I.
Hồi
đó Phật đang ở nước Xá Vệ với đầy đủ quý vị trong
cộng đồng khất sĩ. Một hôm Ngài nói với đại chúng: "Có
pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn
phân tích và diễn giải pháp ấn này cho quý vị nghe. Quý
vị hãy đem nhận thức thanh tịnh ra để nghe cho kỹ, tiếp
nhận cho thấu đáo, khéo léo xử dụng tâm ý đề ghi nhớ
mà hành trì." Các
vị khất sĩ bạch Phật: "Hay quá, thưa đức Thế Tôn! Xin người
chỉ dạy cho, chúng tôi muốn được nghe."
II.
Phật dạy:
"Tự tính
của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm
trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không
có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến . Tại sao thế?
Vì tự tính của Không không có vị trí trong không gian, không
có hình tướng, không thể khái niệm được, chưa bao giờ
từng sinh khởi, tri kiến không nắm bắt được và thoát ly
mọi sự nắm bắt. Vì thoát ly đượcmọi sự nắm bắt nên
nó bao hàm được tất cả các pháp và an trú nơi cái thấy
bình đẳng không phân biệt.
"Cái thấy
ấy là cái thầy chân chính và xác thực. Quý vị khất
sĩ! Quý vị nên biết rằng không những tự tính của Không
như thế mà tất cả các pháp cũng đều như thế. Ðó gọi
là pháp ấn.
"Quý
vị khất sĩ! Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải
thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của
chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật. Vì vậy quý vị
nên nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, để ghi nhớ mà
tư duy và quán chiếu ngay trong lòng thực tại.
III.
"Quý
vị khất sĩ! Người tu hành nên tìm nơi tĩnh mịch như vào
rừng, ngồi dưới gốc cây để thực tập quán chiếu về
tự thân thực tại. Phải thấy mọi sắc là khổ, là không
và là vô thường để thoát ly cho được sự bám víu vào
hình sắc và trở về an trú trong cái thấy bình đẳng không
phân biệt đối với hình sắc. Ðối với cảm giác, tri giác,
tâm tư và nhận thức cũng thế: người ấy nên quán chiếu
rằng chúng là khổ, là không và là vô thường đề có thể
thoát ly cho được cái thấy có tính cách sai lạc về cảm
giác, tri giác, tâm tư và nhận thức để đại tới cái thấy
bình đẳng không phân biệt về chúng. Này quý vị khất sĩ,
các uẩn vốn là không, vốn được sinh khởi từ tâm, khi
tâm không còn hiện hành thì uẩn cũng không còn tác dụng.
Thấy biết được như thể tức là đạt được giải thoát
chân chính. Giải thoát chân chính rồi thì thoát được mọi
tri kiến. Phép quán sát này được gọi là KHÔNG, cánh cửa
giải thoát thứ nhất.
IV.
"Lại
nữa, an trú trong định mà quán sát các đối tượng thì hành
giả thấy các đối tượng hình sắc đều tan biến hết và
người ấy thoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về
hình sắc. Các đối tượng khác là thanh, hương, vị, xúc
và pháp cũng đều tan biến hết và hành giả thoát ly được
tính cách hư ảo của mọi tri giác về thanh, hương, vị, xúc
và pháp. Pháp quán sát này gọi là VÔ TƯỚNG, cửa giải thoát
thứ hai. Vào được cánh cửa giải thoát này rồi thì tri
kiến sẽ được thanh tịnh; và vì tri kiến đã thanh tịnh
nên hành giả diệt trừ được hết các phiền não tham, sân,
si. Tham, sân, và si đã tận diệt thì hành giả an trú được
trong cái thấy bình đẳng. An trú được trong cái thấy này
thì lìa được những cái thấy về TA và về CỦA TA, nghĩa
là chấm dứt được mọi cái thấy sai lầm. Cái thấy này
không còn cơ hội và căn cứ đề sinh khởi nữa. V.
"Lại
nữa, các vị khất sĩ! Thoát ly được cái thấy về ta rồi
thì không còn cho rằng những sự vật mà ta thấy, nghe, cảm
và biết là những sự vật có thật ngoài nhận thức nữa.
Vì sao thế? Vì nhận thức cũng chính là do nhân duyên mà phát
sinh. Nhận thức và các nhân duyên làm phát khởi ra nhận
thức đều biến chuyển vô thường, mà vì thức vô thường
cho nên ta cũng không nắm bắt được. Thức uẩn đã
không như bất cứ hiện tượng nào khác thì còn có gì cần
được tạo tác nữa đâu? Pháp quán sát này được gọi là
VÔ TÁC, cửa giải thoát thứ ba. Vào được cửa giải thoát
này rồi thì thấy được chân tướng các pháp một cách triệt
để, không còn bị kẹt vào một pháp nào nữa và thể nghiệm
được tính cách tịch diệt của các pháp."
VI.
Phật
bảo quý vị khất sĩ: "Pháp ấn mầu nhiệm là như thế.
Ðó là ba cánh cửa đi vào giải thoát. Quý vị khất sĩ, nếu
quý vị tu học theo pháp ấn này thì chắc chắn là sẽ đạt
được tri kiến thanh tịnh."
Toàn thể
các vị khất sĩ nghe pháp nãy đều tỏ ra sung sướng. Họ
làm lễ Phật sau khi đã tiếp nhận giáo pháp này để hành
trì.
Ghi chú: KINH PHÁP
ẤN (Phật thuyết Pháp Ấn Kinh) thuộc về kinh bộ A Hàm, là
kinh số 104 của Ðại Tạng Tân Tu. Trong Ðại Tạng còn có
hai kinh cũng nói về đề tài Pháp Ấn: đó là Kinh Phật Thuyết
Thánh Pháp Ấn (kinh số l03) và kinh thứ 80 của bộ Tạp A
Hàm (kinh số 99 của Ðại Tạng Tân Tu. Kinh này do thiền sư Câu Na Bạt Ðà La dịch, cũng vào đời Tống). Trong kinh tạng
Pàli, đề tài Pháp Ấn - được gọi là Tam Giải Thoát Môn,
ba cửa giải thoát - được nói đến trong kinh số 43 và 44 của
Trung Bộ, kinh số 33 của Trường Bộ, và trong quyển Vô Ngại Giải
Ðạo (Patisambhida-magga) thuộc Tiểu Bộ. Ngoài ra, ba cửa giải
thoát cũng được bàn luận trong tập Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi-magga),
trong bộ Pháp Tụ của tạng Thắng Pháp, và trong các bộ Chú
giải . --
(Bình Anson)
-ooOoo- |