Giới thiệu: Bài nầy trích từ quyển sách "Thập Mục Ngưu Ðồ Tụng" của ngài Quảng Trí Thiền Sư viết vào năm 1719, triều vua Lê Dụ Tông, luận giải về các bài tụng tranh chăn trâu. Quyển sách nầy được ông Trần Ðình Sơn dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Sài Gòn năm 1991.
Hết thảy mê tín đều được sinh từ "kiến", dẫm vào thì như rừng rậm, chìm vào thì như biển sôi. Cũng như loài tầm làm kén, nơi đẹp là chổ buộc ràng. Tựa như loài thiêu thân bay vào đèn, chổ sáng là chổ chôn xác. Cho nên bật tiên đạt bảo rằng: - "Kẻ lãng tử bỏ nhà đáng thương thay. Người lử hành cô đơn sống trong cảnh lạc loài đói lạnh, mới biết đủ nổi khổ của kẻ cùng đường, không có cách gì cứu được." Những kiến giải ấy thật là đáng trách. Ðấy là chỉ mong nghe theo lời Phật mà lại nương tựa vào sự dẫn dắt của ma.
Nay tôi xin thuyết phá rõ ràng, mà thuyết phá ắt bị người ghét. Người xưa có bảo: Lời nói phải thì không tránh khỏi bị cắt lưỡi. Nên tôi chỉ lược nêu trong đám tăng chúng bản xứ, họ gồm 5 loại đọa, 5 loại trụy, cộng lại 10 loại người chưa chịu chăn vậy.
Loại thứ nhất là loại do cuồng vọng, túng tứ mà không chịu chăn. Sao vậy? Trong kinh có dạy: "Có một loài ma chuyên thích trí tuệ ngông cuồng, không chịu giử giới tu hành". Họ nắm lấy một cách sai lầm nhũng lời lẽ có tính cách tương tự ở kinh điển mà bảo rằng: - "Phiền não tức bồ đề; dâm, nộ, si là phạm hạnh". Theo lời mà sinh ra kiến giải, theo sự giải thích mà phát ra độc hại. Họ có tâm ý phóng túng, lời lẽ ngông cuồng, tội thực không kể hết. Cứ nói chuyện giải thoát ở cửa miệng, thì thừa và giới luật đều mất, đều chẳng tu hành. Hoà Thượng Vĩnh Minh có dạy rằng: - "Khi tập khí (thói quen đã huân tập từ nhiều đời kiếp, tất cả những cái đã xông ướp, thấm nhiễm vào người) bị nghiệp cảnh sai khiến, thì hiện hành sao khỏi sự trói buộc của duyên?" Cũng như bảo rằng: - "Ngàn ngày học tập lý giải, không bằng một ngày tu trì giới luật". Sao lại tham cái hư danh của lý sự để phải trầm luân đọa lạc một cách oan uổng? Ðó là bọn sủa càn, thật đáng thương thay! Những người này tức là những người chưa chịu chăn.
Loại thứ hai, rơi vào sự chi li mà không chịu chăn. Sao vậy? Tổ sư dạy: - "Có nhiều người thông minh học hết giáo điển, ghi nhớ chương cú, chấp vào cái giả danh của pháp thân (thân chân thật của chư Phật tức là pháp tính hay lý thể tuyệt đối), phân tích ra mọi loại danh tướng, thêm thắt chổ này, bổ sung chổ nọ. Quanh năm suốt tháng chỉ cố tranh kiến giải của mình mà chẳng tu hành thật sự". Vì thế nên biết: Ðứa bé đói qua hàng thịt, nhìn thấy mà nhai ngồm ngoàm, chỉ tăng lòng thèm khát chứ không cứu được bụng đói. Những người như thế chỉ làm khách thiền ngoài miệng, tuy ghi chú chương cú nhưng trong lòng ngã mạn, khinh chê mọi người. Ðấy là hạnh thô bỉ nhất trong tăng chúng, huống chi là không có công hạnh thật sự! Như thế chỉ tăng thêm khẩu nghiệp, thực quả đáng thương! Hạng người này cũng không chịu chăn.
Hạng thứ ba, bị rơi vào si mê cái "Không" mà chẳng chịu chăn. Sao vậy? Người xưa có dạy: Kẻ học đạo mới thấy sơ về cái "Không" của các pháp, nghe người khác tụng kinh, niệm Phật, lể bái, làm các pháp tu hành, bèn bảo rằng: "Pháp tách rời danh tự, nếu chấp vào danh giả và thuyết tạm thì càng tăng thêm sự hư vọng". Hạng người như thế lòng và miệng trái ngược nhau.
Há chẳng thấy kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: - "Nếu trong định kia mà các thiện nam tử thấy rằng các uẩn (Sắc: vật chất hình tướng; Thọ: sự cảm thọ; Tưởng: sự nghĩ tưởng; Hành: sự vận hành và Thức: cái nhận biết.) tiêu mất, thọ uẩn rõ ràng, tự cho mình đã đủ, tức có phần ngã mạn lớn, ma nhập vào tâm phủ". Họ còn bảo rằng: - "Một niệm vượt qua ba tăng kỳ kiếp" (thời gian của vạn kiếp vũ trụ, rất dài lâu không thể tính được). Ðể rồi trong lòng xem thường mười phương chư Phật, huống chi các bậc thấp như hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Họ không chịu lể bái tháp miếu, khinh mạn kinh tượng, cho đấy chỉ là vàng. đồng, đất, gỗ, rồi bảo rằng: - "Nhục thân chân thường thì không tự cung kính mà lại sùng bái gổ đất!" Như thế thật là điên đảo, làm nghi ngờ sai lạc cho người sau. Nên biết rằng: - "Chấp Không, phá tướng đều là quyến thuộc của Ma." Cho dù có bảo là Không, sống cũng Không, chết cũng Không, nhưng còn cái Không của Ðại Diêm Vương làm sao như thế được? Thật đáng thương! Những người này chấp vào "Không" mà chẳng chịu chăn.
Hạng thứ tư, rơi vào tùy duyên mà không chịu chăn. Sao vậy? Họ bảo rằng người xưa có dạy: - "Theo duyên mà làm tiêu nghiệp cũ, tùy thời mà mặc áo quần thì hãy thuận theo lẻ trời mà vạn hạnh tự đầy đủ, nhấc chân, bỏ chân, cái gì không phải là tịnh nghiệp đâu mà phải làm bao nhiêu chuyện?" Họ lại bảo: - "Có bậc Tiên đức bảo rằng: 'Tức Tâm là Phật', cần chi vào việc tu hành?"
Bọn như thế cũng như con chó duổi theo cục đất vậy, không biết rằng đó chỉ là lời nói tạm một lúc của các bậc Tổ Sư, vì bịnh mà cho thuốc. Nên biết rằng: theo duyên thuận thời, không phải là không làm gì cả. Ðấy là nhận lầm Tổ cơ (tức cái mấu chốt do chư Tổ bày đặt ra để tùy căn cơ, trình độ mà dạy bảo), tưởng đá là ngọc vậy, thật đáng thương xót. Cũng vì kiến giải sai lầm như thế mà hạng người này không chịu chăn.
Hạng thứ năm, bị rơi vào hạng ỷ lại quyền thế mà không chịu chăn. Sao vậy? Do họ không biết liêm sỉ, chạy theo danh lợi, quên đạo đức, bỏ bê giới luật, bỏ đi phép tắc, mang lấy tình riêng mà ra vậy. Thế rồi họ lại chê người chân chính tu hành là hàng bỉ lậu, khen ngợi bọn tự đắc ngông nghênh là hạng lổi lạc. Do đó không biêt hổ thẹn gì, chỉ cứ lo nịnh hót quyền thế, ỷ lại chốn giàu sang để mưu lấy danh lợi. Bọn này không thể hiện được gốc đạo; chìm đắm trong sông ái, biển dục, đành chịu sự trầm trụy. Một ngày kia họa đến, phước hết; trời, người đều ghét; làm lụy đến Thầy, bạn. Hạng người này cũng không chịu chăn.
Hàng thứ sáu, là thân tuy xuất gia mà chẳng chịu an tâm học đạo. Họ thuận theo cái Không của các pháp, chỉ mong giữ lấy cái thân huyển ảo, làm bộ làm dáng bị đọa lạc mà chẳng chịu chăn. Sao vậy? Hoà Thượng Thiên Như dạy: - "Gần đây có bọn người xuất gia, tuy bảo rằng bỏ thế tục nhưng thói quen tục lụy vẫn không chừa." Họ bảo rằng thoát khỏi trần ai, nhưng họ thì: Duyên trần không dứt bỏ, Kinh giáo không biết, tham thiền chẳng hay, vượn tâm rong rủi, ngựa ý bôn ba (ám chỉ tâm ý điên đảo, phóng túng không định tỉnh của chúng ta như loài vượn, loài ngựa). Họ nhóm lại từng bầy, qua ngày đoạn tháng. Như thế chẳng những uổng phí của cúng dường mà còn mai một tâm linh của chính họ. Ðến khi nhắm mắt xuôi tay biết đi về đâu? Quả thực là muốn vào "cửa Không" mà trở nên sống hư chết lãng. Bọn người như thế là bọn vì cơm áo, vì sự yên ổn mà ra đi xuất gia, thiệt đáng thương xót.
Há chẳng biết kinh Bữu Tích dạy rằng: - "Cái ngục tham dục vẩn thường bị phiền não trói buộc." Cái hầm dơ bẩn thường bị trùng bọ rúc rỉa, tựa như nhà xí có năm loài không sạch, chăng khác gì cái bị rách có chín lổ (ý nói về thể xác) thường chảy ra. Rắn độc sân hận nổi lên hòng hại người mà làm tổn tuệ mạng. Con quỷ ngu si vì nắm lấy thân kiến mà nuốt cái thân trí, như bọn giặc ác mà người đời đều ghét, như loài chó chết mà người hiền vứt bỏ. Không cứng rắn, giống như cây chuối, bọt nước, vô thường như ánh chớp tia lửa. Tuy ăn uống chẳng bao nhiêu mà tạo thành oan trái, mổi khi được cúng dường lại không biết báo đáp lại. Ðiều đáng trách không phải là ít, thực khó nói cho hết. Nếu không xét lổi lầm sâu xa này rồi cứ chấp chặt cái bánh vẽ một cách mê muội, thì không thể nào tiến tu được, tức: Trí tuệ, đức hạnh đều thiếu kém, lý sự đều tiêu tan.
Trước hết cần phải biết cái ác, biết các điều sai thì lửa dục mới tiêu được. Nếu đối trị hết từ gốc, thì cái chân nguyên tự hiện ra. Phàm hạng người như thế vì bên trong không có sự chiếu sáng của trí, lại bỏ gốc nắm ngọn, sáng chiều chạy theo bọn bị động, làm hổn loạn nguồn chân, vẩn đục dòng tính. Hạng người như thế thì không chịu chăn.
Hạng thứ bảy, chạy theo việc người, càng ngày càng tinh chuyên mà không chịu chăn. Vì sao? Kính Pháp Cú dạy: - "Như tờ giấy bao hương, như sợi dây cột cá vậy." Phàm vật vốn tịnh nhưng vì duyên mà khởi thành tội phước. Có bạn hiền minh thì đạo nghĩa càng ngày càng tăng tiến. Bạn bè ngu ác thì tai ương càng ngày càng tụ tập. Giống như giấy sạch gần hương mà thơm, gần vật dơ mà bị hôi hám. Lâu dần thành thói quen đều không tự biết. Tiên Ðức có bảo: - "Thôi, thôi, thôi, hãy tu cho sớm. Khi trời khô tạnh không chịu đi, lại đợi cho đến lúc mưa xối xả!" Bọn người này thuận theo bánh xe nghiệp, đem chôn mất gốc Ðạo, mà không chịu chăn.
Hạng thứ tám, dùng Phật Pháp để làm việc đời, rồi lười biếng chẳng chịu chăn. Vì sao? Chỉ vì tài trí không đủ, kiến thức không có mà ra như vậy. Hoà thượng Phật Trí Cốc dạy: - "Ngựa hay rong chạy thì không dám giữ chân lại, chỉ còn cách gò dây cương mà chế ngự. Ý thức trôi chảy lung tung thì không thể nương vào duyên và sức mạnh của sự tỉnh thức được." Than ôi! Dùng Phật Pháp mà làm việc đời, quả thực là bọn ngoắt đuôi mà xin thương hại, là kẻ không thức tỉnh. Bọn người này thì không chịu chăn.
Hạng thứ chín, thì lười biếng, uể oải, cầu an mà không chịu chăn. Vì sao? Chỉ vì họ tự mang, tự bỏ mà ra như thế. Bậc Tiên đức có bảo: - "Cái dung lượng tài năng của con người thì có lớn, có bé, nên không thể dạy được." Nên bảo rằng: - "Cái nhỏ không thể ôm cái lớn được; dây gầu ngắn thì không thể lấy nước ở sâu." Chim cú ban đêm nhìn thấy loài trùng nhỏ nhặt rất rõ, nhưng ban ngày mắt lại mờ tối, không thể thấy gò núi, không phân định gì được. Người như vậy tự cho mình là đủ nên chẳng còn mong cầu gì xa hơn. Sống chẳng có ích gì cho đương thời, chết cũng chẳng để tiếng tăm cho hậu thế. Hạng người như thế thì không chịu chăn.
Hạng thứ mười, là bọn cờ bạc hư hỏng tụ tập với nhau mà chẳng chịu chăn. Sao vậy? Họ chỉ mong cái lợi trước mắt mà mưu kế cẩu thả. Họ lại còn bảo rằng: - "Cầu đạo thì quá xa vời, chẳng bằng cầu cái lợi thiết thực." Do vậy mà họ quen thói phù hoa, so đo nhỏ nhặt, không tính được cho trọn năm, huống chi là lo chuyện sinh tử! Việc học đạo càng ngày càng suy, việc tu tập càng lâu càng bỏ phế, tông môn ngày càng hư hỏng. Hạng người như thế thì không chịu chăn.
Mười hạng người kể trên, tuy gọi là xuất gia mà chưa bỏ hẳn việc đời: mang lấy thân nam tử mà không có cái chí của bậc trượng phu. Vì thế Tổ Quy Sơn dạy: - "Tiếc thay một đời luống qua, gặp việc thì quay vào vách!" Suốt ngày cứ lăng xăng, tối lại thì mê mệt, ngã xuống chẳng biết chôn ở đâu. Họ ngồi trong ngục tối, không đạt được yếu chỉ "tức sự, tức lý", mà cứ niệm suông câu phá bịnh, phá chấp. Người trí thì sâu xa biết bao nhiêu, kẻ ngu thì chỉ bắt chước bề ngoài mà cứ mong thành tựu việc lớn một cách nhanh chóng thì thực là khó vậy.
Vì thế, tôi nay xin quảng dẫn tấm lòng thâm sâu của chư Phật, chư Tổ mà trình bày rõ ràng đại ý của kinh luận, mong phá bỏ cái chấp cũ, sửa đổi cái sai lầm trước, cùng nhau theo đuổi dấu tích để lại của các bậc Thánh đời trước, cùng nhau lấy sắc chỉ từ bi của bậc Giác Vương, không để hư cái trí của mình, không phụ tứ ân, cùng bước vào cử giải thoát cùng tiến trên con đường thực hành thành tựu của chư Phật, làm viên mãn trí bồ đề, chận lối tà, mở rộng đường trí, làm vững gốc tín mà nhổ gai chấp, vượt khỏi bến khổ của ba cõi, nhập vào biển nguyện của Phổ Hiền, vượt khỏi sự phiêu đãng của pháp giới, tiến lên thành lớn Niết Bàn.
Ngưỡng mong chư Phật, chứng cho lòng thành nhỏ nhặt này, mong được phổ biến. Nay kính dâng tập sách (Thập Mục Ngưu Ðồ Tụng Luận Giải).
Quảng Trí Thiền Sư, 1719
(Trần Ðình Sơn dịch, 1991)
Chân thành cám ơn anh Phước Nguyễn (hi-lwa@juno.com) đã có thiện tâm đánh máy lại và đăng từng phần trên diễn đàn Phật Giáo vn-buddhism@saigon.com trong tháng 5-1997.