BuddhaSasana
Home Page
This document is
written in Vietnamese, with Unicode Times font
Lời nói đầu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tôi có may mắn được nghe cuộn băng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ giảng cho các người già bịnh. Nhận thấy bài pháp rất thực tế và hữu ích cho tôi, tôi nghĩ nó có thể hữu ích cho nhiều người khác không có may được nghe. Do đó, tôi chép lại.
Vì đây là văn nói, nên lời văn không bóng bẩy, văn chương. Kính mong độc giả đạt ý, quên lời. Trong khi chép lại tôi cố gắng giữ nguyên lời Hòa Thượng nói. Tuy nhiên tôi cũng có bỏ bớt vài điệp ngữ để dễ đọc. Có vài chữ tôi không nghe rõ, tôi để dấu hỏi (?) để độc giả hiểu là có thể tôi đã chép lại chữ đó không đúng.
Tôi cám ơn bác Lê Huy Nhâm và anh Dương Quí Thưởng đã đọc và sửa lỗi dùm cho tôi.
Tuệ Phúc
Lý do có bài pháp này là do một Phật tử đến yêu cầu chúng tôi, nói rằng có cha mẹ già đang bịnh nặng muốn trong khi cha mẹ lâm chung được tỉnh táo sáng suốt. Chớ sợ e khi đó hôn mê hay là hoảng sợ thì không tốt. Vì cái tình của người Phật tử hiếu thảo cho nên tôi hứa nói bài pháp này, đồng thời cũng nghĩ thêm người già bịnh trong khi mệt mỏi mà đau đớn. Bài pháp này chúng tôi nói lên là cốt vì những người già và bệnh. Như vậy dường như là một bài pháp nói riêng cho một số người. Nhưng sự thực, tất cả chúng ta có người nào rồi khỏi cái già và bệnh đâu? Như vậy tất cả chúng ta cũng đều có ảnh hưởng trong đây.
Khi nói bài pháp này nhằm trong lúc tôi đang làm người vô sự, cho nên không có đọc sách, xem kinh. Do đó những câu chuyện mà tôi kể lại đây có khi tôi nhớ ý mà kể, hoặc là nhớ câu chuyện xảy ra lúc nào đó. Chỉ nhớ chừng mực, chớ không nhớ hết đầu đuôi gốc ngọn. Ðồng thời cũng không nhớ được tên tuổi, vân vân. Mà tôi kể lên cốt để quí Phật tử nghe hiểu ý, chớ đừng có nghĩ rằng tôi kể không có đủ chứng cớ, hay là kể không đủ tên họ. Vì đây là lúc tôi đang làm cái việc vô sự. Ðó là lý do tôi nói cái bài pháp này.
Bây giờ tới cái mục nói lên người chết hay cái chết không đáng sợ. Bởi vì tất cả người ta ai cũng có quan niệm sanh là vui, mà chết là khổ. Sanh là mừng, chết là sợ. Vì vậy cho nên ngày sinh nhựt người ta gọi là ngày ăn mừng sinh nhựt. Còn ngày chết, con cháu gọi là ngày úy kỵ, tức là ngày sợ sệt, sợ hãi. Như vậy, thì đối với người Phật tử hiểu đạo, cái ngày chết là cái đáng sợ hay không đáng sợ?
Thực tình thì cái chết là cái không đáng sợ gì hết. Tại sao? Một là vì cái già, cái bệnh là hai cái khổ trong bốn cái khổ nhà Phật nói sinh lão bệnh tử. Mà đã mang hai cái khổ này vào mình là một gánh nặng đau khổ. Như vậy đương gánh một gánh nặng đau khổ mà quăng đi thì liền được nhẹ nhàng. Như vậy chết là quăng được cái gánh nặng của già và bệnh. Lúc đó chúng ta thảnh thơi, chúng ta nhẹ nhàng thì có gì đâu mà phải sợ. Ðó là một lý do chúng tôi nói chết là một cái không đáng sợ.
Hai nữa, là người Phật tử hiểu đạo thì tự nhiên biết rõ rằng kinh Phật thường nói có sanh là có tử. Tức là có sinh ra thì phải chết. Cái chuyện đó là cái chuyện thường, không ai tránh khỏi hết. Như đức Phật tu hành rốt cuộc rồi tám mươi tuổi Ngài cũng phải chết. Rồi các ông tiên mà chúng ta đọc ở trong truyện Tàu, tỉ dụ như bát tiên chẳng hạn, các ông đó tu nói rằng trường sanh bất tử. Nhưng sự thật thì cao lắm tám chín trăm năm rồi cũng mất, cũng chết. Cho nên tám ông tiên bây giờ tìm một ông cũng không ra. Dù như tu đắc đạo như Phật cái thân này tới hoại cũng phải hoại. Dầu cho luyện được thuốc trường sanh bất tử của mấy ông tiên, thân này tới lúc hoại cũng phải hoại. Chớ không bao giờ có người nào mà giữ được?
Vì vậy cho nên cái chết là cái lẽ thường, là cái việc chung cho tất cả, không ai tránh khỏi hết. Cái không tránh khỏi mà mình sợ thì chỉ là chuyện vô ích, nếu không nói đó là chuyện khờ khạo. Như vậy thì chúng ta là người hiểu đạo rồi, biết rằng mình có sanh thì mình phải có tử. Thì cái ngày chết là cái ngày nó sẽ đến. Bất cứ người nào cũng phải nhận. Như vậy thì chuyện chết là cái chuyện thường. Mà đã là thường thì không có sợ.
Cho nên chúng tôi nhớ ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi ngài sắp tịch, ngài nằm trên bộ ngựa ở giữa chân trang (?). Ngài nằm nghiêng bên phải, nhắm mắt để tịch. Khi đó những người thiếp, những người hầu họ khóc rống lên. Ngài liền ngồi dậy súc miệng rửa mặt rồi ngài quở. Ngài nói rằng "sanh tử là lẽ thường nhiên tại sao các ngươi làm náo loạn chân tánh ta?" Thế rồi các vị hầu thiếp im lặng, ngài nằm nghiêng bên hữu rồi ngài tịch. Như vậy chúng ta thấy rằng cái chết đối với ngài chỉ thấy là chuyện thường. Mà đã là chuyện thường thì không có gì phải quan trọng hết. Do đó nên ngài tự tại ra đi.
Còn chúng ta cứ cho cái chết là lớn lao, đáng sợ, cho nên rồi tới đó chúng ta kinh hoàng. Mà kinh hoàng thì đau khổ. Vì vậy mà người Phật tử chân chính lúc nào cũng biết rõ rằng cái chuyện chết sống là cái chuyện không tránh được. Mà không tránh được thì chúng ta chuẩn bị ngay những cái gì cần sau khi chết. Chớ đừng có để tới đó rồi hoảng hốt, rồi sợ hãi, chỉ là chuyện vô ích thôi. Ðó là điểm thứ hai.
Ðiểm thứ ba nữa, người Phật tử khi chúng ta đã hiểu đạo thì tự nhiên chúng ta tu, ít nhất là cũng giữ năm giới. Còn nếu nhiều hơn là thập thiện. Có giữ năm giới, biết tu thập thiện thì chết chúng ta sanh về đâu? Nếu giữ năm giới trọn vẹn thì chết chúng ta sẽ trở lại làm người đầy đủ các (?) đức. Tức là giới không sát sanh thì được tuổi thọ. Giới không trộm cướp thì được nhiều của cải. Giới không tà dâm thì được đẹp đẽ trang nghiêm. Giới không nói dối thì được lời nói thanh tao và mọi người tín nhiệm. Giới không uống rượu thì được trí tuệ sáng suốt. Mình sanh làm người rất đầy đủ các phần tốt đẹp của con người, không có gì thiếu thốn hết. Như vậy thì thân này nó hoại rồi được cái thân kế nó tốt đẹp hơn, phúc đức hơn, thì có gì chúng ta phải sợ?
Còn nếu chúng ta tu thập thiện thì bỏ thân này, chết sanh lên cỏi trời được hưởng nhiều phúc đức bằng mấy lần ở đây, tức là cái đẹp đẽ gấp bao nhiêu phần. Do đó, cho nên chúng tôi thường nói cái chết cũng như chúng ta đổi cái xe cũ lấy cái xe mới. Mà chiếc xe cũ xấu hư, chúng ta lấy chiếc xe mới tốt đẹp và toàn hảo hơn, thì có cái gì chúng ta buồn không? Do đó, cho nên chúng ta hoan hỉ khi bỏ thân này, vì biết rằng bỏ thân này chúng ta sẽ được cái tốt đẹp hơn, cái quý báu hơn, có gì đâu mà phải lo buồn. Vì vậy chết là cái không đáng sợ, mà chỉ sợ là mình không biết tu. Ðó là cái điều mà tôi nhắc tất cả quí vị nào trong cái hoàn cảnh bệnh hoạn, đau ốm, không thể tin tưởng rằng mình sống lâu thì ráng nhớ để tu hành.
Ðến một mục nữa là nói về cận tử nghiệp. Cận tử nghiệp nó rất là mạnh, nó có cái công dụng đưa chúng ta tới chỗ tốt hay chỗ xấu trong khi mà chúng ta sắp lâm chung. Bây giờ trước hết nói cái cộc cạnh (?) cận tử nghiệp của người làm ác lúc gần chết. Nếu người khi gần chết mà khởi cái tâm ác thì liền đổi cả cái sự tu hành hay là cái công đức trước của mình có mà liền sanh ở cái chỗ không tốt.
Tôi có đọc ở trong kinh, có một đoạn mà tôi quên tên. Có một người tu theo ngoại đạo đến cái quả vị định phi phi tưởng. Nếu người đó chết thì sẽ sanh về cỏi trời phi phi tưởng thiên. Nhưng mà khi gần chết có một cái duyên, nó làm cho ông nổi giận. Ông bực tức lên, rồi ông chết. Khi chết ông phải sanh làm con chó sói. Thì như vậy, từ cái quả vị cõi trời phi phi tưởng mà chuyển thành một con vật xấu xa, thì quí vị nghĩ cái cận tử nghiệp nó nguy hiểm vậy.
Cận tử nghiệp là cái nghiệp gần lúc chết. Gần lúc chết mà khởi cái niệm ác, khởi cái niệm dữ thì có thể sanh ở cõi ác, cõi dữ. Bởi vậy cho nên chúng ta thấy ở trong cõi người cũng như ở trong các loài thú, có những con thú sinh ra, hoặc có những con người sanh ra một thời gian ngắn rồi chết. Chúng ta không hiểu nếu là cái duyên làm người, hoặc là làm thú thì họ phải ở lâu để cho mãn cái kiếp người, kiếp thú. Tại sao chỉ một thời gian ngắn rồi họ đi? Ðó là để nói rằng những người đó, lý đáng họ không sanh ở chỗ đó. Nhưng vì cái cận tử nghiệp của họ mạnh cho nên rồi họ phải sanh. Sanh trong đó một thời gian, rồi họ phải chết để họ sanh chỗ khác theo cái tích lũy nghiệp, tức là cái nghiệp chứa đựng lâu dài của họ. Chớ không phải ngay nơi đó họ liền hết. Vì vậy cho nên cái cận tử nghiệp có một sức mạnh đưa đẩy người ta đi tới cái chỗ mà sinh ra không đúng như cái sở nguyện của mình, vì cái cơn nóng giận hoặc là nổi những cái niệm ác trong khi sắp lâm chung. Ðó là tôi nói trường hợp cái cận tử nghiệp về ác.
Bây giờ nói cái cận tử nghiệp thiện. Tức là người gần chết mà khởi cái niệm lành, tức là lúc sắp lâm chung khởi cái niệm lành liền sanh ở cái cõi lành. Dù cho cái tích lũy nghiệp của họ là ác, tức là cái nghiệp chứa đựng sẵn có là ác, nhưng mà khi sắp chết họ lại khởi cái niệm thiện thì chuyển được sanh ở chỗ lành. Vì vậy mà cái cận tử nghiệp nó làm cho cái tích lũy nghiệp bị mờ đi. Nói như vậy không có nghĩa là mất. Nhưng mờ nghĩa là họ phải theo cái cận tử nghiệp một thời gian rồi mới dừng cái cận tử nghiệp. Tức là hết cái cận tử nghiệp thì họ mới trả lại cái tích lũy nghiệp.
Cái nghiệp tích lũy là cái nghiệp quan trọng mình chứa đựng từ trước. Tức là trong cái đời sống của mình từ thuở nhỏ cho đến lớn, giả sử mình chứa những điều lành, điều tốt, mình chứa đầy đủ, nhưng tới giờ chót mình lại khởi những cái ác, cái xấu, thì cái cận tử nghiệp nó lôi đi. Lôi đi trả hết cái cận tử nghiệp đó rồi thì trở lại cái tích lũy nghiệp cũ. Tức là mình lành thì được hưởng lành, chớ không phải là mất hẳn. Nhưng mà vì cái cận tử nghiệp nó mạnh cho nên nó dẫn mình đi trước để mà trả theo cái tâm niệm lúc sắp lâm chung. Bởi vậy cho nên khi sắp lâm chung chúng ta phải ráng dè dặt tối đa không có nên khởi những tâm niệm ác, vân vân.
Bây giờ nói cái cận tử nghiệp thiện nó có thể chuyển cả cái nghiệp ác của mình trước, tích lũy nghiệp ác hồi trước. Thí dụ như trường hợp này chúng tôi đọc trong kinh thấy. Người mà phạm hai tội trong năm tội ngũ nghịch là ông Ðề Bà Ðạt Ða. Chính ông khi sắp chết thì Ðức Phật đã thọ ký rằng phải đọa địa ngục. Do đó cho nên khi ông gần chết ông hối hận, ông chấp tay hướng về Phật, ông xin sám hối. Sau đó ông chết, ông đọa địa ngục. Tới sau này, Ðức Phật kể lại cho ngài A Nan nghe. Ông Ðề Bà Ðạt Ða tuy là đọa địa ngục vì phạm tội ngũ nghịch, nhưng mà khi ông sắp chết, ông biết hối hận, thành tâm sám hối với Phật, cho nên sau khi đọa địa ngục rồi thì ông sẽ được trở lại làm người. Gặp Phật Pháp tu hành, sau này ông cũng chứng quả thành Phật, cho nên Phật thọ ký ông sau này thành Phật.
Như vậy mới thấy rằng cả đời ông, ông đã tạo những nghiệp ác. Nhưng khi sắp lâm chung, ông đã có cái tâm thức tỉnh, hối cải, thì sau này cái nghiệp ác hết thì ông cũng dược sanh ở cõi lành, và ông sẽ được tu hành chớ không có mất. Ðó là để nói cái cận tử nghiệp lành nó có thể giúp cho người mà sau này có thể phải chịu cái khổ lâu dài liền chuyển được cái khổ ngắn chớ không có lâu dài nữa. Ðó là một chuyện.
Còn một chuyện nữa, có một vị thiên ở cỏi trời Ba Mươi Ba. Hôm đó ông biết ông hết phước, ông sắp chết. Khi chết ông dùng con mắt thiên nhãn. Ông nhìn ông biết cái nghiệp của ông sẽ được sanh làm con ông trưởng giả ở dưới nhân gian. Và sau cái kiếp làm con ông trưởng giả đó, ông sẽ đọa địa ngục. Cho nên ông hoảng quá, ông sợ, ông khóc rống lên. Ông kêu "có ai cứu tôi". Ông cứ la mãi như vậy. Khi đó trời Ðế Thích đến hỏi vì lý do gì mà ông khóc than như vậy. Ông mới trình bày cái chỗ thấy của ông, và ông hoảng sợ quá. Trời Ðế Thích bảo nếu ông muốn cứu thì ông nên hướng về tam bảo, qui y tam bảo, thì ông có thể sẽ được cứu. Ông mới hỏi qui y tam bảo là sao. Trời Ðế Thích mới bảo qui y tam bảo có nghĩa là qui y với Phật, qui y với Pháp, qui y với Tăng. Ông mới nói Phật ở đâu. Trời Ðế Thích mới nói Phật đang thuyết pháp ở vườn Trúc gần Vương Xá. Ông mới nói tôi sắp chết làm sao đi xuống đó để qui y được. Trời Ðế Thích nói không sao. Bây giờ ông cứ quì chấp tay hướng về chỗ Phật thuyết pháp, ông nói to lên như thế này. Nói con tên gì đó, xin qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Nói như vậy ba lần, xin Phật cứu con, xin Phật độ con. Ông nói ba lần như vậy thì sẽ được Phật độ.
Ông liền quì gối chấp tay hướng về vườn Trúc mà ông nói (?) ba lần con xin qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng, xin Phật cứu độ con. Sau khi nói ba lần đó rồi thì ông liền chết. Quả là ông sanh xuống trần gian làm con ông trưởng giả. Nhưng khi người con ông trưởng giả đó lớn lên, một hôm gặp Phật đi khất thực ngang nhà thì đứa bé thấy Phật liền phát tâm muốn đi tu. Rồi sau đó được Phật độ đi tu và tu hành chứng được quả A La Hán. Thì như vậy để thấy rằng cái cận tử nghiệp để hướng về tam bảo, qui y mà sau này thoát khỏi đọa địa ngục và lại còn được xuất gia tu hành tiến tới giải thoát.
Như vậy cái cận tử nghiệp rất là quan trọng. Nếu mà tất cả chúng ta không biết, để cho cái cận tử nghiệp nó chuyển thành ác thì đưa chúng ta tới cõi ác. Còn nếu chúng ta biết dù trước kia có làm ác mà bây giờ chúng ta chuyển thành thiện thì nó cũng đưa chúng ta tới cõi lành. Do đó người Phật tử chân chính phải nhớ, phải biết rõ cái quan trọng của cận tử nghiệp.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận cái tích lũy nghiệp. Tích lũy nghiệp là cái nghiệp mình chất chứa từ khi có mặt mình cho tới già. Nếu mà từ nhỏ tới lớn mình làm điều lành nhiều, đó gọi là cái tích lũy nghiệp thiện. Nếu từ nhỏ tới lớn mình làm điều ác nhiều thì gọi đó là tích lũy nghiệp ác. Cái tích lũy nghiệp đó, nếu mà khi mình sắp lâm chung, mình không khởi những niệm ác thì con đường thiện, nhất định mình đi tới luôn. Còn nếu tích lũy nghiệp thiện, mà khi sắp lâm chung lại khởi niệm ác thì con đường thiện của mình phải bị quanh co. Có khi nó dẫn mình tới chỗ dữ. Ngược lại, nếu cái tích lũy nghiệp ác mà tới khi sắp lâm chung mình lại khởi cái niệm thiện, thì cái con đường ác, lý đáng mình phải chịu mà bây giờ mình lại chuyển ra con đường lành. Do đó cho nên cái cận tử nghiệp rất là mạnh, rất là đáng sợ. Tất cả các vị nào mà tuổi lớn, hay bịnh hoạn, phải nghĩ tới cái cận tử nghiệp mà dè dặt tối đa, chớ không nên để cho nó tạo cái ảnh hưởng lớn gây cho chúng ta cái đau khổ sau này. Ðó là tôi nói về cái sức mạnh của cận tử nghiệp.
Bây giờ nói những điều cấm kỵ của người khi sắp lâm chung. Những điều cấm kỵ là những điều không bao giờ nên làm, nên có, khi chúng ta biết đạo lý. Một là khi sắp lâm chung cấm kỵ không nên sanh giận. Tức là khi chúng ta sắp tắt thở thì dầu có cái gì trái ý, chúng ta cũng bỏ qua. Lo cho cái chết của mình, chớ không có buồn, có giận làm gì. Nếu sân giận thì chúng ta phải đọa vào những cõi dữ, làm những con vật hung dữ. Khó mà tránh khỏi. Ðó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai là phải dứt cái tâm oán thù. Nếu ôm cái tâm oán thù thì khi nhắm mắt chúng sẽ đi theo cái nghiệp oán thù mà đền đền trả trả không có ngày cùng. Tức là mình thù người thì sanh ra gặp khắc nhau, hại nhau. Tức là cái đau khổ nó chồng chất không biết đến đâu cho hết. Vì vậy mà cái tâm oán thù chúng ta phải dứt.
Cái thứ ba là cái tâm yêu tiếc. Tức là yêu mến con cháu, tiếc của cải, vân vân. Ðó cũng là cái nguy hiểm. Nghĩa là càng yêu tiếc thì tức nhiên lại có thể bị trầm luân. Ðó là bị chết, rồi trở lại làm những con vật không tốt. Như trong sử các vị tổ, ba mươi ba vị tổ, ở Ấn Ðộ có một vị tổ, tôi không nhớ tên rõ. Một hôm ngài đi khất thực, đi ngang nhà một ông trưởng giả. Khi đó ông trưởng giả đi khỏi, có con chó chạy ra sủa. Nó sủa to lên. Ngài nhìn nó ngài mới quở: "Ngươi vì cái bịnh tiếc của mà phải sinh trở lại làm chó giữ của mà ngươi không biết thân, còn sủa om sòm".
Ngài quở nó như vậy rồi nó buồn. Nó bỏ ăn. Ông trưởng giả về, ông rất là yêu mến con chó. Bây giờ thấy nó bỏ ăn, ông tức quá. Ông hỏi lý do thì người nhà nói sáng mai có một ông sa môn đi ngang qua. Nó sủa rồi không biết ông nói gì với nó. Cho nên bây giờ nó bỏ ăn. Ông trưởng giả hỏi ông sa môn đó ở đâu. Người nhà chỉ và nói vị đó khất thực rồi về ở đàng đầu làng. Ông mới tìm tới nhà. Khi tìm tới nhà rồi với cái tâm sân hận, ông nói:
--"Có phải ông khi sáng mai nói gì con chó của tôi mà bây giờ nó giận, nó buồn, nó bỏ ăn. Tại sao vậy?"
Ngài nói:
--"Ông đừng có nóng giận. Ta sẽ nói cho ông nghe."Ông trưởng giả mới dịu lại. Ngài mới nói rằng:
--"Con chó đó nó là cha của ông."Ông trưởng giả càng tức hơn nữa. Ông nói:
--"Tại sao con chó là cha tôi?"Ngài mới nói:
--"Nếu ngươi không tin ta thì về ngay cái chỗ giữa cái giường của ông thân ngươi ngủ mà bây giờ con chó nó hay nằm ở dưới đất, ông đào xuống, ông sẽ thấy một chén (?) vàng. Bởi vì cha ông khi chết chôn cái chén (?) vàng ở đó mà không có trối trăn được với ông, cho nên bây giờ, vì tiếc của, nên phải sanh trở lại làm chó để giữ của. Nếu ông không tin ta thì về nhà đào sẽ thấy."Khi đó ông hoảng hốt, ông liền không lớn tiếng với tổ nửa. Ông trở về ông đào, thì quả nhiên ông đào xuống thì ông thấy một chén (?) vàng. Ông đem lên. Chừng đó ông mới hoảng, ông chạy tới, cầu xin tổ cứu cha ông. Tổ mới khuyên ông bây giờ đem của đó bố thí vào những việc phải thì cha ông hết nghiệp. Ông liền đem của đó bố thí, thì sau đó con chó mới chết. Như vậy, chính vì cái yêu tiếc của mà rồi phải trở lại làm chó để giữ của. Cái điều đó là cái điều đáng sợ.
Cho nên ở đây tôi gọi là ba điều cấm kỵ trước khi lâm chung, người Phật tử phải nhớ đừng bao giờ cho xảy ra. Tôi nhắc lại, điều thứ nhứt là tâm sân giận. Ðiều thứ hai là tâm oán thù. Ðiều thứ ba là tâm yêu tiếc. Yêu con, tiếc của. Phải đừng có ba cái tâm đó, thì như vậy mới khỏi có những cái đọa những đường khổ. Chớ còn ôm ba cái tâm đó là nguy hiểm.
Nhắc lại, khi sắp lâm chung cần khởi cái tâm thiện. Nếu khi lâm chung mà khởi tâm thiện thì chúng ta sẽ được những điều lành, điều tốt. Những tâm thiện là tâm gì? Hoặc là khi sắp lâm chung liền khởi cái tâm bố thí, tức là giúp đỡ người nghèo, kẻ bệnh. Mình có phương tiện tới đâu, mình phát tâm tới đó. Khuyên con cháu phải làm việc bố thí, giúp đỡ cho người nghèo, kẻ bệnh, ... (?) Ðiều thứ hai là phát tâm cúng dường tam bảo, nếu người đã qui y rồi. Nếu người chưa qui y thì phát tâm qui y tam bảo. Ðể cho cái tâm thiện của mình tăng trưởng. Như vậy sẽ được cái hướng tiến đến cái điều thiện, rồi sẽ đi con đường thiện. Ba nữa là phát tâm phóng sanh, tức là cứu những con vật bị người ta bắt, người ta giết. Mình có thể cứu nó, nghĩa là mua, hoặc là tìm cách nào đó, dùng phương tiện nào đó, để giúp những con vật không bị chết. Ðó gọi là phát cái tâm phóng sanh.
Như vậy bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là cái tâm lành. Mà phát cái tâm lành như vậy thì tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi con đường lành. Ðó là cái điều cần phải khởi tâm trong lúc sắp lâm chung.
Bây giờ nói đến người Phật tử biết tu thì khi sắp lâm chung cần phải có những điều mà mình ứng dụng để gìn giữ cái tâm mình luôn luôn đi đúng đường, không có lệch lạc. Nếu cái người tu tịnh độ lâu nay chuyên niệm Phật, thì khi mình càng bệnh nặng, bệnh nhiều, thì mình phải ráng nhớ niệm Phật không quên. Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật, chớ không có lơi lỏng. Không có nghĩ tới con, nghĩ tới cháu, nghĩ tới tài sản gì hết. Chỉ nhớ Phật thôi. Như vậy nhứt định sẽ đi theo Phật, không nghi ngờ. Ðó là điều thứ nhứt cho những người biết niệm Phật, chuyên về niệm Phật, thì phải nhớ niệm Phật chớ đừng quên.
Còn hai là người không chuyên niệm Phật mà thường coi kinh sách, bây giờ gần chết thì phải nhớ một bài kệ. Tỉ dụ như quí vị thường tụng kinh Kim Cang chẳng hạn, thì quí vị phải nhớ một bài kệ, tức là nhớ tới Pháp. Hồi nãy là mình nhớ Phật, như người niệm Phật Di Ðà, thì nhớ tới Phật Di Ðà, niệm hoài. Còn ở đây, chúng ta nghiên cứu kinh điển, học Pháp của Phật, thì bây giờ nhớ Pháp, tức là tụng một bài kệ. Như bài kệ nói rằng "nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán", trong kinh Kim Cang. Nghĩa là tất cả pháp hữu vi, như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng. Không có cái gì là thiệt hết. Như sương, cũng như điện chớp. Chớp nhoáng rồi mất, nó không có còn lâu dài. Mà phải luôn luôn quán như thế đó. Chúng ta tụng mãi cái bài kệ đó thì tâm hồn chúng ta được trong sáng, nó không có kinh hoàng trong khi mình sắp lâm chung. Ðó là trường hợp thứ hai.
Trường hợp thứ ba, nếu người biết tu thiền, tâm mình đã yên tĩnh phần nào thì nhớ lúc sắp lâm chung mình hằng sống với cái tâm thanh tịnh. Chớ đừng có chạy theo cái tâm vọng tưởng điên đảo. Nghĩa là nhớ ngay trong con người bại hoại này có cái không bại hoại để mình không có kinh hoàng, không có sợ sệt, mà mình sống với cái tâm bất sanh bất diệt của chính mình. Thân này chẳng qua là như một cái tướng hư ảo, có đó rồi mất, chớ không có bền. Chỉ có cái thể thanh tịnh, chân thật của mình, cái đó muôn đời không sanh không diệt. Vì vậy cho nên chúng ta sống với cái thường, không sanh không diệt. Ðó là chúng ta biết tu.
Như vậy trong ba trường hợp mà tôi kể ở đây, người chuyên niệm Phật thì phải nhớ câu niệm Phật, chớ không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu pháp thì nhớ một bài kệ. Còn người chuyên thiền thì phải nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh diệt hằng thanh tịnh, để mà sống. Như vậy khi mình chết thì không có gì đáng sợ, không có cái gì đáng lo hết. Ðó là những điều cần yếu trong khi sắp lâm chung. Người nào biết tu nhớ được những điều này thì không có cái gì gọi là mê muội, không có cái gì sợ hãi, được ra đi một cách êm ái nhẹ nhàng và sáng suốt. Ðó là tôi nhắc cho quí vị trong khi sắp lâm chung.
Bây giờ nói tới hậu sự. Hậu sự tức là sau khi mình chết. Nhiều vị thường hay nghĩ mình chết rồi, trối trăn với con cháu phải làm thế này, làm thế kia cho mình. Ðiều đó tôi thấy nó dư. Tại sao vậy? Bởi vì mình phải biết cái thân này là do tứ đại hòa hợp mà thành. Chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống. Uống nước tức là giúp cho cái thủy đại. Aên thì giúp cho địa đại. Thở thì giúp cho phong đại, vân vân. Thì như vậy, trong bốn đại đó, nhờ mình vay mượn ở bên ngoài mà nó còn, nó tồn tại. Ðến khi chết, tức là mình không vay mượn nữa, thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về cho tứ đại, thì ở chổ nào cũng là tứ đại hết.
Ở tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại. Về quê hương mình, tứ đại cũng là tứ đại. Chớ đừng có nghĩ, giả sử bỏ tứ đại ở xứ người rồi đó là có chuyện thiệt thòi. Ðừng nghĩ như vậy. Mà tứ đại trả ở đâu cũng được hết. Cái thiệt thòi nhứt là cái tâm, cái tinh thần của mình khi ra đi mà không sáng suốt. Ðó là cái thiệt thòi. Chớ còn cái thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết. Cho nên người ta hay nói rằng thân này là thân cát bụi. Cát bụi chỗ nào cũng trở về cát bụi hết. Chớ không phải về xứ mình mà nó sẽ thành cái gì. Không thành vàng, thành ngọc gì cả. Vì vậy cho nên đừng quan trọng, để cho cái thân này, tự gia đình, tự con cháu giải quyết bằng cách nào miễn thấy tiện, có lợi. Hay là giải quyết bằng cách nào thấy thuận lợi nhứt thì con cháu làm. Mình khỏi cần phải dặn dò gì, khỏi cần bắt buộc gì hết. Chớ còn dặn dò bắt buộc, làm cho con cháu nhiều khi nó phải lúng túng. Thí dụ như ở chỗ đó không có lò thiêu mà bảo rằng chết phải thiêu. Khi đó có đất để chôn mà không chịu chôn. Kiếm chỗ thiêu thì chạy cùng hết không có. Hoặc chỗ đó có lò thiêu mà không có đất chôn mà mình không chịu, nói rằng chết thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn. Con cháu hoảng sợ, nó không biết đất ở đâu mà tìm. Như vậy chỉ là cái khổ cho người sống, chớ không có lợi gì hết.
Mà thân tứ đại nó là đất nước gió lửa còn có biết gì nữa mà sợ nóng, hay còn biết gì nữa mà đòi về quê hương. Cái biết chăng là cái tinh thần, cái tâm của mình. Do đó cho nên quí vị đừng có lầm lẫn mà nghĩ rằng thân này phải trở về quê hương mình mới tốt. Ðó là một cái sai lầm. Chính cái tâm hồn của mình trong sáng, mình đi đến chỗ nào mình thích. Cái đó mới là cái quan trọng. Còn tứ đại ở đâu trả cũng được hết. Bỏ ở chỗ nào cũng thành tứ đại. Chớ không bỏ ở chỗ nào mà thành vàng thành ngọc.
Ðó là những lời nhắc nhở để quí vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi, không làm phiền hà cho con cháu. Như vậy ở đây tôi chỉ nói một thời gian ngắn để cho quí vị nghe những điều cần thiết trong khi bệnh và già, sắp lâm chung, mình có cái hướng để chọn lựa. Chớ đừng có bị những cái tâm phàm tục, nó làm cho mình phải đau khổ ngay trong khi đó, khi sắp lâm chung, rồi nó lại kéo dài cái đau khổ sau khi mình đã lâm chung. Ðó là cái điều thiết yếu. Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe rồi nhớ ứng dụng. Thì đó là tự cứu mình, mà cũng là lời Phật dạy để chúng ta thoát khổ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Thanh Từ
Chân thành cám ơn anh Tuệ Phúc, Canada, đã có thiện tâm gửi cho bài Pháp nầy. (B. Anson, 11/98)