Ðức Phật
ra đời để nói rõ tánh tự nhiên chân thật của chúng ta tự nó rộng lớn
bao la, thuần một tình thương yêu trong sáng, sự thông minh tươi mát, sự
hiểu biết chân thật và nguồn hạnh phúc vô biên. Tánh ấy được
gọi là Chân Tâm, tâm chân thật hay Phật tánh. Ðức Phật mở bày, giảng
dạy cho ta rõ ràng về cái tâm chân thật đó vốn mãi mãi có mặt, vốn
rộng lớn bao la, vốn an vui vô cùng và vốn trong sạch không chút nhiễm ô hay
tội lỗi. Mỗi người khi sinh ra dù giàu hay nghèo, nam hay nữ, đen hay
trắng đều có Phật tánh như nhau. Ngay cả với đức Phật dù ngài đã
thành Phật, tức là sống an vui chân thật vĩnh viễn thì Phật tánh của Ngài
cũng không khác gì Phật tánh của mỗi chúng ta. Thật như thế, Phật
tánh vốn có mặt và bình đẳng nơi mọi người. Ngoài ra, đức Phật còn chỉ cho chúng ta cách thực hành, tức
là phương pháp cụ thể để sống với nguồn hạnh phúc bao la sẵn có
nơi mỗi chúng ta trong đời sống hàng ngày, tức là sống với Phật tánh
đó trong các sinh hoạt khác nhau ở sở hay ở nhà. Chúng ta có thể chọn
sống lối sống vui trong các ngôi chùa hay trong mái ấm gia đình. Dù sống cuộc
đời người tu sĩ hay cuộc đời người cư sĩ, tức là Phật tử có gia đình,
chúng ta đều có khả năng thực hành và sống đời an vui hạnh phúc như
nhau.
Phương pháp thực hành sống đời an vui gồm nhiều
cách mà chúng ta gọi là pháp môn như Thiền, Tịnh Ðộ, Nguyên Thủy hay
Mật tông. Nhưng dù theo tông phái nào chúng ta cũng có thể thực hành
sống đời an vui hạnh phúc và đạt được sự hiểu biết chân thật như
nhau. Các vị ở trong chùa chiền đem tình thương trong sáng mà hướng dẫn
Phật tử về đạo Phật, giúp họ có sự hiểu biết chân thật
để sống đời an lành hạnh phúc. Các vị Phật tử nương tựa vào đức
Phật, vào chân lý Ngài đã giảng dạy, vào qúy thầy cô để hiểu
rõ giá trị của đời sống chính mình và cách thực hành để sống đời an
vui đẹp đẽ nhất mà mình, gia đình mình, cộng đồng mình, xã hội mình có
thể đạt được.
Làm Sao Sống Với Niềm An Vui Hạnh
Phúc Bao La Ấy
Nếu cuộc sống cứ bình thản trôi qua thì chúng ta
ít để ý đến đời sống nội tâm của mình. Trên thực tế,
chúng ta thấy đời mình vui buồn lẫn lộn. Và nhiều lúc buồn phiền khổ
não quá, chúng ta ước mong tìm một lối thoát nhưng tìm hoài chẳng được.
Chúng ta đến với đạo Phật để tìm về suối nguồn tâm linh sẵn có
nơi mình.
Ðức Phật chỉ cho chúng ta các sự hiểu biết
chân thật để chúng ta hiểu rõ mọi sự vật và thực hành những
điều tích cực, tốt đẹp để cho ta có thể sống cuộc đời an lành
hạnh phúc cao vút nhất mà mỗi người có thể đạt được.
Những điều chân thật và giản dị Ngài đã dạy đó
gọi là Bốn Sự Thật Cao Qúy (Tứ Thánh Ðế hay Tứ Diệu Ðế, the
Four Noble Truths).
- Sự Thật Cao Qúy Về Khổ (Khổ Ðế):
Thông thường chúng ta sống yên ổn thì ít biết về những cái khổ.
Nhưng bất chợt một chuyện gì không may xảy ra thì ta cuống cuồng trong sự
khổ đau không biết cách nào giải quyết vì không biết cái khổ
đến từ đâu và làm sao diệt trừ chúng. Là một vị Thầy chân thật,
đức Phật chỉ rõ cho chúng ta các sự khổ gồm hai loại: Khổ về thể
chất và khổ về tinh thần.
Khổ về thể chất chúng ta rất dễ nhận biết qua các hiện tượng
như sinh sản, quá già cả yếu đuối, bệnh hoạn và chết chóc. Tóm
lại, tất cả những gì làm cho thân thể chúng ta đau đớn.
Khổ về tinh thần như buồn rầu, tức tối, giận dữ, lo lắng, sợ hãi xuất
hiện khi người hoặc vật ta ưa thích, thương yêu bị chia lìa, xa cách, hay
những gì chúng ta không muốn hay ghét bỏ lại phải gần gũi, gặp phải. Nói
khác đi: Ưa mà không được, ghét mà phải gần.
- Sự Thật Cao Qúy Thứ Hai Về Nguyên Nhân Của Khổ (Tập
Ðế):
Khổ về thể chất là do các sự thay đổi thể chất tạo ra như đứa
bé khi sinh ra bị đau đớn vì em bé đang nằm yên ổn và ấm áp trong bụng mẹ
bị áp lực mạnh mẽ tống ra ngoài, lại phải tiếp xúc với ánh sáng làm
chói mắt, đụng các vật làm đau da và thịt, hoặc khi chúng ta bị bệnh
tật, tai nạn làm chúng ta đau đớn, v.v...
Sự khổ đau về tinh thần còn ghê gớm hơn nữa vì nó khó nhận biết,
dai dẳng, thâm sâu và có mặt khắp mọi nơi, chỗ nào có loài người
là có sự đau khổ này. Nước giàu mạnh nhất hiện nay là Hoa Kỳ hàng năm
có đến sáu chục triệu người bị chứng đau đầu (Xin đọc tài
liệu đính kèm), bốn chục triệu người bị các chứng sợ hãi, 30 % dân
số bị xem là có bịnh tâm trí, nạn nghiện cần sa, ma túy, rượu lan tràn
vì áp lực của đời sống, v.v... Ðức Phật thấy rõ chung quy do sự dính mắc
(Attachment) vào những điều mình thích hay mình ghét nên đưa đến
những căng thẳng bên trong tạo ra oán ghét, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất
an, thù hận chua xót, buồn tủi mà chúng ta gọi chung là khổ đau về
tinh thần.
- Sự Thật Cao Qúy Thứ Ba Về Diệt Khổ (Diệt
Ðế):
Ðạo Phật hướng đến một thế giới hoàn toàn hạnh phúc. Nhiều kinh
điển diễn tả chốn cực lạc, chốn Tịnh Ðộ trong đó các hài nhi được
sinh ra từ các đóa hoa sen tinh khiết, như thế người đàn bà không bị
khổ đau vì thai nghén hay sinh nở, không ai bị bệnh tật, già cả và
chết chóc. Tóm lại , mọi sự khổ đau về thể chất và tinh thần
không có nơi đó. Ðó là thế giới lý tưởng mà người Phật tử
hướng về khi còn sống hoặc khi qua đời.
Về các khổ đau thể chất, đức Phật khuyến khích người Phật tử
đem tình thương yêu trong sáng mà giúp đỡ những ai đang bị khó khăn. Làm
cách nào ngăn chặn những bệnh tật, đói kém, nghèo nàn, khổ đau qua các
chương trình y khoa, giáo dục hay xã hội. Nói khác đi, chúng ta cải tiến
và nâng cao đời sống con người để giảm thiểu mọi khổ đau
thể chất: làm cho sự sinh nở bớt đau dớn cho người mẹ lẫn người con,
chữa trị các bệnh tật, chăm sóc người đau ốm, tật nguyền, già nua
tuổi tác, làm cho các sự chém giết, tàn hại đừng xảy ra gây thương
tích và chết chóc. Tóm lại, làm giảm thiểu tối đa mọi khổ đau
về thể chất. Do đó, người Phật tử xưng tụng ngài là bậc Y Vương,
vị vua thầy thuốc và là vị cha lành, Ðấng Từ Phụ vì ngài nói điều
chân thật, dạy chúng ta điều chân thật để chúng ta có được đời
sống an lành hạnh phúc. Các nhà khoa học hy vọng trong thế kỷ
tới, với sự tiến bộ nhanh chóng của y khoa, hóa học, vật lý nguyên
tử, v.v...người ta có thể thay đổi các di thể (Gene) trong thân thể
người cha và mẹ để con cái sinh ra mạnh khỏe và không bệnh tật, tuổi
thọ gia tăng, những người già yếu được chích các loại thuốc để
được trẻ trung trở lại.
Về sự đau khổ tinh thần, đức Phật chỉ dạy phương pháp mầu nhiệm
giúp cho mỗi người chúng ta quay về với tánh an vui rộng lớn trong sáng
sẵn có nơi chính mình. Các phương pháp thực hành như ngồi thiền,
thiền hành, tụng kinh, lạy Phật, trì chú để buông xả mọi sự dính
mắc, mọi sự ám ảnh để cho lòng ta tràn đầy niềm hạnh phúc trong
sáng bao la. Người Phật tử thực hành Pháp môn tu tập nào như Thiền,
Tịnh, Mật một cách đúng đắn đều được cả vì tu đúng đưa đến
giải thoát, tu sai tạo thêm khổ đau. (Do đó, quý thầy luôn luôn nhắc nhở
quý vị Phật tử đừng ham tu tắt, nghe bất cứ ai hứa hẹn theo họ là
lên thiên đàng hay thành Phật, thành tiên ngay tức thì thì vội theo mà không
phân biệt những điều ấy vốn giả dối và vô ích, chỉ là sự trốn
chạy khổ đau chứ không đối diện và giải quyết tận cội nguồn của
chúng theo lời Phật dạy cùng phương pháp ngài chỉ bày.)
Như thế, tu là quay về với Phật tánh tràn đầy niềm an vui rộng
lớn, rồi từ kinh nghiệm tâm linh rõ rệt và chân thật đó chúng ta áp
dụng vào các sinh hoạt hàng ngày như làm việc, học hành, lái xe, đi
chợ, nấu ăn, chùi nhà, tập thể thao,v.v... Người Phật tử tu ngay trong
cuộc sống hàng ngày, không phải chờ già, đến tuổi về hưu rồi mới
lên chùa tu vì tu như thế không ích lợi gì cho khoảng thời gian trẻ trung
đầy sức mạnh tinh thần và thể chất của họ cả và làm phí phạm cuộc
đời thanh xuân trong những khổ đau tiếp nối. Chính từ kinh nghiệm an
vui tươi sáng có được khi thực hành đạo Phật mà người Phật tử thấy rõ
sự chân thật của cuộc sống tích cực nên biết ơn đức Phật và gọi
ngài là bậc Vô Thượng Sư, bậc Thầy không ai hơn được nữa hay là bậc
Dược Vương, bậc ban cho món thuốc linh diệu làm tan biến mọi khổ
đau tinh thần.
Khi tâm ta thực hành sự buông xả thoải mái, không dính mắc vào các ý
tưởng xung đột mâu thuẫn làm dấy khởi những lo âu, sợ hãi, giận hờn, khổ
đau thì tâm ta quay về với trạng thái trong sáng rộng lớn tự nhiên của
nó. Tâm ta lúc đó chẳng khác gì bầu trời rộng lớn mênh mông. Trong khoảng
không rộng lớn ấy bừng dậy tình thương yêu trong sáng bao la, sự thông minh
tươi mát linh động và niềm an vui sung sướng hạnh phúc nồng ấm sâu
thẳm. Sống hạnh phúc như thế là sống với chân tâm, với Phật tánh, với
tâm giác ngộ.
- Sự Thật Cao Qúy Về Sống Ðời An Vui Hạnh Phúc (Ðạo
Ðế):
Sống với tâm chân thật, với Phật tánh như thế từ ngày này qua ngày khác
là Sống Ðời An Vui Hạnh Phúc Chân Thật. Ðức Phật là bậc giác ngộ nên ngài
sống miên viễn trong niềm an vui hạnh phúc bao la đó còn chúng ta khi thực
hành đời sống giác ngộ chúng ta sống vài giây, vài phút hay vài giờ mỗi
ngày trong niềm hạnh phúc tràn đầy, niềm hạnh phúc tự nó toả
chiếu, tự nó có mặt mà không nương tựa vào bất cứ điều gì cả.
Tâm ta lúc đó như bầu trời xanh cao rộng lớn bao la tươi mát, êm dịu, thoải
mái, vui vẻ và sung sướng không cùng. Trong tâm đó chỉ tràn đầy tình
thương yêu trong sáng và sự hiểu biết chân thật nên chúng ta thấy
biết rõ ràng, suy nghĩ đúng đắn, nói năng hoà nhã lịch sự, làm những
điều tốt cho mình và cho người, trí óc sáng suốt và hiểu biết
đúng sai, v.v...
Sống Ðạo là sống an vui hòa thuận thoải mái vui vẻ như thế từ ngày nầy
qua ngày khác. Từ kinh nghiệm tâm linh đó chúng ta biết rõ ý nghĩa
sự có mặt của mình trong cuộc đời này: Chúng ta sinh ra để sống hạnh
phúc, lớn lên trong hạnh phúc, già đi trong hạnh phúc và khi qua đời, ta quay
về vũ trụ rộng lớn bao la của chốn Cực Lạc, thế giới an vui rực rỡ
kỳ diệu của chư Phật.
Ðạo Phật Không Diệt Dục Mà Chỉ
Diệt Khổ
Dục là muốn. Muốn có thức ăn ngon và bổ dưỡng hay
muốn uống thật nhiều rượu và ăn thật nhiều thịt, muốn có sự giao
tiếp tốt đẹp với bạn bè hay muốn gây gổ đánh lộn, muốn chăm sóc con
cái để chúng nên người tốt hay muốn dùng thì giờ tìm thú vui cho mình
không quan tâm đến gia đình đều là những cái muốn, chỉ khác nhau
một bên là tốt và một bên là xấu. Ðạo Phật khuyến khích chúng ta thực
hành các điều muốn tốt và đừng làm những điều muốn xấu chứ không
bao giờ dạy phải diệt tất cả mọi cái muốn. Nếu chúng ta thực hành
các điều muốn tốt (thiện dục) thì chúng ta được nhiều an vui.
Như thế đạo Phật không chủ trương diệt dục
(diệt mọi thứ chúng ta muốn) mà chỉ diệt những cái muốn xấu đưa
đến khổ đau và thực hành những cái muốn tốt đem lại nhiều hạnh
phúc. Theo nhà tâm lý học Abraham Maslow, có năm nhu cầu thông thường
mà mỗi người chúng ta cần có để sống đời an vui lành mạnh: có
được sự đầy đủ về thể chất, an ninh, tình thân thiết, tự kính
trọng và thể hiện được khả năng của mình. Năm nhu cầu ấy rất
lành mạnh, chúng cần phải được thỏa mãn để chúng ta có được đời
sống khỏe mạnh, an vui và phát triển về tinh thần lẫn thể chất.
Những nhu cầu tự nhiên kia tạo ra những cái muốn. Nơi đây đạo Phật giúp
chúng ta nhận rõ những cái muốn nào để thỏa mãn các nhu cầu nói trên
là tốt (thiện dục) và những thứ nào là xấu (ác dục) để chúng ta
không bị những cái muốn xấu tàn hại đời mình và đời kẻ khác.
- Nhu cầu thể chất:
Mỗi người chúng ta đều cần có cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, phương
tiện di chuyển, thuốc men khi đau ốm, bệnh tật. Muốn có các thứ ấy
cho bản thân và cho gia đình là điều muốn tốt (Thiện dục). Nếu
chúng ta có thực phẩm tốt để ăn, nhà tốt để gia đình ở, xe cộ tốt
để đi làm việc, trường học tốt để con cái học hành, bạn
tốt để giao du, việc làm tốt để nuôi sống bản thân và gia đình
thì đó là sự tốt đẹp trong đời sống. Tuy nhiên, nếu chúng ta bị dính
mắc quá nhiều bởi ý muốn phải ăn cho thật nhiều, uống cho thật
nhiều, có thật nhiều áo quần, xe cộ, nhà cưả thì chúng sẽ làm cho
thân thể và tinh thần chúng ta luôn luôn bị căng thẳng và dễ đưa
đến bệnh tật. Ðó là điều muốn xấu (ác dục).
- Nhu cầu an ninh:
Mỗi người chúng ta điều muốn đời sống mình được yên ổn, không bị
ai đe dọa, bắt bớ, đánh đập hay hành hạ về tinh thần. Ðiều muốn
này là thiện dục, là điều muốn tốt. Tuy nhiên, nếu chỉ muốn mình
được an ổn mà lại tạo ra sự bất an, đau khổ cho kẻ khác là điều muốn
xấu, là ác dục.
- Nhu cầu tình thân thiết:
Mỗi chúng ta điều có tình thương mến cha mẹ, vợ chồng , con cái,
anh em, bạn bè,xóm làng, quê hương xứ sở. Tình thương yêu đó làm cho đời
sống chúng ta được nhiều an vui hạnh phúc trong cuộc sống. Tình thương
yêu đó là điều lành mạnh. Tuy nhiên, nếu chúng ta quá bị ám ảnh hay
mê đắm một loại tình yêu nào đưa đến sự rối loạn cho đời sống của
mình và đời sống của người thì đó là ác dục mà chúng ta thường gọi
là ích kỷ: chỉ thương gia đình mình, muốn cho gia đình mình sung sướng
dù phải làm hại đến gia đình người khác, chỉ muốn dân tộc mình, xứ
sở mình giàu mạnh dù phải xâm chiếm hay tàn hại xứ sở người khác. Ðó
là ác dục.
- Nhu cầu tự trọng:
Có sự tự tin và bằng lòng về chính mình, biết rõ mình có khả năng
và làm những điều tốt đẹp cho mình, cho gia đình và xã hội. Như
thế, người tự trọng là người rất thoải mái vế chính mình, và
khi đã có được điều ấy thì họ có đời sống quân bình, không đòi
hỏi người khác phải đề cao hay sùng kính mình. Muốn mình có được sự
tư trọng là thiện dục. Ngược lại, nếu mình thiếu sự tự
trọng, bắt buộc kẻ khác phải tôn kính mình nếu không mình trừng phạt
họ hoặc dùng những cách lừa dối để cho họ tưởng thật và ca ngợi
mình thì đó là ác dục.
- Nhu cầu tự thể hiện, thực hiện các khả năng
của mình:
Mỗi người chúng ta điều có năng khiếu khác nhau như sửa chữa máy
móc, làm toán, làm thơ, ca hát, viết lách hay đánh đàn. Khi chúng ta
phát triển các khả năng ấy và thực hiện chúng một cách tốt đẹp thì
chúng ta sẽ rất vui sướng. Do đó, muốn thực hiện khả năng mình là một
điều rất tốt. Trường hợp chúng ta chỉ muốn thực hiện những khả năng
của mình mà chèn ép không cho người khác phát triển khả năng của họ
thì đó là ác dục.
Về sau, nhà tâm lý học này nhận thấy ngoài
năm nhu cầu chính nói trên, con người còn có nhu cầu sống với niềm hạnh
phúc rộng lớn bao la của tâm giải thoát. Ðối với một số người, nhu cầu ấy
có thể làm cho họ không còn quan tâm đến những các nhu cầu căn
bản. Do đó, chúng ta thấy nhiều vị tu sĩ tuy sống cuộc đời đạm bạc
nhưng họ rất an vui hạnh phúc gấp bội lần những người giàu sang hay có
nhiều tài năng. Các vị tu sĩ giác ngộ đó, tức là những vị sống với
lòng an vui trong sáng hạnh phúc tràn đầy đó, đem sự hiểu biết chân
thật của mình mà hướng dẫn cho người Phật tử để họ đạt được sự
an vui giải thoát trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình và ngoài xã hội.
Như thế, mọi người đều có các nhu cầu cần
phải được đáp ứng để sống lành mạnh. Chính các nhu cầu ấy tạo ra
những cái muốn nơi chúng ta và nêú chúng ta thực hiện những cái muốn
tốt (thiện dục) thì ta được khỏe mạnh an vui. Ngược lại, nếu chúng
ta bị những cái muốn xấu lôi kéo (ác dục) thì chúng ta tạo ra khổ đau,
bệnh tật cho mình và cho người. Ðể giúp cho người Phật tử nhận rõ
những điều muốn nào là có hại (Ác dục) đức Phật khuyến khích chúng
ta nhận và thực hành năm giới căn bản như không giết người, không ăn
nằm với vợ hay chồng người khác, không nói láo, không trộm cắp, không uống
rượu hay dùng các chất độc hại như cần sa, ma tuý. Các ác dục trên là
ham muốn sai lầm nên gọi là tham. Khi đã có sự ham muốn sai lầm mà không
thỏa mãn chúng được thì đâm ra tức giận, đó là sân. Sở dĩ có tham và
sân là do mình mê mờ không biết được điều chân thật, đó là si.
Tham, sân và si là ba thứ độc hại, tam độc, tàn phá đời sống của rất
nhiều người quanh ta.
Quả thật như thế,những điều ác dục không nên
làm, vì nếu làm sẽ gây ra những tổn hại cho mình hay cho người. Ðể
đời sống được an vui phát triển, đức Phật dạy những người Phật tử
tại gia phải cố gắng thực hành bốn điều muốn tốt lành (thiện dục)
để tạo căn bản cho đời sống lành mạnh hạnh phúc của mỗi chúng ta.
Bốn Ðiều Muốn Tốt (Thiện Dục)
Cần Thực Hành
Trong kinh Thiện Sanh, đức Phật dạy người Phật tử
tại gia phải có bốn điều muốn tốt lành (thiện dục) như sau:
- Muốn học tập một nghề nghiệp vững chắc
(phương tiện cụ túc): Tùy theo khả năng và hoàn cảnh mỗi người
chúng ta chọn một nghề mà học và thực hành cho hoàn hảo (Nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh). Khi làm việc phải hướng đến kết
quả tốt đẹp.
- Muốn bảo tồn của cải làm ra (thủ hộ cụ túc): Chúng ta
biết giữ gìn của cải làm ra, không hoang phí trong bài bạc, trai gái,
rược chè, hút sách hay ăn tiêu xa xỉ. Ðức Phật dạy nên chia tiền bạc
làm ba phần:
- Một phần để tiêu dùng cho các
nhu cầu hàng ngày như áo quần, ăn uống, xe cộ, nhà cửa.
- Một phần để đầu tư vào việc kinh doanh sinh lời.
- Một phần để giúp đỡ bà con hay làm việc từ thiện như giúp kẻ
nghèo khó, xây dựng chùa chiền, phổ biến Phật pháp, đóng góp vào
các việc ích lợi chung.
Như thế, muốn có tiền bạc, muốn kinh doanh cho
thêm nhiều tiền của, muốn thực hiện các chương trình có lợi ích
cho nhiều người là các điều muốn tốt mà đức Phật khuyến khích
người Phật tử tại gia nên làm.
- Muốn có bạn lành và tốt (thiện tri thức cụ túc):
Kết thân với những người hiền và tốt để nâng đỡ, khuyến
khích và giúp đỡ lẫn nhau phát triển nghề nghiệp, mở mang kinh
doanh, học hỏi đạo pháp, sống đời đạo hạnh và hạnh phúc.
- Muốn sống tốt đẹp theo khả năng và tài sản của mình
(chính mạng cụ túc): Không keo kiệt mà cũng không lãng phí. Sống tương
xứng với mức lợi tức của mình thu được để cá nhân mình an vui, gia
đình hạnh phúc, bạn bè hòa thuận, cộng động mến mộ và ích lợi cho xã
hội.
Dĩ nhiên, cuộc sống ngoài đời rất phức tạp, việc
phân biệt các điều muốn tốt (thiện dục) và các điều muốn
xấu (ác dục) nhiều lúc không dễ dàng nên đức Phật chỉ dạy chúng ta giữ
gìn năm giới căn bản, tức là không làm những điều gây tổn hại cho mình
hay cho người.
Năm Ðiều Xấu Ác Không Làm (Ngũ
Giới)
Ðể giúp chúng ta nhận biết rõ ràng đâu là
điều muốn lành, đâu là điều muốn ác, đức Phật dạy chúng ta thực
hành năm giới tức là năm điều mình nguyện không làm:
- Không giết người và không xúi dục kẻ khác giết
người: Trong trường hợp các quân nhân có nhiệm vụ bảo vệ xứ sở
chống xâm lăng hay nhân viên công lực thi hành nhiệm vụ bảo vệ an ninh
cộng đồng thì hành vi của họ không phát xuất từ ý muốn giết
người mà là ý muốn mong bảo vệ những người yếu đuối chống lại
kẻ gây tội ác. Nói khác đi, khi họ thực hành nhiệm vụ giao phó đúng
đắn. Riêng về giới không sát hại loài vật thì người thọ giới không
giết hại các loài vật gây thiệt hại hay bệnh tật cho cộng đồng.
Còn những con vật mang mầm bệnh như dán, ruồi, muỗi, chuột bọ, vi
trùng, v.v... thì chúng ta có thể trừ khử chúng mà không phạm vào lời
nguyện không giết hại (Bất sát). Như thế, đối với Phật tử tại
gia, giới không giết hại (Bất sát) rất hạn chế vì người cư sĩ phải
làm nhiều công việc như làm vườn thì phải trừ sâu bọ phá hoại
mùa màng, làm bác sĩ thì phải giết các vi trùng gây bệnh tật, làm
cảnh sát thì ngăn chặn kẻ trộm cướp sát nhân, v.v... Người tu sĩ thì giữ
gìn giới bất sát chặt chẽ hơn vì quý tăng ni ở trong chùa, và việc
ăn chay trường để biểu lộ lòng hiếu sinh, thương yêu đời sống
của mọi loài.
- Không tà dâm: Không ăn nằm với vợ hay chồng người
khác làm cho gia đình họ bị đổ vở, khổ đau vì sự ham muốn bất
thiện của mình. Ðối với các vị tăng ni, họ nguyện không làm
điều dâm dục để chuyển tất cả nguồn năng lực của các sự ham
muốn thành tình thương yêu trong sáng bao la và sự dũng mãnh trên con đường
thực hành cứu độ chúng sinh.
- Không trộm cắp của cải người hay làm giàu trên sự đau
khổ của người khác như đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lời, trả tiền
nhân công quá rẻ, v.v...
- Không nói láo, nói điều ác độc hay nói điều
tạo ra sự xung đột.
- Không xử dụng các chất độc hại như rượu, ma túy và
các thứ làm tàn hại thân thể.
Việc giữ gìn giới luật như thế không phải là
điều dễ dàng, do đó người Phật tử tùy hòan cảnh sinh hoạt của mình mà
xin thọ từ từ các giới. Dĩ nhiên thọ và giữ được năm giới là
điều rất tốt, nhưng tùy theo khả năng của mình mà xin nhận từ một
đến năm giới. Nếu nhận một giới mà giữ gìn tốt đẹp còn hơn là
nhận cả năm giới mà chẳng giữ được giới nào cả làm mất niềm tin của
kẻ khác là diều không tốt. Ðể cho người Phật tử tiến dần trên
con đường đạo hạnh và sống đời an vui, đầu tiên người Phật tử nhận
(thọ) Ba Sự Quay Về (Tam Quy): Quay về nương tựa Phật để
hiểu biết điều chân thật, quay về nương tựa Pháp để thực
hành cách sống an lành hạnh phúc, quay về nương tựa Tăng là những người
nguyện sống cuộc đời an vui chân thật và chỉ dẫn cho kẻ khác tiến
bước trên con đường cao đẹp đó. Sau thời gian tìm hiểu điều hay lẽ
thật của đạo, hiểu rõ sự giữ gìn giới luật đem đến cho mình
nhiều điều an lành tốt đẹp trong cuộc sống và tùy theo khả năng và
hoàn cảnh của mỗi người, chúng ta xin thọ nhận từ một đến năm
giới. Khi thọ giới như thế chúng ta phải biết rõ ràng là mình
muốn thọ giới nào và phải làm điều gì như thế mới có ích lợi
cho con đường tâm linh của chúng ta. Dĩ nhiên, cuối cùng chúng ta cũng
đều đi đến việc thọ nhận năm giới nhưng sự tiến bước
từ từ tạo cho chúng ta một nền tảng tâm linh vững chắc và thấy rõ mình
tiến bộ trên con đường tu tập.
Năm Ðiều Lành Nguyện Làm
Không làm các điều ác, làm các điều lành
để lòng mình được trong sáng an vui đó là lời dạy của đức Phật. Khi
trở thành người Phật tử chúng ta thấy lòng mình gia tăng tình thương yêu
và sự hiểu biết chân thật do đó từ năm điều xấu ác chúng ta
nguyện không làm, chúng ta lại còn muốn làm những điều tốt đẹp cho
mọi người an vui. Năm điều tốt đẹp đó hoàn toàn ngược lại với
năm điều xấu ác nói trên mà chúng ta nguyện không làm. Năm điều
lành này hoàn toàn tích cực và mang lại nhiều hạnh phúc cho mình và cho
người khi ta thực hành chúng:
- Cứu giúp người đang bị tai nạn, bệnh tật hay khổ
đau.
- Bảo vệ hạnh phúc cho mình và cho mọi người.
- Nói lời thành thật, hòa nhã và lịch sự để tạo sự
giao hảo tốt đẹp và an vui chung.
- Bố thí tiền bạc cho người nghèo khó hay đóng góp
tài lực vào các chương trình có ích lợi chung.
- Thực hành các chương trình làm cho thân thể mình
lành mạnh, trí óc mình trong sáng, tài năng mình gia tăng như thể thao,
thơ văn, âm nhạc, khoa học,v.v...
Năm điều lành này thường được chia nhỏ ra thành
mười điều lành gọi là Thập Thiện, nơi đây chúng ta thu tóm lại
cho dễ nhớ để tự nhắc nhở mình và phổ biến cho nhiều người
hiểu, tin và thực hành.
Như thế, thực hành các điều trên là thực hành
đạo Phật. Càng thực hành đạo Phật thì càng thấy an vui hạnh phúc. Càng
thấy hạnh phúc thì càng thực hành những điều trên một cách dễ dàng. Từ
đó chúng ta có niềm tin mãnh liệt (Tín) về đạo Phật, có sự mong
ước làm điều lành (Nguyện) và thực hành các điều lành trong
cuộc sống (Hạnh).
Bồ Tát Ðạo
Khi thực hành các đều trên tức là sống với tâm an
vui giải thoát, tức là sống với tâm Phật, lòng chúng ta chỉ thuần tình
thương trong sáng, sự thông minh tươi mát bén nhạy,sự hiểu biết chân
thật và nguồn an vui rộng lớn. Ðó tức là chúng ta thấy biết được, giác
ngộ được, trực tiếp sống với chân tâm hay Phật tánh nơi mình. Khi đời
sống chúng ta có nhiều tình thương,sự hiểu biết chân thật và
hạnh phúc rộng lớn thì ta mong muốn mọi người đều hưởng được
điều qúy báu ấy. Do đó, ta thực hành Bồ Tát Ðạo, đem chánh pháp
truyền bá sâu rộng và khuyến khích họ thực hành. Làm điều ấy
với lòng thành là phổ độ chúng sinh, giúp đỡ những người đang gặp những
khó khăn về tinh thần biết cách hành trì chánh pháp để sống đời
an vui hạnh phúc.
Càng thực hành việc phổ độ chúng sinh thì tình
thương yêu nơi ta càng phát triển, sự hiểu biết chân thật càng
lớn mạnh, nguồn hạnh phúc càng gia tăng càng làm khơi động nguồn năng lực
trong lành nơi mỗi chúng ta thúc dục chúng ta mạnh mẽ tiến lên trên
đường sống an vui giác ngộ (Tự giác) và giúp người khác sống an vui hạnh
phúc chân thật (Giác tha). Hai điều ấy hòa hợp tròn đầy (Giác hạnh viên
mãn) làm cho cuộc sống mỗi chúng ta rực rỡ như ánh sáng ban mai.
Quả thật như thế, tự mình thực hành sống đời
hạnh phúc và giúp kẻ khác sống đời hạnh phúc sẽ làm cho đời sống chúng ta
tràn đầy hạnh phúc. Từ đó, tự thân mỗi chúng ta kinh nghiệm được,
biết rõ ràng là hạnh phúc của mỗi chúng ta và hạnh phúc của người
khác vốn không thể tách lìa được: hạnh phúc của mỗi người và
mọi người trong xã hội liên hệ với nhau một cách mật thiết.
Sống Ðời Tích Cực Là Sống Giác Ngộ
Sự tu tập quý vị tăng ni nơi tu viện hay chùa
chiền theo những quy luật rõ ràng, sự tu tập của quý vị Phật tử ở
ngoài đời phức tạp hơn vì phải ứng dụng đạo Phật vào đời sống hàng ngày
sao cho phù hợp niềm tin, với lời nguyện làm các điều lành cùng
thực hành những điều lành để đem lại hạnh phúc cho mình và cho
người. Tám con đường cao quý, Bát Thánh Ðạo (The Eight Noble Paths) còn
được gọi là Bát Chánh Ðạo, vốn là ngọn đuốc soi đường cho bao
nhiêu thế hệ Phật tử từ hàng chục thế kỷ qua vẫn còn là
những nguyên tắc hoạt động tích cực nhất mà người Phật tử chúng ta có
thể noi theo. Dĩ nhiên, đạo Phật luôn luôn khuyến khích người Phật
tử phải có sự hiểu biết chân thật về đạo và thực hành sự
hiểu biết ấy để đem lại an vui hạnh phúc nhưng đồng thời phải
áp dụng sao cho phù hợp với hoàn cảnh sinh hoạt hiện nay. Ðức Phật ngày
xưa chỉ đi bộ từ vùng này đến vùng khác để giáo hoá chúng sanh,
quý vị tăng ni ngày nay khi đi giảng đạo ở những nơi xa xôi thì xử dụng
các phương tiện chuyên chở nhanh chóng như xe hơi, máy bay hay xe lửa.
Ðạo Phật luôn luôn nhắc nhở chúng ta trong mọi sinh hoạt và phát
triển đạo pháp làm sao cho phù hợp với chánh pháp và hoàn cảnh đang sinh
sống. Chính ngay đức Phật khi giáo hóa các người có sinh hoạt và hiểu
biết khác nhau, ngài cũng dạy cho họ đem tinh thần đạo Phật áp dụng
vào các sinh hoạt họ vẫn thường làm. Ðó là khế lý và khế
cơ: phù hợp với chân lý cao quý của đạo Phật đồng thời phù hợp
với hoàn cảnh và trình độ mỗi người hay mỗi xã hội.
Bát Thánh Ðạo là tám sự thực hành cao quý đưa
chúng ta đến con đường an vui tuyệt đối, là động lực mãnh liệt
khai mở suối nguồn hạnh phúc nơi mỗi chúng ta, là chìa khóa quý báu
mở cánh cửa tâm linh bao la của tình thương yêu rộng lớn và sự hiểu
biết chân thật làm cho đời sống chúng ta tràn đầy ánh sáng giác ngộ.
Tám điều thực hành ấy gồm có:
- Chánh kiến:
Thấy biết chân thật mọi sự vật. Khi ta buông xả mọi sự dính mắc
với các ý tưởng xung đột mâu thuẫn làm khơi dậy những giận hờn, lo sợ,
phân biệt, khổ đau thì tâm ta tràn đầy tình thương yêu trong sáng và
sự hiểu biết chân thật. Từ đó, ta nhận biết rõ ràng mọi sự
vật tự chúng đầy đủ, tự tại, rỗng lặng, không ngăn ngại hay chống đối
nhau. Khi tình thương yêu trong sáng có mặt thì ta thấy Phật tánh , niềm
an vui trong sáng rộng lớn bao la, có nơi ta cũng như nơi mọi người. Phật
tánh có đầy đủ nơi chư Phật cũng như nơi mỗi chúng ta, dù chúng ta
chưa kinh nghiệm được sự mầu nhiệm đó. Mọi người vốn không
khác nhau vì mọi người đều có Phật tánh. Từ sự thấy biết chân
thật đó chúng ta biết rõ mọi người đều bình đẳng không phân
biệt nam nữ, chủng tộc, v.v... và áp dụng nguyên tắc bình đẳng này vào
trong các sinh hoạt xã hội, giáo dục, chính trị, phát triển nghề
nghiệp và khuyếch trương thương mại: Tạo cho mỗi người những
điều kiện tốt đẹp nhất để họ có thể phát triển các
khả năng tiềm ẩn và hưởng được hạnh phúc an lành và giúp đỡ những
người nghèo khổ để họ có cơ hội sống an lành hạnh phúc.
- Chánh Tư Duy:
Nhờ sự hiểu biết chân thật nói trên mà chúng ta suy nghĩ, nghiệm
xét mọi thứ hợp với lẽ thật trong đạo cũng như ngoài đời, không bị
các thành kiến, tình cảm riêng tư hay sự thiếu hiểu biết
về các kiến thức khoa học, giáo dục, tâm lý, xã hội mà lý
luận sai lầm, không phù hợp với chân lý đạo Phật cùng các sự hiểu
biết khách quan.
Từ sự hiểu biết chân thật và suy nghĩ đúng đắn ấy mà ta hiểu
rõ mình phải sống cuộc đời đạo hạnh trong gia đình: Có hiếu với cha
mẹ, thương yêu và trung thành với chồng vợ, thương mến con cái và nuôi
dưỡng chúng nên người, cũng như ngoài xã hội: có tình nghĩa với bạn bè,
thân thuộc, sở mình làm việc, yêu thương đồng bào, xứ sở và mọi
người.
Ðiều ấy làm cho chúng ta thấy rõ là ánh sáng của lòng từ bi và sự
hiểu biết chân thật đưa chúng ta trở về với thế giới hạnh
phúc bao la của Phật tánh có sẵn nơi mỗi chúng ta. Nếu chúng ta xử
dụng đạo để biện minh cho các sai lầm của mình thì đó là vô minh,
sự mờ tối, còn nếu chúng ta theo ánh sáng của đạo, tức là tình thương
yêu và sự hiểu biết chân thật, tức là Phật tánh nơi mỗi chúng
ta, thì hạnh phúc sẽ dâng tràn. Nguồn hạnh phúc trong lành bao la ấy lập tức
xuất hiện, bây giờ và nơi đây chứ không phải chờ đợi phải đến
một chốn thiên đàng xa vời nào.
Như thế, người Phật tử đề cao sự học hỏi trong đạo cũng như
ngoài đời: Học đạo để biết rõ sự chân thật và học các môn
như văn chương, khoa học, nghệ thuật, các bộ môn thể thao và các
kỹ thuật sinh hoạt để có sự hiểu biết và sự suy nghĩ đúng trong
mọi hoàn cảnh sinh hoạt xã hội.
- Chánh ngữ:
Nói điều chân thật, thẳng thắn, điều mang lại lợi ích và an vui cho
mình và cho người. Như thế, chúng ta: - Nói
điều chân thật không nói điều dối trá.
- Nói điều đem lại an vui cho mình và cho người. Do đó, những điều
gì không cần nói hay nói ra đem lại sự buồn phiền xung đột thì chúng ta
không nói.
Khi thực hành các chương trình Pháp Thí là lúc chúng
ta thực hành chánh ngữ trọn vẹn nhất.
- Chánh nghiệp:
Nghiệp là các hành vi do thân, khẩu và ý cùng hậu quả của chúng. Như
thế chánh nghiệp là hành động, lời nói, ý tưởng biểu lộ
tình thương yêu và lòng mong muốn đem lại sự an vui, lợi lạc cho chính mình
và cho mọi người. Người Phật tử ở ngoài đời, khi thực hành chánh
nghiệp họ hướng tới: - Ðem lại sự an vui
cho mình và cho người qua các chương trình phổ biến rộng rãi đạo Phật.
Sự thực hành và hoằng pháp đó đem lại rất nhiều ích lợi cho ta vì khi
trình bày về đạo Phật thì thân ta làm điều tốt, miệng ta nói
lời chân thật và ý chúng ta hướng về sự cứu độ chúng sanh. Nói
khác đi, thân, khẩu và ý chúng ta thanh tịnh, trong sáng, an vui, hạnh phúc
vì chúng ta làm và nói điều thanh tịnh, trong sáng , an vui và hạnh phúc.
Bất cứ lúc nào ta hướng về chúng sanh, muốn đem lại cho họ niềm
an vui qua chương trình Pháp Thí, đem sự chân thật của đạo Phật mà bố thí
cho chúng sanh thì lòng chúng ta lập tức tỏa sáng niềm an vui hạnh phúc.
- Cùng nhau thực hành sự tu tập và áp dụng niềm an
vui trong sáng linh động vào trong các sinh hoạt thường ngày.
Quả thật như thế, khi chúng ta nói điều chân
thật, làm các điều lành, nghĩ điều tốt đẹp lúc ở nhà, ở sở hay
khi thực hành các chương trình Pháp Thí để đem lại an vui cho người thì
ba nghiệp thân, khẩu và ý (thân thể, lời nói và ý tưởng) trở
nên trong sáng an lành. Nói khác đi, ta sống đời hạnh phúc chân thật.
- Chánh mạng:
Sống bằng nghề nghiệp chân chánh tức là những nghề nghiệp
không gây tổn hại và khổ đau cho kẻ khác. Và rộng hơn, không những không
gây tổn hại mà còn đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Như thế,
người Phật tử đề cao sự làm việc, hiệu quả sự làm việc, sự
thích nghi với các hoàn cảnh để cải thiện và gia tăng sự tốt đẹp
của đời sống cá nhân và cộng đồng: - Làm
việc để sinh sống và phát triển: "Tay làm, hàm nhai" hay
"Một ngày không làm một ngày không ăn" vẫn là những lời thường
nghe nói ở ngoài đời hay trong chốn thiền môn. Làm việc là biểu
lộ Phật tánh của chính mình.
- Làm việc có kết qủa cụ thể: Tức là có
chương trình và có kết quả rõ ràng. Như thế, chúng ta nhấn mạnh
đến sự hữu hiệu thật sự của công việc làm chứ không phải làm
cho xong chuyện.
- Phát triển nghề nghiệp qua các chương
trình học hỏi và tu nghiệp.
- Làm việc trong tinh thần hòa hợp chung: Chấp nhận
kỷ luật và trật tự, xóa bỏ sự dính mắc vào cái tôi (Chấp ngã) bằng
cách tuân theo những luật lệ và trật tự chung cần có và áp dụng đồng
đều cho mọi người.
- Chánh tinh tấn:
Siêng năng và mạnh mẽ thực hiện các điều nói trên trong đời sống
hàng ngày.
Như thế, về phương diện Ðạo người Phật tử thực hiện sự tu
tập trong gia đình để mọi người an vui, tu học ở chùa để gia
tăng sự hiểu biết về chân lý và thực hành các chương trình
Pháp Thí để đem lại nhiều an vui cho mình và cho mọi người.
Về phương diện đời, người Phật tử siêng năng làm việc để
sinh sống, nâng cao hiệu năng làm việc, cải thiện hoàn cảnh sinh
sống cho mỗi ngày một tốt đẹp hơn thêm. Kinh A Di Ðà cho chúng ta một
hình ảnh lý tưởng về một đời sống đầy đủ tiện nghi vật chất
và an vui tinh thần mà người Phật tử hướng đến để tạo dựng trên
cõi đời nầy cũng như mãi mãi về sau. Ðời sống siêng năng đó là chìa
khóa mở cánh cửa hạnh phúc và tiến bộ. Theo tinh thần các bộ kinh Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm, A Di Ðà, v.v... đời sống vật chất đầy đủ và tốt đẹp của
cá nhân và cộng đồng làm cho đa số dân chúng có được thì giờ và phương
tiện thực hành tu tập và sống đời an vui giải thoát.
- Chánh niệm:
Tâm luôn luôn trong sáng và tỉnh thức, biết rõ các hoạt động của thân
thể (Khi đi, đứng, nằm, ngồi) cùng tâm ý (Các ý tưởng cùng tâm
tư như vui, buồn, thương, ghét mà không dính mắc vào chúng). Như thế
tâm ta rất nhạy bén với mọi ý tưởng tâm tư bên trong cũng như những
việc xảy ra bên ngoài, hiểu biết rõ ràng nhưng không dính mắc vào
đâu cả. Thực hành sự tu tập như thế thì chúng ta trở thành năng động
và tích cực hơn trong đời sống. Sống tích cực, thực hành các công việc
tốt đẹp với tâm an vui hạnh phúc tỏa sáng là lối tu hoạt động, là
thiền hoạt động khác xa với những người chủ trương sai lầm tu là xa
lánh cuộc đời, đó thật là đúng như lời các bậc chân tu từng nói rõ áp
dụng sự tu hành khó nhất là tại gia đình, thứ nhì là ở nơi chốn làm ăn
buôn bán và thứ ba là chốn chùa chiền. Người Phật tử sống trong cuộc
đời, phải áp dụng sự tu tập trong các sinh hoạt hàng ngày để làm gia
tăng hạnh phúc cho mình và cho người.
Khi ta sống trong chánh niệm thì tâm ta trở về trạng thái trong sáng
rộng lớn tự nhiên của nó, do đó năng lực trong người gia tăng, ta trở thành
hoạt dộng hơn,thích làm những công việc tốt đem lại lợi ích cho mình và
cho người. Làm việc với tâm tỉnh thức và an vui thì làm việc trở
thành sự giải trí chứ không còn là một gánh nặng, chính sự ăn không ngồi
rồi là gánh nặng cho đời sống tinh thần của mỗi chúng ta.
- Chánh định:
Thực hành chánh niệm trong các hoạt động thường ngày thì tâm ta lúc nào
cũng an trú trong tánh rộng lớn, trong sáng, an lạc và chân thật tự nhiên.
Ðó tức là chánh định: Mắt thấy, tai nghe, tay chân cử động, trí óc nhận
biết nhưng tâm luôn luôn trong sáng và bén nhạy. Lúc đó, mọi phản
ứng trong đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất tự nhiên, rất nhanh
nhẹn, rất tốt đẹp, rất an vui, rất linh động rất thoải mái. Tâm mỗi
chúng ta khi quay về với sự yên ổn, thoải mái và chân thật của mình thì
tự nó là tốt, tự nó là tình thương yêu bao la, tự nó là sự hiểu
biết chân thật, tự nó là sư thông minh tươi mát và tự nó là nguồn
hạnh phúc vô biên. Khi sống với tâm Phật đó thì chúng ta biết rõ: - Ta chỉ muốn làm điều tốt và đạo đức vì làm điều
tốt và đạo đức đem đến cho ta niềm an vui chân thật.
- Ta muốn thực hiện việc cứu độ chúng sinh,
giúp người được an vui hạnh phúc vì thực hành điều ấy làm cho ta hạnh
phúc vô cùng.
Như thế, khi thực hành đạo Phật trong đời sống
hàng ngày ta hưởng niềm hạnh phúc kỳ diệu cao vút nhất mà con người
có thể đạt được. Chính từ suối nguồn hạnh phúc bao la đó tình thương
yêu trong sáng tỏa chiếu khắp mười phương thế giới và sự hiểu
biết chân thật bao trùm mọi nơi. Ðó chính là cõi Niết Bàn, chốn
Tịnh Ðộ bây giờ và nơi đây. Ðó là chốn thiên thu vĩnh cữu, không già,
không bệnh và không chết như lời đức Phật dạy:
"Chính ta cũng phải trưởng thành và suy nhược,
nhưng xét thấy có trưởng thành và suy nhược là khổ nên ta hướng đến
cảnh an tịnh vô thượng của Niết Bàn vốn không trưởng thành và suy
nhược, cảnh an tịnh vô thượng ấy chính ta đã chứng, và cả Niết Bàn
không trưởng thành và suy nhược nữa.
"Chính ta cũng phải mắc phải bệnh tật, nhưng xét thấy có bệnh
tật thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của Niết
Bàn vốn không bệnh tật, cảnh an tịnh ấy ta đã chứng đến và cả
Niết Bàn không bệnh tật nữa.
"Chính ta cũng phải chết đi, nhưng xét thấy có chết thì có khổ
nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của Niết Bàn vốn không có
chết. Cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng và cả Niết Bàn không
có chết nữa..."
(Kinh Trung A Hàm)
Như thế thực hành đạo Phật là thực hành đạo
chiến thắng: chiến thắng những thứ tiêu cực, những khổ đau phiền
não và đạt được niềm an vui và hạnh phúc vô cùng. Ðó chính là bầu
trời mênh mông của tâm Phật nơi mỗi chúng ta như lời Phật dạy:
"Chiến thắng không thể bại
Trên đời không dấu tích
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao hòng theo dõi.
Lưới mê được giải thoát
Ai! phược hết buộc ràng
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao hòng theo dõi..."
Phẩm Phật Ðà (Buddhavagga) - Kinh Pháp Cú (H.T. Minh Châu Dịch)
Sách Tham Khảo:
- Childhood Stress: How to Raise a Healthier, Happier Child, Bell
Publisher Co., New York, 1987
- Forever Young, Stuart Berger, M.D., William Morrow & Company,
Inc., New York 1989
- Healing and the Mind, Bill Moyers, Double Day, New York, 1993
- Health Science, The Harford Courant, October 18, 1993
- Health Through Balance, Dr. Yeshi Donden
- Peace, Love & Healing, Bernie S. Siegel, M.D., Harper &
Row, Publishers, New York, 1989
- Perfect Health, Dr. Deepak Chopra, Harmony Books, New York, 1991
- The Art of Happiness, Teaching of Buddhist Psychology, Mirko
Fryba, Sambala, Boston & Shatesbury, 1989
- The Healing Heart, Norman Cousins, W.W. Norton, New York, 1983
- The Relaxation Response, Dr. Herbert Benson, William Morrow, New
York, 1975
- Thiền Luận tập I, II và III, Viện Ðại Học
Vạn Hạnh, Trúc Thiên Và Tuệ Sỹ dịch, Chùa Khánh Anh tái bản
- Unconditional Life, Deepak Chopra, M.D., Bantam Book, New York
1991
Trích: "Hạnh Phúc Kỳ
Diệu"
Tác Giả: Thích Phụng Sơn |