Julien, trong thời gian đó cũng xuất bản một bản dịch những tường thuật về cuộc du hành của ngài Huyền Trang, một nhà hành hương và chiêm bái nổi danh của Trung Hoa đến Ấn Ðộ từ năm 629 đến năm 644 sau Tây Lịch. Cunningham đi theo dấu chân của ngài Huyền Trang, viếng mọi nơi mà nhà hành hương Trung Hoa đã diễn tả, và với sự làm việc kiên nhẫn và sự bạo dạn lớn lao nhất, ông đã thành công trong việc khám phá ra hầu hết các ngôi Chùa Phật Giáo. Trong tác phẫm bất hủ của ông: Ðịa Lý Cổ Ðại Ấn Ðộ, Phần I, Thời Ðại Phật Giáo, Cunningham tóm tắt lịch sử vinh quang của những di tích và những công trình kiến trúc Phật Giáo rải rác khắp nơi trên đất Ấn. Vào năm 1870, ông khai quật vùng lân cận Chùa Bồ Ðề Ðạo Tràng, và xuất bản những kết luận của ông trong tác phẩm tên là: Ðại Bồ Ðề, hay Ngôi Chùa Lớn Ở Bồ Ðề Ðạo Tràng. Vào năm 1873-74 Cunningham khai quật Ðại Tháp Bharhut và cứu vãn được nghệ thuật tinh tế nhất của Phật Giáo khỏi bị rơi vào quên lãng. Tác phẩm được xuất bản của ông là: Tháp Barhut, đã rọi một nguồn sáng vào nơi thờ phượng cổ nhất của Phật Giáo ở vùng Trung Tâm ấn Ðộ. Những câu khắc của vua A Dục cũng được Cunningham lưu ý và chính ông vào năm 1877 đã xuất bản văn bản và bản dịch tất cả những câu khắc đã được biết đến. Sự tái phát hiện những công trình kiến trúc Phật Giáo, cũng như Văn Học Phật Giáo Pali và Sanscrit, giữ nó dưới hình thức gốc hay dưới bản dịch, ở Miến Ðiện, Nepal, Tây Tạng, và Trung Hoa đã tạo một nhận thức mới trong dân chúng Ấn Ðộ, nhưng chưa một ai nghĩ đến sự phục hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ. Vào năm 1885, thi sĩ Edwin Arnold, là tác giả nổi danh thế giới với tác phẩm: Ánh Sáng Á Châu viếng thăm Bồ Ðề Ðạo Tràng và kinh hoàng khi thấy tình trạng đáng thương của nơi thờ phượng thiêng liêng nhất của tín đồ Phật Giáo. Về sau ông viết những bài báo đăng trong tờ Telegraph mà ông là chủ biên, và lôi kéo được sự lưu tâm của tín đồ Phật Giáo về tình trạng đáng thương tâm của Bồ Ðề Ðạo Tràng, và thuyết phục họ cứu vãn nó tránh khỏi phải bị tổn hại nhiều hơn. Cảm hứng bởi những bài báo, Dharmapala, một tín đồ Phật Giáo trẻ ở Sinhala, viếng thăm Sarnath và Bồ Ðề Ðạo Tràng vào tháng giêng năm 1891 để tận mắt thấy những tình trạng của những ngôi Chùa Phật Giáo. Ông bị kích động khi thấy tình trạng khủng khiếp của nơi thờ phượng thiêng liêng nhất. Ở Bồ Ðề Ðạo tràng, nơi ông bị chấn động rõ rệt khi dưới sự chăm sóc của Mahant, Chùa Ðại Bồ Ðề bị bỏ bê và mạo phạm một cách đáng tủi thẹn. Vì vậy, ông kiên quyết phục hồi vinh quang ngày xưa của những nơi thờ phụng thiêng liêng và làm chúng trở thành những Trung Tâm Phật Giáo sống. Với mục đích đó trong tâm, ông thành lập Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ vào này 31 tháng 5 năm 1891. Không lâu sau đó, Nagarika Dharmapala sắp đặt bốn vị Tăng Sĩ từ Miến Ðiện đến ở ngôi nhà nghỉ Miến Ðiện tại Bồ Ðề Ðạo Tràng để chăm sóc Chùa Ðại Bồ Ðề. Phong trào phục hưng Phật Giáo tại Ấn Ðộ khởi sự từ đó. Phong trào phục hưng đạt được động lượng khi một số người con của đất nước trở thành những tăng sĩ Phật Giáo và phục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng Già. Người Ấn Ðộ đầu tiên trở thành Tu Sĩ Phật Giáo trong thời hiện đại là Mahavir Swami. Ông xuất gia ở Miến Ðiện vào năm 1890 và về sau tạo Kushinagar thành trung tâm sinh hoạt của ông. Tiếp theo sau Mahavir Swami là các ngài Ðại Ðức Dharmananda Kosambi(1902), Ðại Ðức Bodhananda(1914), Bhadant Anand Kausalayayan (1928), Mahapandit Rahul Sankriyayan(1930), và Ðại Ðức Jagdish Kashyap(1934). sự xây dựng những ngôi Chùa mới như Sri Dharmarajika Vihara ở Calcutta vào năm 1920, Buddha Vihara ở Risalda Park, Lucknow vào năm 1925, Malagandhakuti Vihira ở Sarnath vào năm 1931 và Buddha Vihira ở New Delhi vào năm 1939, tạo thêm sức đẩy cho phong trào phục hưng. Vào lúc nước Ấn Ðộ được trả độc lập vào năm 1947, gia tài khổng lồ của Phật Giáo, Nghệ Thuật và Văn Học của nó được nhiều người trên đất Ấn Ðộ biết đến. Khi Quốc Hội Ấn Ðộ bận rộn phát hoạ một Hiến Pháp cho nước Ấn Ðộ tự do, vấn đế quồc kỳ và Biểu Tượng Quốc Gia làm rối những nhà thành lập. Cuối cùng họ hướng về gia tài Phật Giáo, nó tiêu biểu cho quá khứ vinh quang của Ấn Ðộ. Cảm ơn sự sáng suốt của Quốc Hội. Bánh Xe Pháp Luân và Ðầu Cột Sư Tử của Trụ Vua A Dục ở Sarnath được chọn làm những Biểu Tượng Quốc Gia của nước Ấn Ðộ tự do. Ba nhân vật kích động phía sau sự chọn lựa những Biểu Tượng Văn Hóa Phật Giáo nầy làm Biểu Tượng Quốc Gia là: Bác Sĩ Rajendra, Chủ Tịch Quốc Hội, đến từ Bihar, nơi Ðức Phật Giác Ngộ; Jawaharlal Nerhu, Thủ Tướng, là người ngưỡng mộ Ðức Phật và Vua A Dục, và Bác Sĩ B. R. Amberdkar, Tổng Thư Ký Quốc Hội là người phát họa Bản Hiến Pháp, cũng là người thay đổi giòng lịch sử trong một ít năm sau đó bằng cách đã hướng dẫn hàng ngàn đồ đệ của ông theo Phật Giáo. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1947, Jawaharlal Nerhu đề nghị trước Quốc Hội: Kính thưa Ông Chủ Tịch, đây là một niềm hãnh diện cho chúng tôi được đệ trình nghị quyết sau đây: - Quyết định rằng Quốc kỳ của nước Ấn Ðộ sẽ có ba màu nằm theo chiều ngang, vàng đậm, trắng, và xanh lá cây đậm tỷ lệ bằng nhau. Ở trung tâm phần trắng, có một bánh xe mầu xanh dương tương trưng cho Charkha. Hình Bánh Xe sẽ là hình Bánh Xe thấy ở trên Ðầu Trụ Sư Tử Sarnath của Vua A Dục. Ðường kính của bánh xe, sẽ tùy thuộc vào chiều rộng của dãi màu trắng. Tỷ lệ chiều ngang đối với chiều dài của lá cờ thông thường sẽ là 2.3. - Nghị quyết nầy, thưa Ngài, được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, bằng kỷ thuật ngôn ngữ đơn sơ và không có sự sôi nổi hay nồng nàn trong những lời mà tôi đang đọc. Nhưng tôi chắc chắn rằng nhiều người trong tòa nhà nầy sẽ cảm thấy sôi nổi và nồng nàn. Tôi cảm thấy trong giờ phút nầy, nằm xa đằng sau Nghị Quyết và lá Quốc Kỳ mà tôi có vinh dự trình ra trước tòa nhà nầy để được chấp thuận chứa đựng lịch sử, một lịch sử được cô đọng của một giai đoạn ngắn trong sự sống còn của Quốc Gia. Tuy nhiên, một đôi khi trong một giai đoạn ngắn, chúng ta xuyên qua đoạn đường của nhiều thế kỷ. Không phải sự sống đơn thuần là đáng kể, nhưng chính là điều mà một người thực hiện trong kiếp sống ngắn ngủi nầy ở bên trong chúng ta; Không phải chỉ một sự hiện hữu đơn thuần của một Quốc Gia là đáng kể, nhưng chính là điều mà Quốc Gia đó thực hiện ở những giai đoạn khác nhau trong sự hiện hữu của nó; và tôi mạo muội tuyên bố rằng trong phần tư thế kỷ vừa qua, nước Ấn Ðộ đã sống và hành động một cách cô đọng, và những nỗi xúc cảm đầy ắp trong lòng của nhân dân không chỉ đại biểu cho một sự quyến rũ ngắn ngủi vài năm, nhưng là một cái gì tuyệt đối hơn nữa . Nerhu nói thêm: Tôi xin thưa rằng, đây chính là niềm hãnh diện của tôi, được gia phó đệ trình Nghị Quyết nầy. Giờ đây, thưa ngài, tôi xin nói một vài lời về lá cờ nầy. Chúng ta sẽ thấy rằng có một sự thay đổi nhỏ, từ cái mà trong nhiều người chúng ta đã dùng trong những năm qua. Màu sắc thì không thay đổi, một màu vàng nghệ đậm, một màu trắng và một màu xanh dương đậm. Trong phần màu trắng, trước kia có hình Charkha tượng trưng cho giới bình dân Ấn Ðộ, tượng trưng cho đại đa số quần chúng, tượng trưng cho kỷ nghệ của họ và đến với chúng ta, từ thông điệp của Mahatma Gandhi. Giờ đây biểu tượng Charkha được thay đổi một ít trên lá cờ nầy, không loại bỏ hoàn toàn. Tại sao nó được thay đổi? Nói một cách thông thường, biểu tượng trên một mặt của lá cờ phải hoàn toàn giống như mặt kia. Ngược lại, sẽ có khó khăn đối với những quy luật. Giờ đây hình charkha như trước đây đã có mặt trên lá cờ nầy, có một bánh xe ở một bên, và một cái trục ở một bên. Nếu quý vị nhìn mặt kia của lá cờ, cái trục đi theo chiều kia và bánh xe đi theo chiều nầy; nếu không như thế nó sẽ không cân xứng, bởi vì bánh xe phải hướng về cực, không hướng về đuôi của lá cờ. Có sự khó khăn thực tiễn nầy. Vì vậy sau khi suy nghĩ kỷ lưỡng chúng tôi đồng ý rằng biểu tượng lớn lao đã chiếm cảm tình của dân chúng nầy vẫn tiếp tục giữ, nhưng nó được tiếp tục giữ với một sự thay đổi nhỏ, rằng là bánh xe vẫn ở đó, không còn hình Charkha, cái trục và cái giải tạo ra sự lộn xộn nầy, phần chính của Charkha vẫn ở đó, đó là bánh xe. Nhưng loại bánh xe nào chúng ta sẽ dùng? Chúng tôi suy xét lại nhiều bánh xe, và lưu ý đến một bánh xe nổi danh, xuất hiện ở nhiều nơi và tất cả chúng ta đều đã thấy, bánh xe trên Ðầu Trụ Vua A Dục và ở nhiều nơi khác. Bánh xe nầy là Biểu Tượng của nền Văn Hóa cổ Ấn Ðộ, nó là Biểu Tượng của nhiều thứ, mà Ấn Ðộ đã trải qua nhiều thời đại. Vì vậy chúng tôi nghĩ rằng Biểu Tượng Bánh Xe nầy sẽ ở chỗ đó và chúng ta có bánh xe đó. Nerhu nói thêm: - Về phần tôi, tôi vô cùng hân hoan rằng trong ý nghĩa nầy, một cách không trực tiếp, chúng ta đã kết hợp Biểu Tượng nầy với lá cờ của chúng ta, nhưng trong một ý nghĩa, tên của Vua A Dục, một trong những tên tuổi huy hoàng nhất, không chỉ của lịch sử Ấn Ðộ mà còn của lịch sử thế giới. Chính trong thời điểm xung đột, tranh giành và không khoan thứ nầy, tâm hồn chúng ta phải quay trở về cái mà Ấn Ðộ đã trải qua trong những ngày xa xưa. Nghị quyết về lá Quốc Kỳ được Quốc Hội thông qua không tranh cãi, Bánh Xe Pháp Luân tượng trưng cho Giáo Pháp của Ðức Phật vào ngày 15 tháng 8 năm 1947 trở thành biểu tượng của tự do, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân dân Ấn Ðộ. Ðầu Trụ Sư Tử của Vua A Dục được chấp thuận như là Huy Hiệu Quốc Gia, cũng tượng trưng cho Ðạo Phật. Bốn con sư tử hướng ra bốn phương, tượng trưng cho tướng Sử Tử Rống của Phật Ðà giảng dạy cho bốn phương. Những nhà lập hiến cũng chấp thuận tư tưởng Quốc Gia Phúc Lợi của Vua A Dục: Không có một bổn phận nào quan trọng hơn đối với ta, hơn là tạo Phúc Lợi cho mọi người, Vua A Dục đã nói như thế. Niềm ước muốn duy nhất của ông là làm cho dân chúng hạnh phúc về mọi phương diện. Vì vậy ông theo đuổi châm ngôn: Bahujana-Hitaya, Bahujana-Sukhaya. Nghĩa là: Vì lợi ích của nhiều người, vì phúc lợi của nhiều người. Trong những việc quốc sự, mặc dù Vua A Dục là một tín đồ Phật Giáo thuần thành, nhưng sự cai trị của ông đặt nền tảng trên những lý tưởng chung. Ông nâng đỡ Phật giáo, nhưng không bao giờ đàn áp những tín nguỡng khác. Ngược lại ông còn trợ cấp cho họ. Thật vậy chính sách của ông, được đánh dấu với sự hoàn tòan loại bỏ tinh thần Quốc Gia gây hấn, trên một bình diện chính trị, và sự cuồng tín trên bình diện tôn giáo. Ngay cả sau khi đặt Phật Giáo làm Quốc Giáo, Vua A Dục cũng đã không chung chiếu với những thế lực đen tối của đức tin mù quáng và sự thù nghịch tôn giáo. Ấn Ðộ ngày nay đã đi theo thể chế Chính Phủ Dân Chủ, và đời sống dân chủ. Ở Ấn Ðộ, tư tưởng dân chủ cũng đã phát nguồn từ những tín đồ Phật giáo. Ðoàn thể Tăng Già do Ðức Phật dựng nên đặt nền tảng trên tinh thần dân chủ và hoạt động giống như Quốc Hội ngày nay. Ðể nhấn mạnh điểm nầy, Jawalarlal Nerhu trích nhận xét sau đây của Lord Zetland trong Khám Phá Ấn Ðộ: - Và điều nầy làm ngạc nhiên nhiều người khi biết rằng trong những Cộng Ðồng Tín Ðồ Phật Giáo ở Ấn Ðộ hai ngàn hay hơn hai ngàn năm trước chúng ta có thể tìm thấy những nguyên tắc cơ bản của sự thực hành hệ thống Quốc Hội ngày nay. Phẩm giá của Tăng Ðoàn được duy trì với sự ủy nhiệm một viên chức đặc biệt, hình thức phôi thai của Vị Chủ Tịch trong Hạ Nghị Viện. Một viên chức thứ hai được ủy nhiệm dể bảo đảm số Ðại Biểu qui định, mẫu đầu tiên của Trưởng Ban Tổ Chức trong hệ thống của chúng ta. Khi cuộc tranh luận đưa đến sự khác biệt về ý kiến, vấn dề được quyết định bằng sự biểu quyết của đại đa số, sự biểu quyết thực hiện bằng việc bỏ phiếu kín. Bày tỏ những quan điểm tương tự ở Quốc hội và ngày 17 tháng 10 năm 1949, Bác Sĩ Ambedkar, vị Kiến Trúc Sư lớn của Hiến Pháp Ấn Ðộ, nói: Vào ngày 26 tháng giêng năm 1950, nước Ấn Ðộ sẽ là một nước Dân Chủ trong ý nghĩa rằng nước Ấn Ðộ từ ngày đó sẽ có một chính phủ của nhân dân, vì nhân dân và cho nhân dân... Không phải là nước Ấn Ðộ đã không biết thế nào là dân chủ. Ðã có một thời nước Ấn Ðộ được xây dựng với những Cộng Hòa và gồm nhiều nước quân chủ, và chúng được bầu cử hay giới hạn. Chúng không bao giờ là tuyệt đối. Không phải rằng Ấn Ðộ đã không bao giờ biết đến Quốc Hội và thủ tục Quốc Hội. Nghiên cứu về Ðoàn Thể Tăng Già Phật Giáo cho chúng ta thấy rằng không những chỉ có những Nghị Viện, mà Tăng Già còn biết tiến hành tất cả những quy tắc thủ tục Nghị Viện mà chúng ta biết ngày nay. Họ có những quy luật về kiến nghị, quyết Nghị, Số Ðại Biểu quy định, Ðặc Trách Tổ Chức, Ðếm Phiếu, Bỏ Phiếu Kín, Vận Ðộng Phê Bình, Việc Giữ Ðúng Nguyên Tắc, Nhiệm Kỳ... Trong Tăng Già Phật Giáo, vị Chủ Tịch được gọi là Asanaprajnapaka(thủ tọa). Kiến nghị được nêu ra ba lần trước Ðại Chúng. Nếu mọi người đều im lặng, nó được coi như thông qua không tranh cãi. Trong trường hợp bất đồng ý kiến, vấn đề được đưa ra đầu phiếu kín của đa số. Phiếu kín được goi là Salaka. Những người thâu thập phiếu kín được gọi là Salaka Gahapaka. Như vậy sự giải quyết tranh cãi trong Tăng Già theo một lề luật rất tiến bộ, và thật sự dân chủ. Vào ngày 26 tháng Giêng 1950, nước Ấn Ðộ trở thành một nước Ðộc Lập Cộng Hoà Dân Chủ, bảo đảm cho mọi người dân Công Lý, Tự Do, Bình Ðẳng, và Huynh Ðệ. Vào ngày đó Dinh Phó Vương trở thành trụ sở của Chủ Tịch nước Ấn Ðộ. Dinh thự tráng lệ Rastrapati Bhavan, như được biết, có 340 phòng, 227 cây cột, 35 mái hiên và một dặm rưỡi hành lang. Trong Ðại sảnh Durbar nơi dùng vào những buổi tiếp kiến của Phó vương dưới thời cai trị Anh, mà vị Phó Vương ngồi trong chiếc ghế được trang sức bằng bạc, ngày nay đặt một tượng Phật nhập định cao để ban phúc cho những nhà lãnh đạo nước Ấn Ðộ hiện đại. Ðại Sảnh Dunbar được vị Chủ Tịch dùng làm nơi cử hành những lễ phong chức và trao những giải thưởng Quốc gia. Cạnh bên là Ðại Sảnh A Dục, đặt theo tên Vua A Dục. Ðó là phòng khiêu vũ của Phó Vương ngày xưa. Ngày nay, các vị Tân Bộ Trưởng phát lời tuyên thệ ở đây. Những vị Ðại Sứ nước ngoài cũng trình Ủy Nhiệm Thư lên Chủ Tịch Ấn Ðộ ở phòng nầy. Ðầu Trụ hình bò đực nổi tiếng trên Trụ A Dục ở Rampurva, Bihar được nhìn thấy ngay trước lối vào Ðại Sảnh A Dục. Trên chóp chóp của cái vòng Trung tâm cao 180 feet của điện Rashtrapati Bhavan, trên đó lá cờ Quốc Gia bay phất phới, cũng gần giống như ngôi tháp Sanchi. Sau khi độc lập, vấn đề có một kỷ nguyên Quốc Gia cũng được dặt ra. Ðể thực hiện mục tiêu nầy, Hội Ðồng Cải Cách Lịch do Bác sĩ Meghnath Saha được đề cử làm Chủ Tịch. Theo đề nghị của hội Ðồng, Chính Phủ Ấn Ðộ chấp nhận Kỷ Nguyên Saka(Ðế Thích) bắt đầu từ thời đại Ka Nhị Sắc Ca, một vi Vua Phật Giáo khác, lên ngôi năm 78 sau Tây Lịch, và cai quản phần lớn Miền Bắc Ấn cho đến năm 101. Kỷ Nguyên, khởi đầu từ Ca Nhị sắc Ca được biết là Kỷ Nguyên Saka và được đưa vào Kỷ Nguyên Quốc Gia vào ngày 22 tháng 3 năm 1957 tương ứng với ngày 1 tháng Chaitra năm 1879. Năm Saka, giống như năm George, thường có 365 ngày, và 366 ngày vào năm nhuần. Thông thường, tháng Chaitra có 30 ngày, và vào tháng nhuần thì cò 31 ngày. Các tháng Vaisakha, Jaistha, Asadha, Sravana, và Phalguna là 31 ngày, và những tháng còn lại Asvina, Kartika, Agrahayana, Pausa, Magha và Phalguna có 30 ngày. Nguyên tắc chủ đạo về chánh sách đối ngoại của Ấn Ðộ, được Jawaharlal Nerhu, người xâ dựng nước Ấn Ðộ tân tiến, công thức hoá, bao gồm Năm Nguyên Tắc về chung Sống. Công thức hóa những nguyên tắc nầy, Nerhu đã cảm hứng từ chính sách chung sống hoà Bình của Vua A Dục, và năm giới, những giới luật tối thiểu của một tín dồ Phật Giáo tại gia, do Ðức Phật chế ra. Năm nguyên tắc, được Nerhu công thức hoá, và đươc Hội Nghị Bandung của các nước Á Châu xác nhận vào tháng 4 năm 1955 là: 1- Tôn trọng sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của mỗi nước. 2- Không gây hấn. 3- Không xen vào việc nội bộ của nước khác. 4- Quyền lợi bình đẳng và tương quan. 5- Chung sống hoà bình. Nghệ thuật Ấn Ðộ là nghệ thuật Phật Giáo. Thật vậy tín đồ Phật Giáo là những người tiên phong trong mọi hình thái nghệ thuật. Trong các công trình Phật Giáo ở Ấn Ðộ, những Ðộng Ajanta là nổi tiếng nhất. Ðược chạm trên những đá sống, những bức tranh giàu nghệ thuật điêu khắc và đẹp đẽ trên các bức tường, trụ, và trần của một số động, chúng là những di tích quý giá nhất của nghệ thuật Ấn Ðộ cổ. Chúng ta không nghi ngờ, chúng thu hút một số lượng lớn nhất khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Nổi bậc là một con voi với một hoa sen trên vòi từ bức tranh vẽ trên tường được lấy dùng làm biểu tượng cho Sở Du Lịch Chính Phủ Ấn Ðộ. Dù trên bình diện nghệ thuât hay kiến trúc, hình ảnh Ấn Ðộ cổ thời cũng được bắt đầu với tín đồ Phật Giáo. Những công trình Phật Giáo được xếp làm ba loại chính: Tháp, những phòng Chùa và những động đục vào đá. Những thứ nầy được khám phá rất nhiều khắp nước và là một nguồn cảm hứng cho các nhà kiến trúc hiện đại. Ðặc biệt cổng vào Sanchi và cửa sổ Ajanta được dùng làm kiểu mẫu cho nhiều toà nhà hiện đại. Một toà nhà như vậy là tòa Viya Bhavan nổi danh ở Delhi, cổng chính của nó là một diễn dịch hiện đại của Cửa Sổ Ajanta. Biến cố quan trọng đầu tiên trong kỷ nguyện sau khi độc lập, tập trung sự lưu tâm của quần chúng Ấn Ðộ vào những đạo đức Phật Giáo, là quay trở về và phục hồi những xá lợi của hai vị đại đệ tử lớn của Ðức Phật, Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên, tại nơi yên nghĩ đầu tiên của chúng là Sanchi. Những Xá lợi nầy được tìm ra bởi Alexxander Cunningham vào năm 1851 từ Ðại Tháp ở Sanchi, và được đem cất giữ cẩn thận ở Luân Ðôn trong Viện Bảo Tàng Victoria và Albert. Với sự yêu cầu của Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ, những xá lợi được Chính Phủ Anh hoàn trả về Ấn Ðộ vào ngày 24 tháng 2 năm 1947. Do sự sắp xếp, xá lợi trước tiên được đem tới Miến Ðiện bởi Daya Hewavitarne, một người cháu của Anagarika Dharmapada, người đã thay mặt Hội Ðại Bồ Ðề nhận tất cả những sở hữu của họ từ Viện Bảo Tàng nói trên. Trải qua một năm rưỡi, những xá lợi được dân chúng Miến Ðiện tôn thờ trước khi chúng tiếp tục hành trình về Ấn Ðộ. Những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất, và Mục Kiền Liên vào đất Ấn Ðộ, sau gần một thế kỷ du hành ở Luân Ðôn, vào ngày 13 tháng 1 năm 1949, và được chào đón trên tàu H.M.I.S. Tir bởi Bác Sĩ Kailash Nath Katju, Thống Ðốc miền Tây Bengal. Sau khi di chuyển xá lợi từ tàu, xá lợi được đem về Tòa Nhà Chính Phủ với một đám rước cờ hoa sặc sỡ, ở đây những xá lợi tạm thời được giữ trong phòng Ðặt Ngai. Xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đuợc ông Jawaharlal Nerhu, Thủ Tướng nước Ấn Ðộ, trao cho Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ trong một buổi lễ công cộng tổ chức tại Calcutta vào ngày 14 tháng 1 năm 1949. Một cuộc gặp gỡ công cộng có cả nửa triệu người đại diện nhiều quốc gia tham dự, do Bác Sĩ K. N. Katju, Thống Ðốc Miền tây Bengal, làm chủ trì. Trong buổi lễ lịch sử nầy, Jawaharlal Nerhu nói: Tôi đã đến nơi đây thay mặt cho Chính Phủ Ấn Ðộ để chào mừng quý vị và nhận những xá lợi nầy của hai người con lớn lao của đất nước Ấn Ðộ đã sống gần 2500 năm trước. Ðây là một hân hạnh cho tôi và cho Chính Phủ mà tôi đại diện được tham dự trong dịp nầy, và trong lòng tôi có một cái gì còn lớn lao hơn là cơ hội nầy. Có một chuổi những con người vĩ đại đi qua tâm hồn tôi từ ngày mà Ðức Phật sinh trưởng trên mảnh đất cổ xưa nầy và truyền bá ánh sáng Trí Tuệ của ngài trong quốc gia nầy, và những quốc gia khác, và về sau khi thông điệp mà ngài đã ban ra lập đi lập lại nhiều lần. Quay sang những đại biểu các quốc gia Phật Giáo láng giềng, Jawaharlal Nerhu nói: Nhiều người trong quý vị đến từ những quốc gia xung quanh Ấn Ðộ, và có những vị còn xa hơn. Tôi xin đón mừng quý vị ở đây. Ðối với quý vị cũng vậy, nếu tôi có thể nói như vậy, là một chuyến về quê. Chúng ta đang đón mừng chuyến về quê của những xá lợi nầy đã đi xa trên một trăm năm về trước, chuyến về quê của những chân lý lớn lao. Ðó cũng là chuyến về quê của nhiều nguời từ những vùng đất xa xôi đã về đây trên trên nước Ấn Ðộ nầy, coi Ấn Ðộ hầu như quê hương của mình, nếu tôi tôi có thể nói như vậy. Trong những ngày xa xưa khi thông điệp của Ðức Phật dược truyền ra ngoài đất nước của chúng tôi, và những nhà hành hương từ mảnh đất nầy đi đến những đất nước khác. Ðến và đi xảy ra thường xuyên và mối quan hệ nầy đã liên kết chúng ta lại với nhau. Ðó là mối quan hệ tinh thần và không có một dính mắc chính trị nào mà chúng ta buộc bằng những sợi dây lụa. Cuối cùng, giờ đây, buổi lễ hôm nay lại một lần nữa mang lại những gắn bó đó. Chúng ta hãy hy vọng rằng chẳng những chúng ta mà cả những quốc gia khác nữa cũng sẽ chung sống trong hòa bình và chúng ta sẽ không có sự xung đột. Nếu có một xung đột nào chúng ta sẽ giải quyết bằng hoà bình và thiện chí. Bác Sĩ K. N Katju, Thống Ðốc miền Tây Bengal, người chủ trì buổi lễ, trong bài diễn văn ông nói: Hôm nay chúng ta làm lễ chào mừng việc trở về nhà của hai nhân vật vĩ đại sinh ra trên vùng đất cổ xưa nầy của chúng ta. Hai vị đại đệ tử của Ðức Cồ Ðàm Phật Ðà, Ðấng Giác Ngộ, được ngài coi như những người truyền bá và diễn dịch sáng chói nhất giáo pháp tuyệt vời mà ngài đã giảng dạy để cứu độ loài người. Tên của hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên quấn quít với tên của Ðức Thế Tôn, và trải qua vô số thế hệ trong nhiều quốc gia, hai ngài đã mang đến niềm an ủi và sự cảm thông. Một vị là hiện thân của đức khiêm tốn, dịu dàng và kiên nhẫn, sự kiên nhẫn vượt qua mọi hiểu biết, và vị kia, Mục Liền Liên, trí thông minh sắc bén biện tài sắc sảo và nổi danh về thần thông. Cả hai ngài là những vị đệ tử mà Ðấng Từ Phụ rất thương yêu và chúng ta đang mừng đón hai ngài trở lại hôm nay. Những xá lợi nầy rõ ràng là được thờ phụng dưới những chỉ thị của Vua A Dục ở nhiều nơi trong Ấn Ðộ, nhân khi Giáo Pháp cao thượng của Ðấng Từ Phụ không còn làm sinh động cuộc sống của chúng ta, chúng ta đánh mất mọi sự hiểu biết ngay cả những địa danh thiêng liêng gắn liền với tên của Ðức Từ Phụ và đệ tử của Ngài. Tiếo theo, Bác Sĩ Katju nói: Không phải là sự trùng hợp ngẩu nhiên mà với sự lớn lên của ý thức Quốc Gia của chúng ta, đã đến với chúng ta, trong một mức độ rộng lớn hơn, và rộng lớn hơn, ý thức về sự tuyệt vời của Giáo Pháp được giảng dạy trên đất Ấn Ðộ 2500 năm về trước, và dọc ý thức đó, chúng ta cũng đã khám phá như là một sự kỳ diệu nhiều kho tàng thiêng liêng của chúng ta. Trong những đống vụn của một ngôi tháp đổ nát, chín mươi năm trước chúng đã tìm thấy những mớ tro thiêng liêng nầy chúng ta được đưa đi xa qua Anh Quốc và chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi đất nước thân yêu của chúng ta được tự do và dùng Biểu Tượng Bánh Xe Chánh Pháp được quay lần đầu tiên ở Sanath do Ðức Từ Phụ như là trung tâm của mọi tình cảm và lòng trung thành mà hai vị đệ tử của Ngài lại trở về. Bây giờ các ngài có thể yên nghỉ trong thanh bình, tôi hy vọng, trong hàng trăm năm trên quê hương của họ ở Sanchi, được mọi người dân Ấn Ðộ không phân biệt chủng tộc tín ngưỡng hay mầu da, biết đến và tôn kính. Bác Sĩ Shyma Prasad Mookerjee, Chủ Tịch Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ, khi nhận xá lợi từ Thủ Tướng, nói: Việc xảy ra hôm nay thực sự là một sự việc lịch sử. Hai vị thánh lớn của Phật Giáo, ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên, vui mừng hơn tất cả mọi người về niềm tin và sự tôn kính đối với Ðức Cồ Ðàm Phật Ðà. Những xá lợi của hai ngài gợi nhớ cho chúng ta ảnh hưởng lớn lao mà hai ngài đã tạo ra trong thời đại của họ và cao cả nhất là với tư cách cá nhân, các ngài đã giữ vai trò thiết lập Giáo Pháp của Ðức Phật trên nền tảng vững vàng và chắc chắn. Chúng ta cũng tôn trọng các ngài như là biểu tượng của sự lớn lao đã có lần thuộc về Ấn Ðộ, về sự cao vời của tâm linh mà nó đã đạt được hàng ngàn năm về trước, và về niềm hy vọng mà nó có thể đạt được trong tương lai vẫn còn chưa đến. Trước khi được đem về Sanchi để thờ phụng xá lợi của ngài Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên được đem đến nhiều nơi trên đất Ấn để dân chúng có dịp tỏ lòng tôn kính đối với hai đại đệ tử của Ðức Từ Phụ. Sự tiếp đón xá lợi nồng hậu nhất là của dân chúng Bihar, nơi sinh và trưởng thành của hai ngài. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1949, xá lợi của hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đi đến Patna và được năm chục ngàn người tiếp đón với sự vui mừng và nồng nhiệt lớn lao. Phát biểu trong dịp nầy, Bác Sĩ Sri Krisna Sinha, Thủ Tướng Bihar nói với niềm kiêu hãnh chân thật và cảm tưởng biết ơn, lịch sử Bihar là lịch sử thu nhỏ của Ấn Ðộ và hơn thế nữa trong một chiều hướng nào đó, lịch sử của thế giới. Ấn Ðộ đã là nước dẫn đầu thế giới qua nhiều thời đại và uy tín cho sự dẫn đầu đó là từ Ðức Phật và đoàn thể đệ tử vô ngã của ngài. Những lễ chào mừng sự trở về của xá lợi ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên được kết thúc với một cuộc lễ lớn tạo Sanchi vào tháng 11 năm 1952 với sự hiện diện của Thủ Tướng Ấn độ, Miến Ðiện, những nhà lãnh đạo Phật Giáo thế giới và chư vị Ðại Ðức Tỳ Kheo. Phát biểu trong dịp nầy, Thủ Tướng Ấn Ðộ, Jawaharlal Nehru, nói rằng ông thấy trong giáo lý của Ðức Phật một con đường dẫn đến tiến bộ thịnh vượng và rằng ông đã lấy việc làm cho người khác biết sự rọi sáng nầy như là sứ mạng suốt đời của ông. Ông nói thêm rằng việc trở về quê hương của những xá lợi có một ý nghĩa sâu xa hơn cho tâm hồn ông và ý nghĩa được nhận thấy khi tất cả chúng ta đã tạo nên những ngôi Chùa sống trong tim của chúng, thờ phụng những kỷ niệm cổ xưa để làm kim chỉ nam cho thế giới hổn mang ngày nay. Kết luận, ông Nehru nói: Ngoài cuộc hội họp nầy, một hạt mầm sẽ đâm chồi và hạnh phúc sẽ lan truyền. Như vậy những cuộc lễ ở Sanchi mở ra một viễn cảnh mới cho sự phục sinh của Phật Giáo ở Ấn Ðộ. Năm 1956 đánh dấu một móc lịch sử trong lịch sử huy hoàng của Phật Giáo. Trong năm nầy, Kỷ Nguyên Phật Giáo, bắt đầu với ngày kỷ niệm Ðại Niết Bàn (Mahaparinirvana) 2500 năm của Ðức Phật. Biến cố lịch sử nầy được đón mừng với một sự nồng nhiệt lớn lao khắp thế giới Phật Giáo. Lễ Kỷ Niệm Phật Ðà năm 1956 không nghi ngờ đã đánh dấu sự bắt đầu của một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên hy vọng, hòa bình và thịnh vượng đối với Phật Giáo. Ðối với Ấn Ðộ, điều này là sự thật. Ðể kỷ niệm biến cố lịch sử trong cách thức có lợi ích, Chính Phủ Ấn Ðộ đề cử Bác Sĩ Radhakrisnan, Phó Chủ Tịch nước Ấn Ðộ, cầm đầu Hội Ðồng Tổ chức Lễ Kỷ Niệm Ðức Phật Nhập Niết bàn. Những thành viên khác của Hội đồng là: Thủ Trưởng Uj, Thủ Trưởng Bihar, Thủ Trưởng Assam, Ðaị Ðức Kushak Bakula, Lama Trưởng ở Ladakh, và Maharaj Kumar của Sikkim. Thủ Tướng Ấn Ðộ là một Hội Viên Danh Dự. Với sự thuận lợi của Ủy Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm, chính phủ Ấn Ðộ và nhiều Chính Phủ các nước đề ra những chương trình đầy tham vọng. Lễ Kỷ Niệm Ðại Niết Bàn của Ðức Phật bắt đầu bằng một thông điệp của Chủ Tịch Nước Ấn Ðộ. Trong thông điệp của ông, Bác Sĩ Rajendra Prasad nói: - Nhân dịp lễ kỷ niệm 2500 năm Ðức Phật Nhập Diệt, tôi gởi những lời chúc mừng đến toàn dân trong nước và mọi người công dân trên thế giới. Ðó là một ngày trọng thể cho tất cả những ai tin tưởng vào ưu thế của Ðạo Ðức và sự ưu việt của tinh thần đối với những sự việc thế gian và hiện tượng. Người dân ở vùng đất mà ngài đã trải qua sự khổ hạnh nghiêm ngặt để tìm chân lý và nơi mà ngài đã giảng dạy chân lý về lòng khoan dung tuyệt đối và tinh thần hòa bình toàn khắp, đều là những người được hưởng một niềm vui đặc biệt trong dịp nầy. Trong thời gian kéo dài cả năm của những cuộc lễ, hàng ngàn nghi lễ tôn giáo và văn hóa được tổ chức, và hàng triệu trang giấy được viết để xưng tán Ðức Phật, cũng như hầu hết các Nhật Báo và Báo Ðịnh Kỳ trong nước thêm phần đặc biệt để nói về Ðức Phật và Ðạo Phật. Thêm vào đó, hàng trăm cuốn sách và sách nhỏ được xuất bản bằng nhiều ngôn ngữ Ấn Ðộ. Ðài Phát Thanh toàn Ấn Ðộ suốt một năm trời phát những tiết mục chủ chốt, bài nói chuyện và kịch về Phật Giáo, cũng được sản xuất để đáp ứng với lễ kỷ niệm 2500 năm của Phật Giáo. Các nơi thờ phụng của Phật Giáo được Chính Phủ phục hồi, sửa sang và tân trang để làm cho những người hành hương nước ngoài viếng thăm cảm thấy thoải mái hơn. Những con đường đưa đến những trung tâm này được sửa sang; nhà nghỉ và quán xá được dựng lên; và những công viên được sắp xếp. Khi đặt viên đá nền tảng cho Công Viên Ðức Phật Nhập Diệt ở đỉnh New Delhi, Thủ Tướng Jawahar Lal Nehru nói: - Lễ kỷ niệm 2500 năm ngày Ðức Phật Nhập Diệt biểu hiện sự trở về của Ðức Phật. Như vậy toàn nước trong năm Ðại Niết Bàn của Ðức Phật tràn ngập trong tinh thần của Phật Ðà. Một biến cố quan trọng khác trong năm 1956 là sự trở về của những xá lợi của A La Hán Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu (Moggaliputta Tissa) và chín vị A La Hán khác đã sống dưới thời vua A Dục. Những xá lợi nầy thuộc quyền sở hữu của Viện Bảo Tàng Anh, ở London. Họ đã lấy chúng vào năm 1851. Những Xá Lợi này được mang về lại ngày 5 tháng Hai năm 1956 do Shrimati Vijaya Lakshmi Pandit, đại biểu cao cấp của Ấn Ðộ ở Nga Xô được Thủ Tướng Nehru tiếp nhận trong một buổi lễ cờ hoa sặc sỡ ở phi trường Delhi. Hộp thứ nhất đựng xá lợi của các ngài Mục Kiền Liên, Kosikiputta và Gotiputta được Chính Phủ Ấn Ðộ tặng cho Chính Phủ Miến Ðiện. Hai hộp kia đựng xá lợi của các Ngài Mahyavanya, Apagira, Kodiniputta, Vachiya-Savijayata, Kasapa-gota, Majhima và Haritiputa được tặng cho Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ để họ thờ tại Ngôi Chùa Mới Cetiyagari ở Sanchi. Biến cố nổi bật nhất trong Lễ Tưởng Niệm 2500 năm Ðức Phật Nhập Diệt diễn ra vào ngày 14 tháng Mười. Trong ngày này, Bác sĩ B.R. Ambedkar chính thức quy y theo Phật Giáo, cùng với nữa triệu đồ đệ của ông, trong một buổi lễ gây nhiều ấn tượng và lịch sử được tổ chức tại Nagpur, và gây một tiếng vang thúc dục cho người trong nước thực hành những lời dạy của Ðức Phật. Từ trước đến nay, chưa từng có một số đông đảo người như vậy, cùng một lúc và theo sự đề nghị của chỉ một người, thay đổi tôn giáo của họ. Lịch sử sẽ ghi nhớ Bác sĩ Ambedkar về việc đã trồng lại cây Phật Giáo trên đất mẹ của nó, một bước trong việc phục sinh Phật Giáo và làm cho nó một lần nữa trở thành một tôn giáo sống. Vào tháng Mười Một, tháng Mười Hai năm 1964, nước Ấn Ðộ một lần nữa ngập trong tinh thần Phật Giáo. Cơ hội đưa đến bằng Hội Nghị lần Thứ Bảy của Hội Hữu Nghị Phật Tử Thế Giới được tổ chức ở Sarnath từ ngày 29 tháng Mười Một đến ngày 4 tháng Mười Hai. Ðó là cuộc Hội Nghị đầu tiên của W.F.B. (World Fellowship of Buddhism) được tổ chức tại Ấn Ðộ, tín đồ Phật Giáo Ấn Ðộ dĩ nhiên là rất phấn khởi và họ đã tận lực để thích ứng và trao đổi những tư tưởng với những huynh đệ từ những vùng đất ngoại quốc. Ngoài 68 đại biểu chính thức và 75 quan sát viên đến từ 23 quốc gia, phái đoàn Ấn Ðộ là đông nhất. Họ đến từ mọi nơi trên đất Ấn. Khai mạc Hội Nghị, Bác sĩ S.Radkakrishnan, vị triết gia chủ tịch sáng chói của Ấn Ðộ, cổ vũ hội nghị, nói: - Chân thành noi theo giáo pháp của Bậc Thầy Vĩ Ðại không chỉ trên văn từ, mà trong tinh thần. Ðức Phật đã cho chúng ta một thông điệp có giá trị thường hằng, một thông điệp vĩnh cửu, nó vượt ngoài thời gian, nhưng chúng ta là những hậu duệ không xứng đáng của Vị Thầy Vĩ Ðaị đó. Ngài là một người Siêu Việt, một người vượt trội trong thời đại Ngài, một người ra đời để nói với chúng ta những gì chúng ta nên làm nếu chúng ta muốn phục hồi sự thăng bằng, sự hòa điệu, tình thương, tình huynh đệ của chúng ta. Nếu chúng ta muốn sống trong tình huynh đệ, chúng ta phải phát triển: Tâm Bồ Ðề (Bodhi Hridya), tức Tâm Giác Ngộ, tâm yêu thương, tâm hiểu biết. Vào năm 1976, thế giới Phật Giáo tổ chức lễ kỷ niệm 2600 năm Ngày Ðản Sinh Ðức Phật. Ở Ấn Ðộ, như là một phần trong các cuộc lễ kéo dài suốt năm kỷ niệm biến cố lịch sử nầy, một Hội Nghị Chuyên Ðề Phật Giáo Quốc Tế về Sự Cống Hiến Của Phật Giáo cho Nền Văn Minh và Văn Hóa Thế Giới được tổ chức tại Vigyan Bhavan, New Dehli từ ngày 27 đến 29 tháng Ba, 1997. Hội nghị nầy được tổ chức do Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ với sự hợp tác của Bộ Giáo Dục và An Ninh Xã Hội của chính phủ Ấn Ðộ bằng cách trợ cấp tài chánh cho mục đích này Ba mươi thành viên thế giới từ Bhutan, Canada, Cộng Hòa Liên Bang Ðức, Cộng Hòa Dân Chủ Ðức, Hồng Kông, Cộng Hòa Hàn Quốc, Mông Cổ, Nepal, Miến Ðiện, Ðài Loan, Thái Lan, Liên Hiệp Vương Quốc Anh, Hiệp Chủng Quốc, Liên Bang Xô Viết, và năm hội đoàn khác nhau từ Nhật Bản cùng với năm mươi thành viên từ các nơi trên Ấn Ðộ về tham dự cuộc Hội Thảo. Thêm vào đó, có 18 người tham dự với tư cách quan sát viên. Ðại đức L. Ariyawansa Maha Thera đón tiếp các đại biểu. Cuộc Hội Thảo được B.D. Jatti, quyền chủ tịch nước Cộng Hòa Ấn Ðộ khai mạc. Trong diễn văn khai mạc, ông nói: - Các học giả đều biết rằng thế kỷ thứ sáu trước Tây Lịch đáng được chú ý do sự bất ổn tinh thần và sự sôi sục của trí tuệ xảy ra trong thời đại đó ở nhiều quốc gia. Ðó là vào thời đại của Mahavira và Phật Ðà ở Ấn Ðộ, hay Parmenides và Empedocles ở Hy Lạp, của Zarathustra ở Iran và Lão Tử và Khổng Tử ở Trung Hoa. Ðó là một thời đại của những di sản tinh thần mới và quan điểm mới, nổi lên để xua đuổi sự hỗn loạn của đạo đức và tâm linh mà con người đang thì thụp trong đó. Ở Ấn Ðộ, chính sự ra đời của đức Phật báo trước một cuộc cách mạng trong quan niệm về giá trị và đạo sống của con người. Sự truyền bá của Ðạo Phật là một nổ lực cứu xã hội thoát khỏi sự mê tín, chủ nghĩa duy vật thô lậu và chủ nghĩa hoài nghi đạo đức. Hơn 2500 năm đã trôi qua từ ngày Ðức Phật Ðại Niết Bàn gần Câu Thi La(Kusinagara). Nhưng giáo pháp của Ngài dạy trong 45 năm vẫn còn là một nguồn cảm hứng không phai tàn cho một phần lớn lao của nhơn loại, đại diện cho một phần ba số người trên thế giới. Lễ khai mạc chấm dứt với lời cảm tạ của Ðại Ðức Tiến Sĩ N. Jinaratana Nayaka Thera, Tổng Thư Ký Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ. Tổng kết có 36 trang giấy được đem ra bàn thảo, trong đó có 26 trang quan trọng nhất về nghiên cứu cũng như báo cáo về cuộc hội thảo được ấn hành thành sách nhan đề là Buddhism ’s Contribution to the World Culture and Civilisation (Ðóng góp của đạo Phật vào nền văn hóa và văn minh thế giới). Sách này do bác sĩ Anand W.P. Guruge và D.C. Ahir làm chủ biên.Mặc dù hầu hết các địa danh cổ của Phật Giáo đã được khám phá và khai quật trong thời gian tiền độc lập, trong thời đại hậu độc lập từ năm 1947 trở về sau, một số khám phá đáng chú ý cũng đã được ghi nhận. Trong số đó, khám phá quan trọng nhất là sự nhận ra thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), thủ đô của bộ tộc Thích Ca (Shakya) và là nơi Ðức Phật ra đời. Vị trí của Ca Tỳ La Vệ là một vấn đề gây mâu thuẩn trải qua trăm năm. Tilaurakot ở Nepal và Piprahwa ở Ấn Ðộ là hai nơi chính đầu tiên được báo cáo là vùng Ca Tỳ La Vệ. Ông Furher, một nhà khảo cổ người Ðức được chính phủ Nepal giao phó sứ mệnh báo cáo lần đầu tiên rằng Tilauracot là Ca Tỳ La Vệ đầu tiên, vào năm 1896. Tuy nhiên, sự khám phá vào năm 1898 của một cái két đá tảng khổng lồ đựng năm hộp xá lợi ở tháp Piprahwa do W.C. Peppe, chủ khu bất động sản Dirdpur, dường như ám chỉ rằng Piprahwa chính là Ca Tỳ La Vệ ngày xưa. Vì lý do câu viết vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, có liên hệ đến Ðức Phật và bộ tộc Thích Ca, đã được các học giả diễn dịch bằng nhiều cách khác nhau và không có sự đề cập gì về Ca Tỳ La Vệ, vấn đề bị giữ lại không giải quyết trong vòng 75 năm tiếp theo. Vào năm 1970, Ðại Ðức Dharmakirti, một tu sĩ Phật Giáo, nhận trách nhiệm của trung tâm Naugart của Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ, viết thơ cho Thủ Tướng Ấn Ðộ, Indira Gandhi, lưu tâm bà về tình trạng hầu như bỏ hoang của những di tích ở Piprahwa và yêu cầu bà có một hành động cho sự việc này. Ðệ trình này được đưa đến nhóm khảo cổ Patna. Ông K.M. Srivastava, người đã tiếp quản nhóm khảo cổ Patna từ tháng tám 1970, lập tức thảo những kế hoạch tiến hành thêm những cuộc khai quật ở Piprawha trong quận Basti ở Uttar Pradesh. Vào tháng giêng năm 1971, ông khởi sự những cuộc khai quật mới trong khu vực. Những cuộc khai quật chứng tỏ rằng ngôi tháp, trước kia đã giữ những hộp xá lợi, bao bọc một cái tháp bằng đất bùn. Khi chiếc tháp đất nầy được thăm dò một cách cẩn thận, vào tháng ba năm 1972, nó cho chúng ta hai hộp xá lợi bằng đất bọt chứa xương cốt đã thành than của Ðức Phật và ba chiếc dĩa đựng tro. Hộp xá lợi tìm thấy ở ngăn phía bắc còn nguyên vẹn và kích thước là 12cm x 7cm. Hộp xá lợi ở ngăn phía nam là 16cm x 9cm. Vì nó bị vở, nên các xương có phần nào đã xỉn xám. Trong những cuộc khai quật tiếp theo vào năm 1973, Srivastava và nhóm của ông tìm thấy từ ngôi chùa Ðông Phương gần đó hơn 40 triện bằng đất nung ghi những mẫu chuyện bằng tiếng Pali Devaputra Vihare Kapilavastu Bhikkhu Sanghas và Maha Kapilavastu Bhikku Sanghas theo lối chữ Brami của thế kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Vào năm 1974, thêm một số hiện tượng được khám phá, và sự tìm ra Ca Tỳ La Vệ được xác nhận khi các nhà khảo cổ tìm thấy chiếc nắp của một cái lọ mang cùng nội dung như những nhóm hiện tượng được tìm thấy đầu tiên. Những cuộc khai quật mở ra cho chúng ta thấy rằng tháp Piprahwa được xây dựng trong ba giai đoạn: Tháp đất được người bộ tộc Thích Ca xây vào thế kỷ Thứ Năm trước Tây Lịch khi họ được chia những xá lợi của Phật; nó được bao bằng một tháp mở rộng xây vào thế kỷ Thứ Ba trước Tây Lịch mà từ đó W.C. Peppe đã khám phá ra năm hộp đựng xá lợi; và cuối cùng nó được mở rộng vào thế kỷ Thứ Nhất sau Tây lịch khi ngôi Chùa Ðông Phương được xây dựng. Theo những câu khắc, Chùa Ðông Phương được vua Ca Nhị Sắc Ca (Kanishka) của Vương Triều Qúy Sương (Kushan) xây cho các tăng sĩ thuộc Tăng Già Ca Tỳ La Vệ. Các nhà khảo cổ cũng đem ra ánh sáng ba ngôi chùa khác. Những di tích của thành phố xưa đã tìm thấy gần vùng Ganwaria, nơi mà sự khai quật được thực hiện trong một vùng rộng lớn, đã phanh phui ra hai công trình kiến trúc bằng gạch đồ sộ. Những thứ nầy được đoán là nơi cư ngụ của tộc trưởng tộc Thích Ca, Vua Tịnh Phạn (Suddhoddhana), cha của Ðức Phật. Piprahwa, xưa kia là Ca Tỳ La Vệ, cách Naugarh, một trạm xe lửa nằm trong vòng đai vùng Gorakhpur-Gonda thuộc Sở Hỏa Xa Ðông Bắc, 22 cây số, và cách Birdpur, nằm trên trục lộ từ Naugarh đến Lâm Tỳ Ni, 9 cây số. Những xá lợi của Ðức Phật được khám phá ra ở Ca Tỳ La Vệ ngày nay được giữ tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia, ở New Dehli. Một khám phá khảo cổ đáng lưu ý khác trong thời hậu Ðộc Lập xảy ra vào năm 1976, năm làm lễ kỷ niệm Phật Ðản Sanh thứ 2600, hơn 100 công trình điêu khắc có giá trị và những mảnh nghệ thuật khác thuộc những thời kỳ các triều đại Qúy Sương và Cấp Ða (Gupta) được tìm thấy gần những công trình thủy lợi Mathura và trạm xe lửa Bhuteswar trong vùng ngoại ô phía Tây thành phố Mathura. Những vật này được khai quật khi san bằng một ngọn đồi lớn để xây dựng nhà cửa những di tích của ngôi chùa Viradata nổi tiếng xưa kia đã ở chỗ này. Một trong những công trình kiến trúc đó hình dung Ðức Phật đứng với tóc quăn trông dễ mến, trái tai dài và sự biểu lộ rất tế nhị và thanh bình trên khuôn mặt. Trên lớp áo rỏ ràng với những nếp xếp đẹp của tác phẩm điêu khắc trên bệ ghi năm 125 của kỷ nguyên Cấp Ða (tương ứng với năm 434 sau Tây lịch) cung cấp cho chúng ta một tài liệu quan trọng. Nó cho biết tên của tượng là Dina. Ngày trên tượng rơi đúng vào triều đại vua Kamaragupta Mahendraditya. Một mẫu di vật đáng lưu ý khác là hình Ðức Phật khổ lớn trong tư thế vô úy (abhaya). Nửa phần trên của mảng này bảo tồn tình trạng rất tốt. Cũng có một số những mảng khác miêu tả Ðức Phật và các vị Bồ Tát dưới nhiều hình tướng và dáng dấp. Một mảnh nhỏ vẽ một cách đẹp đẽ biến cố lớn lao khi Ðức Phật từ bỏ hoàng cung, các móng chân con ngựa của Phật được chư thiên nâng đỡ. Phật Giáo ở Ấn Ðộ đã bước một bước dài từ khi có phong trào phục hồi khởi sự từ một trăm năm trước. Từ một số lượng ít ỏi vào khỏang 50,000 tín đồ vào năm 1891, số tín đồ Phật Giáo theo điều tra dân số vào năm 1891 là 4 triệu 7 trăm ngàn, tức 0.71 phần trăm dân số. Trong nước Ấn Ðộ hiện đại, phần lớn tín đồ Phật Giáo theo truyền thống Theravada (Nguyên Thủy). Nhưng những tín đồ Phật Giáo ở vùng Hy Mã Lạp Sơn là tín đồ Ðại Thừa. Tín đồ Phật Giáo Ấn Ðộ có thể chia ra làm bốn nhóm: - Nhóm thứ nhất, có những tàn tích từ thời đại Phật Giáo. - Nhóm thứ hai, có những sự chen kẽ về đạo đức của những quốc gia láng giềng, như: Nepal, Thái Lan và Miến Ðiện. - Nhóm thứ ba được đại biểu với những người được Phật Giáo hấp dẫn qua phong trào truyền bá của Hội Ðaị Bồ Ðề. - Những người đệ tử của Bác Sĩ B.R. Ambedkar nguyện sống theo con đường của Phật Tử vào năm 1956 và sau khi tạo thành nhóm thứ tư. Trong bốn nhóm, những môn đồ của Bác Sĩ Ambedkar tạo thành nhóm dẫn đạo. Maharashtra, quê hương của Babasaheb Ambdkar, có một số lượng tín đồ Phật Giáo đông nhất đến 83.60 phần trăm tổng số tín đồ Phật Giáo Ấn Ðộ. Tám tỉnh bang khác có số tín đồ Phật Giáo nhiều hơn 50,000 là: Tây Bengal, Sikkim, Arunachal Pradesh, Madhya Pradesh, Jammu và Kashmir, Tripura, uttar Prodesh, và Himachal Pradesh. Sáu tỉnh bang khác có số tín đồ nhiều hơn 5,000 là: Karnathaka, Mizoram, Andhra Pradesh, Orissa, Gujarat, và Delhi. Như vậy Phật Giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống quốc gia. -ooOoo- |
Source: Tập san Dược Sư, http://www.duocsu.org
[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 15-07-2006