Gia chủ Tapussa cùng với
Tôn Giả Ananda đến hỏi đức Phật, vì sao giới cư sĩ gia chủ "Thọ
hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các
dục", xem đời sống viễn ly của các vị xuất gia như là vực thẳm. Tuy vậy
trong pháp và luật của Thế Tôn lại có những Tỳ Kheo trẻ tuổi phấn khởi
trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú, hướng đến xuất ly, và các vị này
thấy trong sự xuất ly "đây là an tịnh". Chính ở nơi đây là
sự sai khác trong Pháp và Luật này giữa các Tỳ kheo và phần đông quần
chúng. Sự ngạc nhiên và khâm phục của Tapussa được Thế Tôn chấp nhận,
và đức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài trong tiến trình thành
đạo của Ngài dưới gốc cây Bồ đề. Khi Ngài chưa thành bậc Chánh Giác
Ngài diễn tả sự phấn khởi của Ngài trong tiến trình tu tập vượt qua các
chướng ngại để đạt được các cảnh giới thiền, và vượt lên đạt
được các cảnh giới thiền cao hơn, tất cả đòi hỏi một sự phấn đấu
kiên cường, sáng suốt bền bỉ và tuần tự. Ngài
Bắt đầu với cảnh giới Sơ thiền và đối tượng cần phải gạt bỏ là các
dục để chứng được Sơ thiền. Ngài suy nghĩ: "Lành thay sự
xuất ly! Lành thay đời sống viễn ly". Nhưng tâm của Ngài không có
phấn khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có
hướng đến, dầu ta có thấy " đây là an tịnh". Rồi Thế
Tôn suy nghĩ:
"Do nhân gì, do duyên gì, tâm ta không có phấn
khởi trong xuất ly, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng
đến, dầu ta có thấy: "đây là an tịnh". Rồi này Ananda, Ta suy
nghĩ: "Vì ta không thấy sự nguy hiểm trong các dục, vì Ta không làm
cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích của xuất ly chưa được chứng đắc,
Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy, do vậy tâm Ta không có phấn khởi
trong xuất ly ấy. Không tịnh tín, không an trú, không có hướng đến. Này
Ananda, về vấn đề ấy ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy sự
nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi
chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Thời sự
kiện này có thể xảy ra:" Tâm của Ta có thể phấn khởi
trong xuất ly, tịnh tín, an trú và hướng đến, vì Ta có thấy" đây
là an tịnh".
" Rồi này Ananda, sau một thời gian sau khi thấy
được sự nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy,
sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và
này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú và hướng
đến, vì ta có thấy: "đây là an tịnh". Này Ananda sau một thời
gian Ta ly dục, chứng đạt và an trú sơ thiền. Do ta trú với sự an trú
này, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành. Như vậy đối
với ta là một chứng bệnh. Ví như này Ananda , đối với người sung sướng,
đau khổ có thể khởi lên, như là một chứng bệnh. Cũng vậy, các
tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành ở nơi Ta, như vậy, đối
với Ta là một chứng bệnh".
"Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: " Vậy ta
hãy chỉ tức các tầm và tứ... chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Nhưng
tâm của Ta không có hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh tín,
không có an trú, không có hướng đến dầu Ta có thấy" đây là an
tịnh". Này Ananda, về vấn đề ấy ta suy nghĩ như sau: "Do nhân
gì, do duyên gì, tâm Ta không có hứng khởi đối với không có tầm ấy, không
có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy:
"đây là an tịnh". Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau:" Vì ta
không thấy nguy hiểm trong các tầm, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy
hiểm ấy. Lợi ích không có tầm chưa được chứng đắc, Ta chưa được
thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không có
tầm, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến. Này Ananda, về
vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau: " Nếu sau khi thấy nguy hiểm
trong các tầm, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi
ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này xảy ra:
" Tâm của ta có thể hứng khởi không có tầm, tịnh tín, an trú, hướng
đến, vì Ta thấy " đây là an tịnh"
Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy
hiểm trong các tầm, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, sau khi chứng
được lợi ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ananda, tâm
Ta hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy
"đây là an tịnh". Này Ananda, sau một thời gian Ta diệt tầm và
tứ... chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Do Ta trú với sự an trú này,
các tưởng tác ý câu hữu với tầm vẫn hiện hành nơi ta, như vậy đối
với Ta là một chứng bệnh". Này Ananda, Ta suy nghĩ như sau:" Vậy Ta
hãy ly hỷ, chứng đạt và an trú thiền thứ ba. Nhưng này Ananda, tâm
của Ta không có hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có tịnh tín,
không có an trú, không có hướng đến, dầu ta có thấy "đây là an
tịnh".
Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau:
" Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không có hứng khởi đối với không có
hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu
Ta có thấy "đây là an tịnh". Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau:
"Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong hỷ, vì ta không làm cho sung
mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích không có hỷ chưa được chứng đắc, Ta
chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm ta không hứng khởi đối với
không có hỷ ấy, không tịnh tín, không an trú, không có hướng đến.
Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy
nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi chứng
được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự
kiện này xảy ra: "Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không có
hỷ, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta có thấy "đây là an
tịnh"
"Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau khi thấy
nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy, sau khi chứng
được lợi ích trong không có hỷ, ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này
Ananda, tâm Ta hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, hướng
đến, vì Ta thấy "đây là an tịnh". Này Ananda, sau một thời gian,
Ta ly hỷ... chứng đạt và an trú thiền thứ ba. Do Ta trú với sự an trú
này, các tưởng tác ý câu hữu với hỷ vẫn hiện hành. đây đối
với Ta là một chứng bệnh. Ví như này Ananda, đối với người sung sướng
đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng,
tác ý cùng khởi với hỷ vẫn hiện hình ở nơi Ta, như vậy đối với
Ta là một chứng bệnh"
Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hãy
đoạn lạc, đoạn khổ... chứng đạt và am trú thiền thứ tư. Nhưng tâm của
ta không có hứng khởi đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín,
không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy "đây là an
tịnh". Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân
gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc
ấy,không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có
thấy "đây là an tịnh". Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: "Vì
Ta không thấy nguy hiểm trong xả lạc, vì ta không làm cho sung mãn nguy
hiểm ấy. Lợi ích của không khổ, không lạc chưa được chứng đắc, Ta
chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm ta không hứng khởi đối với
không khổ, không lạc ấy, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến.
Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau:"Nếu sau khi thấy
nguy hiểm trong xả lạc, ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng
được lợi ích trong không khổ, không lạc, Ta thưởng thức sự lợi ích ấy,
thời sự kiện này xảy ra:"Tâm của Ta có thể phấn khởi trong không
khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta có thấy "đây
là an tịnh".
"Rồi này Ananda, sau một thời gian sau khi thấy
nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, sau khi chứng
được lợi ích trong không khổ, không lạc. Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và
này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú,
hướng đến, vì Ta thấy "đây là an tịnh". Này Ananda, sau một
thời gian Ta xả lạc, xả khổ... chứng đạt và an trú thiền thứ tư. Do Ta
trú với sự an trú này, các tưởng tác ý cùng khởi với xả lạc vẫn
hiện hành, như vậy đối với Ta là một chứng bệnh. Ví như này Ananda,
đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng
bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ý cùngkhởi với xả vẫn hiện hành
nơi Ta, như vậy đối với Ta là một chứng bệnh".
Tiếp tục như vậy, Ngài chứng thiền Không vô
biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
Diệt thọ tưởng định. Tại Không vô biên xứ thiền, Ngài vượt qua
các sắc tưởng, tại Thức vô biên xứ thiền, Ngài vượt qua Không vô biên
xứ, chứng đắc Thức vô biên xứ. Tại Vô sở hữu xứ thiền, Ngài vượt qua
Thức vô biên xứ và chứng đắc Vô sở hữu xứ. Tại Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ngài vượt qua Vô sở hữu xứ và chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Tại Diệt thọ tưởng định, Ngài vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ
và chứng đắc diệt thọ tưởng định:
" Ta phấn khởi trong diệt thọ tưởng
định, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy "đây là an
tịnh". Này Ananda, sau một thời gian Ta vượt qua phi tưởng phi phi tưởng
xứ, chứng đạt và an trú diệt thọ tưởng định. Ta thấy với trí
tuệ và các lậu hoặc đi đến đoạn diệt".
Như vậy là tiến trình giải thoát, thành đạo của
đức Phật đi từ thiền thứ nhất, vượt qua thiền thứ hai, thiền thứ
ba, thiền thứ tư, vượt luôn bốn thiền ở Vô sắc giới, chứng đạt
Diệt thọ tưởng định, với trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc để
thành bậc Chánh Giác. Cứ mỗi thiền chứng đạt, an trú và vượt qua,
Thế Tôn cần phải nỗ lực kiên trì đối trị với các trở ngại bệnh
chướng của mỗi thiền và cuối cùng, Ngài tuyên bố:
"Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ
đệ trú thiền chứng chưa được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và
xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, với quần chúng Sa môn và Bà la môn, chư thiên và loài
người cho đến khi ấy, Ta không xác chứng Ta đã chứng được Vô Thượng
Chánh đẳng Chánh Giác cho đến khi nào, này Ananda , chín thứ đệ
trú thiền chứng này đã được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và
xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, với quần chúng Sa Môn và Bà La Môn, chư thiên và loài
người, cho đến khi ấy Ta mới xác chứng rằng Ta đã chứng được Vô
Thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Tri và Kiến khởi lên nơi Ta, Ta biết
rằng:" Bất động là tâm giải thoát của Ta. đây là đời sống cuối cùng,
nay không còn tái sanh nữa". -- (Kinh Tapussa, Trích trong Tăng Chi Bộ Kinh
III, số 41, trang 273)
Như vậy, tiến trình giải thoát của đức Phật cho
thấy sự giải thoát giác ngộ của Ngài là cả một quá trình tuần tự, từ Sơ
thiền cho đến Diệt thọ tưởng định, để cuối cùng đoạn
diệt các lậu hoặc, thành bậc Chánh đẳng Chánh Giác. Trải qua 9 thiền
chứng như vậy, và tại mỗi thiền chứng Ngài phải phấn đấu vượt qua
các chướng ngại, tiến lên thiền chứng kế tiếp, để cuối
cùng chứng Vô Thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Như vậy tiến trình thành
đạo của Ngài là một tiến trình tuần tự tiến lên, từng thiền
chứng một tiến lên thiền chứng kế tiếp, không có vấn đề
nhảy vọt, vượt qua nhiều cấp bậc một lần. Tiến trình này cũng
chứng tỏ không có vấn đề hoát nhiên đại ngộ. Sự thành đạo của Ngài
là cả một quá trình tu chứng kiên trì lâu dài bền bỉ, luôn luôn hướng
thượng như trong Kinh đã diễn tả.
Hòa thượng Thích Minh Châu |