Kinh
Trung A-hàm, 60 quyển, do Sa-môn người nước Kế Tân là Tăng-già-đề-bà
và Tăng-già-la-xoa dịch vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long
An thứ 2 (398). Kinh này là một bộ trong bốn Kinh A-hàm của
Phật giáo Bắc truyền. Vì kinh này tập hợp các kinh không
dài không ngắn, ở dạng trung bình nên được đặt tên là
Trung A-hàm (Xem DI-SA-TẮC NGŨ PHẦN LUẬT 30, LUẬN PHÂN BIỆT
CÔNG ĐỨC, quyển thượng). Bản Hán dịch đầu tiên của
kinh này do ngài Đàm-ma-nan-đề thực hiện vào đời Phù Tần,
niên hiệu Kiến Nguyên thứ 20 (384), gồm 59 quyển (hiện nay
đã thất lạc, chỉ còn một ít bản lẻ). Vì bản dịch
này chưa phù hợp với nguyên ý, nên hơn 10 năm sau, ngài Tăng-già-đề-bà
dịch lại.
Nội dung của bản dịch kinh này
gồm 5 tụng, 18 phẩm, 222 kinh, khoảng 514.825 chữ (Xem bài tựa
của Đạo Từ trong XUẤT TAM TẠNG KÝ TẬP quyển 9). Chủ đề
của các phẩm như sau :
A. Ngày đầu tiên tụng 5 phẩm rưỡi
gồm có 64 kinh :
I. Phẩm Thất Pháp:
nói về 7 pháp và những vấn đề có liên quan, gồm 10 kinh
:
1. Kinh Thiện Pháp nói về 7
pháp lành như biết pháp, biết nghĩa …
2. Kinh Trú Độ Thọ dùng 7 giai
đoạn của cây Trú Độ trên cõi trời Tam Thập Tam như lá
héo vàng, mọc lá, ra hoa … để dụ cho Tỳ-kheo từ xuất
gia đến chứng 4 quả.
3. Kinh Thành Dụ, dùng 7 việc đầy
đủ và 4 thứ lương thực sung túc của Vương thành ở
biên giới để dụ cho Thánh đệ tử đắc 7 pháp thiện,
thành tựu 4 thiền.
4. Kinh Thủy Dụ, đem 7 loại
người từ thường nằm trong nước cho đến đã lên bờ
để dụ cho người thường làm điều tệ ác cho đến
người thành tựu 4 quả.
5. Kinh Mộc Tích Dụ, nói thà
ôm đống gỗ đang cháy đỏ dù phải chịu đau khổ hay mất
mạng chứ không phá giới gần gũi người nữ …
6. Kinh Thiện Nhân Vãng nói về
7 bậc A-na-hàm làm "chỗ đến của 7 bậc thiện nhân
và Vô dư niết-bàn".
7. Kinh Thế Gian Phước nói về
7 phước thế gian như bố thí phòng nhà … cho đến 7 phước
xuất thế gian như vui mừng hớn hở khi nghe đến Phật…
8. Kinh Thất Nhật nói về 1 mặt
trời xuất hiện ở thế gian cho đến 7 mặt trời cùng xuất
hiện một lượt ở thế gian để nói các hành vô thường,
khuyên mọi người hãy buông bỏ.
9. Kinh Thất Xa, lấy việc vua
Ba-tư-nặc từ nước Xá-vệ lần lượt thay 7 xe để mau
chóng đến Bà-kê-đế, ví dụ do 7 pháp tịnh như giới tịnh
… tương tục thành tựu đạt đến đến niết-bàn.
10. Kinh Lậu Tận nói về 7 thứ
hữu lậu nhờ Kiến … mà đoạn.
II. Phẩm Nghiệp Tương Ưng:
gồm 10 kinh có liên quan đến 10 pháp thiện và 10 pháp bất
thiện.
1. Kinh Diêm Dụ nói người trí
tu thân, giới, tâm huệ …, tuy có làm nghiệp bất thiện,
nhưng cũng chỉ chịu quả báo nhẹ trong đời hiện tại
như đem chút ít muối bỏ vào sông Hằng thì không cảm thấy
được vị mặn …
2. Kinh Hòa Phá, vì ông Thích
Hòa Phá, đệ tử Ni-kiền, nói về 6 chỗ thiện trú như vô
minh hết thì không còn tái sanh, cho đến mắt thấy sắc mà
không mừng, không lo …
3. Kinh Độ, phá ba luận nghị của ngoại đạo như túc
mạng …, nhân đó nói về 6 xứ : mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý và pháp 6 giới : địa, thủy, hỏa, phong, không,
thức.
4. Kinh La Vân, răn dạy La-hầu-la
chớ vọng ngữ.
5. Kinh Tư nói về quả báo khác
nhau của việc cố ý và không cố ý làm 10 nghiệp thiện.
6. Kinh Già-lam, răn cấm 10 nghiệp
bất thiện, khuyên tu 4 vô lượng, được 4 trú xứ an ổn.
7. Kinh Già-di-ni nói quả báo của
10 ác, 10 thiện như đá, như dầu, chìm nổi khác nhau.
8. Kinh Sư Tử nói về các điều
nên làm và không nên làm.
9. Kinh Ni-kiền nói về 5 điều
đáng ghê tởm của Ni-kiền Tử và 5 điều được xưng tán
mà Như Lai đã đạt.
10. Kinh Ba-la-lao, nói Phật biết
huyễn thuật ấy, nhưng chính Phật không phải là nhà huyễn
thuật và nói 4 vô lượng cùng pháp viễn ly quyết định
đoạn trừ được nghi hoặc.
III. Phẩm Xá-lê Tử Tương Ưng:
gồm 11 kinh, chủ yếu do ngài Xá-lê Tử nói, hoặc các việc
có liên quan đến Ngài.
1. Kinh Đẳng Tâm nói về chư
thiên Đẳng Tâm thuật lại với Phật việc ngài Xá-lê Tử
nói người có nội kết, bậc A-na-hàm không còn trở lại
thế gian này; người có ngoại kết không phải là bậc
A-na-hàm, sẽ còn trở lại thế gian này.
2. Kinh Thành Tựu Giới, ngài
Xá-lê Tử nói người thành tựu giới, định, huệ sanh lên
trời Ý Sanh mà ra vào định Tưởng tri diệt.
3. Kinh Trí, ngài Xá-lê Tử nói
với Phật về các nghĩa đắc trí huệ sanh tử đã hết,
phạm hạnh đã lập, điều cần phải làm thì đã làm
xong, không còn thọ thân đời sau.
4. Kinh Sư Tử Hống, ngài Xá-lê
Tử nói nếu người có quán niệm thân trên thân thì
không khinh mạn một vị phạm hạnh; nếu người nào
không có quán niệm thân trên thân thì người ấy mới
khinh mạn một vị phạm hạnh.
5. Kinh Thủy Dụ nói về 5 thứ
không tịnh hạnh, người có trí thấy mà sanh phiền giận,
thì phải nên trừ bỏ.
6. Kinh Cù-ni-sư, ngài Xá-lê Tử,
nhân Cù-ni-sư mà bảo các thầy Tỳ-kheo hãy học kính trọng
và tùy thuận …
7. Kinh Phạm Chí Đà-nhiên, ngài
Xá-lê Tử giáo hóa Phạm chí Đà-nhiên tu 4 Phạm thất (4
vô lượng tâm) để sanh lên cõi Phạm thiên.
8. Kinh Giáo Hóa Bệnh nói có 10
thứ thượng tín ... đắc pháp Tu-đà-hoàn. Điều này có
thể trị được bệnh.
9. Kinh Đại Câu-hy-la, ngài
Xá-lê Tử hỏi tôn giả Đại Câu-hy-la, nhân vì biết bất
thiện, biết bất thiện căn … mà được chánh kiến nhập
vào chánh pháp.
10. Kinh Tượng Tích Dụ nói
pháp 4 đế bao gồm các pháp thiện, hơn hết trong tất cả
pháp.
11. Kinh Phân Biệt Thánh Đế nói chư Phật quá khứ, hiện
tại, vị lai đều dạy về pháp 4 thánh đế.
IV. Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp:
gồm 10 kinh :
1. Kinh Vị Tằng Hữu Pháp nói về
pháp vị tằng hữu Phật Thích-ca phát nguyện tu phạm hạnh
và hành Phật đạo ở trước đức Phật Ca-diếp thời quá
khứ.
2. Kinh Thị Giả, nói về pháp vị
tằng hữu ngài A-nan lập 3 điều nguyện làm thị giả Phật.
3. Kinh Bạt-câu-la nói về hạnh
tri túc vị tằng hữu của ngài Bạt-câu-la.
4. Kinh A-tu-la dùng biển cả để
dụ cho 8 pháp vị tằng hữu trong chánh pháp luật của Phật.
5. Kinh Địa Động nói về 3
nguyên nhân gây động đất và Như Lai thành tựu công đức
đắc pháp vị tằng hữu.
6. Kinh Chiêm-ba cũng dùng biển cả
dụ cho pháp vị tằng hữu trong chánh pháp luật của Phật.
7. và 8. Kinh Úc-già Trưởng Giả
nói về Úc-già trưởng giả có 8 pháp vị tằng hữu.
9.và 10. Kinh Thủ Trưởng Giả nói
Thủ trưởng giả có 8 pháp vị tằng hữu.
V. Phẩm Tập Tương Ưng: gồm
16 kinh :
1. Kinh Hà Nghĩa nói trì giới
khiến cho người ta không hối hận, dần dần được giải
thoát tham, sân, si.
2. Kinh Bất Tư nói pháp tự nó
vốn như vậy, không nên nghĩ ngợi.
3. đến 9. Kinh Niệm, Kinh Tàm
Quý, Kinh Giới, Kinh Cung Kính nói có chánh niệm, chánh
trí, tàm quý, trì giới, thực hành cung kính thì có thể
gìn giữ các căn, các giới, cho đến giải thoát mà đắc
niết-bàn.
10. Kinh Bản Tế nói người ác
do gần gũi ác tri thức dần dần đi đến vô minh sanh ái;
người lành do gần gũi thiện tri thức dần dần tiến đến
7 giác chi sanh trí huệ giải thoát.
11. và 12. Kinh Thực nói người
ác làm thức ăn của ác tri thức, ý đồng với Kinh Bản
Tế, và lấy biển cả làm thí dụ.
13. Kinh Tận Trí nói phụng sự
thiện tri thức là cái nhân để được nghe pháp lành, dần
dần tiến đến giải thoát đắc lậu tận.
14. Kinh Niết-bàn nói vô minh là
nhân khổ cho đến nói giải thoát là nhân niết-bàn, cho
nên nhờ quán 12 nhân duyên mà đắc niết-bàn.
15. và 16. Kinh Di-hê, nói với
các thầy Tỳ-kheo về 5 nhân gần gũi bậc thiện tri thức
và tu 4 pháp như bất tịnh quán ... để cho tâm giải
thoát thuần thục.
VI-a. Phẩm Vương Tương Ưng:
gồm 14 kinh (phẩm Thượng gồm 7 kinh) :
1. Kinh Thất Bảo nói Chuyển
luân vương ra đời thì có 7 báu xuất hiện ở thế gian,
còn đức Như Lai thì có của báu 7 giác chi.
2. Kinh Tam Thập Nhị Tướng nói
Chuyển luân vương có đủ 32 tướng đại nhân.
3. Kinh Tứ Châu nói bản sanh Phật
làm vua Đảnh Sanh thống trị 4 châu mà vẫn không biết đủ.
4. Kinh Ngưu Phẩn Dụ nói về 3 thứ nghiệp báo bố thí
của vua Đảnh Sanh, nhưng 5 uẩn vô thường…
5. Kinh Tần-bệ-ta-la Vương
Nghinh Phật, Phật vì vua Tần-bệ-ta-la nói các pháp 5 uẩn
vô thường…, nhà vua chứng quả, quy y.
6. Kinh Bệ-bà-lăng-kỳ, Phật
Ca-diếp vì vua Hiệp-bệ nói về hạnh của người thợ gốm
Nan-đề-bà-la.
7. Kinh Thiên Sứ nói Diêm vương
trị tội kẻ tạo nghiệp ác với sự cật vấn quở
trách của 5 thiên sứ.
B. Ngày thứ hai tụng 4 phẩm rưỡi,
gồm có 52 kinh.
VI-b. Phẩm Vương Tương Ưng
(phẩm Hạ gồm 7 kinh) :
1. Kinh Ô Điểu Dụ răn dạy các
thầy Tỳ-kheo đừng có dựa vào phi pháp mà sinh sống như
con rái cá.
2. Kinh Thuyết Bản nói về bản
sự của ngài A-na-luật-đà do cúng dường thức ăn cho vị
Bích-chi Phật mà 7 lần được sanh lên trời, và còn nói
về việc của vua Chuyển luân tên Loa ở đời vị lai và
việc của Phật Di-lặc.
3. Kinh Đại Thiên Nại Lâm nói
về việc con cháu của Chuyển luân vương Đại Thiên đời
đời nối nhau xuất gia.
4. Kinh Đại Thiện Kiến nói về việc ngày xưa vua Đại
Thiện Kiến tu 4 vô lượng (từ, bi, hỷ, xả), 6 lần xả
thân …
5. Kinh Tam Thập Dụ, Phật vì
ngài Xá-lê Tử mà dùng sự trang sức của nhà vua và đại
thần để dụ cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni dùng giới đức để
làm đồ trang sức.
6. Kinh Chuyển Luân Vương nói
Chuyển luân vương Kiên Niệm thành tựu 7 báu đắc 4 đức
như ý, cho đến Tỳ-kheo phải như Chuyển luân vương Loa lấy
4 niệm xứ làm cảnh giới …
7. Kinh Bệ-tứ nói ngài Cưu-ma-la
Ca-diếp phá kiến chấp không có đời sau của vua Bệ-tứ.
VII. Phẩm Trường Thọ Vương:
gồm 15 kinh :
1. Kinh Trường Thọ Vương Bản
Khởi nói về việc vua Trường Thọ và thái tử Trường
Sanh tu hạnh từ mẫn không cho giết người …
2. Kinh Thiên nói tu 8 hạnh được
quang minh sanh lên trời.
3. Kinh Bát Niệm, ngài A-na-luật-đà
nói đắc 8 suy niệm của bậc đại nhân.
4. đến 7. Kinh Tịnh Bất Động
Đạo, Kinh Úc-già-chi-la, Kinh Ta-kê-đế Tam Tộc Tánh Tử,
Kinh Phạm Thiên Thỉnh Phật, Phật vì A-na-luật-đà… nói
pháp ly dục…
8. Kinh Hữu Thắng Thiên, A-na-luật-đà
nói về nghĩa của đại tâm vô lượng tâm cho đến nhân
quả của Quang Thiên, Tịnh Quang, Biến Tịnh Quang Thiên.
9. đến 15. Kinh Ca-hy-na, Kinh Niệm
Thân, Kinh Chi-li-di-lê, Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thùy
Miên, Kinh Vô Thích, Kinh Chân Nhân, Kinh Thuyết Xứ, ngài
A-na-luật-đà nói về pháp Ca-hy-na…
VIII. Phẩm Uế:
gồm 10 kinh :
1. Kinh Uế Phẩm, ngài Xá-lê Tử
nói người đời có pháp ô uế và pháp không có ô uế.
2. Kinh Cầu Pháp nói về 3 pháp
đáng chê và 3 pháp đáng khen, lại nói Trung đạo đoạn dục
tham … làm cho tâm được an trú cho đến niết-bàn.
3. Kinh Tỳ-kheo Thỉnh, ngài Mục-kiền-liên
nói về sự đắc thất khác nhau của người nói lời
ngang ngược và người nói lời hiền lành.
4. và 5. Kinh Tri Pháp, Kinh
Châu-na Vấn Kiến, ngài Châu-na nói các thí dụ về người
biết pháp và người không biết pháp.
6. Kinh Thanh Bạch Liên Hoa Dụ
nói về pháp do thân miệng diệt trừ cho đến pháp do huệ
kiến mà diệt trừ.
7. Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí nói
21 thứ ô uế nơi tâm.
8. đến 10. Kinh Hắc Tỳ-kheo, Kinh Trụ Pháp, Kinh Vô,
nói về các pháp thiện, bất thiện cho đến pháp tịnh thạnh
suy …
IX. Phẩm Nhân:
gồm 10 kinh :
1. Kinh Đại Nhân nói rộng về pháp duyên khởi sâu xa
cho đến pháp 8 giải thoát.
2. Kinh Niệm Xứ nói về 4 niệm
xứ.
3. và 4. Kinh Khổ Ấm phân biệt
các pháp dục nhiễm và tội lỗi của nó.
5. Kinh Tăng Thượng Tâm nói thường
quán niệm 5 tướng thì được tăng thượng tâm.
6. Kinh Niệm nói về niệm dục,
khuể, hại và niệm vô dục, khuể, hại.
7. Kinh Sư Tử Hống nói vô minh
là gốc của các thọ, vô minh hết thì tất cả thọ diệt.
8. Kinh Ưu-đàm-bà-la nói khổ hạnh
không thể gọi là pháp chánh giải thoát.
9. Kinh Nguyện nói rộng về các
việc mà Tỳ-kheo nên mong cầu.
10. Kinh Tưởng nói chấp 4 đại (địa, thủy, hỏa,
phong) thì không biết 4 đại, không chấp 4 đại thì biết
4 đại.
X. Phẩm Lâm:
gồm 10 kinh :
1. và 2. Kinh Lâm : Kinh thứ nhất
lấy việc Tỳ-kheo trụ ở rừng có thể hay không thể đắc
chánh niệm, định tâm, giải thoát, lậu tận, niết-bàn
phối hợp với việc mưu cầu áo chăn, thức uống ăn khó
dễ thành 4 cặp so sánh, để chọn lấy chỗ thuận tiện
cho việc có thể đắc chánh niệm cho đến niết-bàn, xin
được áo chăn, thức uống ăn dễ dàng làm chỗ ở suốt
đời để tu tập. Kinh thứ hai cũng dùng 4 cặp so sánh giống
như kinh thứ nhất là nơi nào tìm cầu dễ dàng các vật
dụng cần thiết trợ giúp phương tiện cho Sa-môn đạt
được cứu cánh giải thoát thì Tỳ-kheo phải trụ ở đó
suốt đời để tu tập.
3. và 4. Kinh Tự Quán Tâm nói người
đắc Chỉ Quán nên cầu lậu tận.
5. Kinh Đạt Phạm Hạnh nói biết
nguyên nhân của lậu thì mới có thể dứt hết các khổ.
6. Kinh A-nô-ba nói Đề-bà-đạt-đa
vì buông lung cho nên bị đọa địa ngục.
7. Kinh Chư Pháp Bổn nói các
pháp lấy dục làm gốc.
8. và 9. Kinh Ưu-đà-la, Kinh Mật
Hoàn Dụ nói 3 thọ là cội gốc của ung nhọt, 6 xúc xứ
là tất cả lậu.
10. Kinh Cù-đàm-di, Phật chấp
thuận cho bà Đại Ái Đạo xuất gia, nhân đó chế Bát kỉnh
pháp.
C. Ngày thứ ba tụng một phẩm rưỡi
gồm có 35 kinh.
XI. Phẩm Đại: gồm
25 kinh :
1. Kinh Nhu Nhuyến nói Phật vì
già, bệnh, chết mà xuất gia.
2. Kinh Long Tượng nói Phật là
bậc long tượng.
3. Kinh Thuyết Xứ nói về 3 thuyết
xứ quá khứ, hiện tại, vị lai.
4. Kinh Vô Thường nói quán 5 ấm
vô thường thì được chứng quả.
5. Kinh Thỉnh Thỉnh nói Phật thọ
thân đời này là thân sau rốt.
6. Kinh Chiêm-ba, quở trách tội
phạm giới.
7. Kinh Sa-môn Nhị Thập Ức lấy
đàn cầm dụ cho tinh tấn chứng quả.
8. Kinh Bát Nạn nói 8 nạn, 8 phi
thời của người học đạo.
9. Kinh Bần Cùng lấy không có của
cải thiện pháp dụ cho nghèo nàn.
10. Kinh Hành Dục nói về 10 loại
người hành dục.
11. Kinh Phước Điền nói về
hai hạng người phước điền hữu học và vô học.
12. Kinh Ưu-bà-tắc nói Ưu-bà-tắc
giữ 5 giới, niệm Tam bảo thì có thể chứng quả.
13. Kinh Oán Gia nói giận hờn
là oán gia làm mất đi vẻ đẹp của người.
14. và 15. Kinh Giáo Đàm-di, Kinh
Hàng Ma, do tin 4 việc đức Như Lai nói cho nên xuất gia.
16. Kinh Lại-tra-hòa-la nói trong
3 nghiệp thì ý nghiệp là quan trọng hơn hết.
17. Kinh Ưu-ba-ly nói việc ngài
Ưu-ba-ly bỏ Ni-kiền Tử, theo Phật.
18. Kinh Thích Vấn nói 8 chánh đạo phòng hộ 6 căn.
19. Kinh Thiện Sanh, Phật dạy
Thiện Sanh pháp lễ bái 6 phương.
20. Kinh Thương Nhân Cầu Tài
nói người chấp căn, trần, ấm, giới là Ngã thì bị kiến
chấp ấy làm hại.
21. Kinh Thế Gian, những điều
Phật nói từ lúc thành đạo đến nhập niết-bàn đều là
sự thật.
22. Kinh Phước nói về phước báo của Phật do đã tu hạnh
từ mẫn 7 năm trong thời quá khứ.
23. Kinh Tức Chỉ Đạo nói Tỳ-kheo mới tu học phải thường
quán niệm bất tịnh để trừ tham dục.
24. Kinh Chí Biên nói muốn hết
khổ thì phải tu pháp Sa-môn.
25. Kinh Dụ nói vô lượng pháp
lành đều lấy không buông lung làm gốc, dụ như đất …
XII-a. Phẩm Phạm Chí:
gồm 20 kinh (phẩm Thượng có 10 kinh) :
1. Kinh Vũ Thế nói về 7 pháp
không suy và 6 pháp ủy lạo của Tỳ-kheo.
2. Kinh Thương-ca-la, Phật vì
Ma-nạp Thương-ca-la mà nói 3 pháp như ý túc thị hiện,
chiêm niệm thị hiện và giáo huấn thị hiện khiến cho
ông ấy quy y.
3. Kinh Toán Số Mục-kiền-liên,
Phật vì Phạm chí Toán Số Mục-kiền-liên mà nói về
trình tự tiến tu Phật pháp.
4. Kinh Cù-mặc Mục-kiền-liên,
ngài A-nan vì Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên mà nói
không có một thầy Tỳ-kheo nào bằng với đức Thế Tôn.
5. Kinh Tượng Tích Dụ, Phật
vì Phạm chí Sanh Văn mà nói từ xuất gia, gìn giữ các căn
đến chứng quả vô lậu mới là dấu chân của con voi cực
lớn.
6. Kinh Văn Đức, Phật vì Phạm
chí Sanh Văn mà nói về công đức sai biệt của bác văn tụng
tập, từ xuất gia đến chứng tịch diệt niết-bàn.
7. và 8. Kinh Hà Khổ, Kinh Hà Dục,
đức Phật trả lời câu hỏi của Phạm chí Sanh Văn về
việc khổ vui của người tại gia.
9. và 10. Kinh Uất-sấu-ca-la,
Kinh A-nhiếp-hòa nói về sự bình đẳng của 4 giai cấp.
D. Ngày thứ tư tụng 3 phẩm gồm
có 36 kinh.
XII-b. Phẩm Phạm Chí
(phẩm Hạ có 10 kinh) :
1. Kinh Anh Võ, vì Phạm chí Anh
Võ mà phân biệt việc tại gia, xuất gia, còn nói về 5
món ngăn che và pháp từ tâm khởi.
2. Kinh Man-nhàn-đề, vì kẻ dị
đạo tên Man-nhàn-đề mà nói về pháp ly dục.
3. Kinh Bà-la-bà-đường, đức
Phật vì 2 vị Phạm chí Bà-tư-tra và Bà-la-bà nói về lai
lịch và nghiệp báo của 4 giai cấp bình đẳng.
4. Kinh Tu-đạt-đa, Phật vì cư
sĩ Tu-đạt-đa mà nói về sự sai biệt của tâm bố thí.
5. Kinh Phạm Ba-la-diên nói ngày
nay Phạm chí đã vượt pháp Phạm chí.
6. Kinh Hoàng Lô Viên nói không
đắm, không sợ 5 dục, chứng 4 thiền, 3 minh mới không nhập
thai.
7. Kinh Đầu-na, Phật vì Phạm
chí Đầu-na mà nói về 5 pháp Phạm chí.
8. Kinh A-già-la-ha-na, Phật đáp
câu hỏi của Phạm chí A-già-la-ha-na về kinh điển dựa vào
con người để tồn tại, lần lượt cho đến dựa vào niết-bàn.
9. Kinh A-lan-na, Phật vì Phạm
chí A-lan-na xuất gia mà nói pháp vô thường lợi ích vô lượng.
10. Kinh Phạm-ma nói Phạm chí Phạm-ma
và Ma-nạp Ưu-đa-la thấy Phật tướng hảo mà phát tâm xuất
gia.
XIII. Phẩm Căn Bản Phân Biệt:
gồm 10 kinh :
1. và 2. Kinh Phân Biệt Lục Giới,
Kinh Phân Biệt Lục Xứ phân biệt các pháp 6 giới tụ, 6
xúc xứ, 18 ý hành…
3. Kinh Phân Biệt Quán Pháp,
phân biệt quán pháp, tâm tán loạn hay không tán loạn.
4. và 5. Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên
và Kinh Thích Trung Thiền Thất Tôn nói Phật không nghĩ quá
khứ vị lai thường nói kệ Bạt-địa-la-đế, ngài
Ca-chiên-diên dùng căn trần để giảng rộng.
6. Kinh A-nan Thuyết, ngài A-nan
nói kệ Bạt-địa-la-đế và ý nghĩa của kệ này, được
Phật ấn khả.
7. Kinh Ý Hành nói 8 định, 8 thiên
xứ đều lấy diệt định làm hơn hết.
8. Kinh Câu-lâu-sấu Vô Tránh,
phân biệt pháp tranh cãi và không tranh cãi.
9. Kinh Anh Võ phân biệt pháp
nghiệp báo sai biệt.
10. Kinh Phân Biệt Đại Nghiệp phân biệt sự sai biệt
của lúc thọ 3 thứ nghiệp báo.
XIV. Phẩm Tâm:
gồm 10 kinh :
1. Kinh Tâm nói tâm dẫn thế gian đi, tâm đắm nhiễm, tâm
khởi tự tại …
2. Kinh Phù-di nói về phạm hạnh
tà chánh đắc quả hay không.
3. và 4. Kinh Thọ Pháp nói về
hiện tại khổ về sau vui, hiện tại vui về sau khổ, hiện
tại khổ về sau khổ, hiện tại vui về sau vui.
5. Kinh Hành Thiền, phân biệt 4
loại hành thiền thạnh suy …
6. Kinh Thuyết nói về nghĩa thoái
trụ trong 8 định và lậu tận.
7. Kinh Lạp Sư, tu 4 thiền có thể
thoát ma cảnh.
8. Kinh Ngũ Chi Vật Chủ nói Đệ nhất nghĩa sa-môn đủ
8 chánh đạo phải biết thiện giới, bất thiện giới …
9. Kinh Cù-đàm-di nói về bố
thí và thọ nhận thanh tịnh và không thanh tịnh.
10. Kinh Đa Giới nói biết giới,
xứ duyên khởi là trí huệ, lại nói 18 giới và 62 giới.
XV-a. Phẩm Song:
gồm 10 kinh (phẩm Thượng có 6 kinh) :
1. và 2. Kinh Mã Ấp nói pháp
Sa-môn cần phải 3 nghiệp thanh tịnh thành tựu thiền định
cho đến lậu tận.
3. Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, thượng,
người thích như ý đạo là Đại Mục-kiền-liên, người
thích hạnh Đầu-đà là Đại Ca-diếp, người luận nghị
là Ca-chiên-diên, người thành tựu thiên nhãn là A-na-luật-đà,
người tu thiền là Ly-việt-đa, người đa văn là A-nan
theo sự hiểu biết của mình mà đáp lại lời hỏi của
ngài Xá-lê Tử về sở đắc tu hành.
4. Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, hạ,
ngài A-na-luật... nói tu 4 thiền, 4 vô lượng là pháp thượng
nhân.
5. Kinh Cầu Giải nói do thấy sắc
nghe tiếng mà hiểu được, biết được pháp Như Lai.
6. Kinh Thuyết Trí, hỏi đáp với
Tỳ-kheo phạm hạnh đã lập về tri kiến 5 ấm, 4 thực, 4
thuyết...
E. Ngày thứ năm tụng 3 phẩm rưỡi,
gồm 35 kinh.
XV-b. Phẩm Song
(phẩm Hạ có 4 kinh):
1. Kinh A-di-na nói về tri kiến của
chúng đúng pháp và chúng phi pháp.
2. Kinh Thánh Đạo nói 8 thánh đạo
và 10 chi chánh giải thoát, chánh trí …. theo sự tu đoạn
đúng sai mà thành 40 pháp thiện và bất thiện.
3. Kinh Tiểu Không nói hành chân
thật Không thì không điên đảo, không khởi tưởng về
người, về thôn xóm, về vô sự cho đến không trụ vào
định Vô tưởng.
4. Kinh Đại Không, người muốn hành Không phải tu pháp
nội không, ngoại không, nội ngoại không, pháp bất động.
XVI. Phẩm Hậu Đại
gồm 10 kinh :
1. Kinh Ca-lâu-ô-đà-di ngợi khen người bỏ việc ăn quá
ngọ.
2. Kinh Mâu-lê-phá-quần-na nói
người xuất gia phải tu tập vô dục, từ, bi, hỷ, xả
…
3. Kinh Bạt-đà-hòa-lợi khen ngơi
pháp nhất tọa thực.
4. Kinh A-thấp-bối quở trách việc
ăn quá ngọ.
5. đến 7. Kinh Châu-na, Kinh
Ưu-ba-ly, Kinh Điều Ngự Địa nói về tu hành bất phóng dật,
6 tịnh bản, 7 diệt pháp, 7 diệt tịnh, như pháp, bất như
pháp …
8. Kinh Si Huệ Địa nói về các
tướng quả báo khổ vui của ngu si và trí huệ.
9. Kinh A-lê-tra nói pháp dục
làm chướng đạo.
10. Kinh Trà-đế nói về 12
duyên khởi.
XVII. Phẩm Bô-lợi-đa
gồm 10 kinh :
1. Kinh Trì Trai nói nên trì bát
quan trai và tu 5 niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm Thí, niệm Thiên.
2. Kinh Bô-lợi-đa, Phật vì cư
sĩ Bô-lợi-đa mà nói về 8 chi là lìa sát sanh…, cắt đứt
các việc thế tục.
3. Kinh La-ma nói cầu pháp niết-bàn
an ổn không bệnh là thánh cầu, cầu pháp bệnh là chẳng
phải Thánh cầu.
4. Kinh Ngũ Hạ Phần Kiết nói nương
vào đạo để đoạn trừ 5 phần kiết sử bậc hạ.
5. Kinh Tâm Uế dẹp mối nghi về
ô uế trong 5 thứ tâm, cởi mở sự trói buộc trong 5 thứ
tâm, đấy là pháp thanh tịnh của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.
6. Kinh Tiễn Mao, Phật vì kẻ dị
học tên Tiễn Mao mà nói Phật dùng 5 pháp là vô thượng
giới… khiến cho đệ tử cung kính, không rời.
7. Kinh Tiễn Mao, Phật vì kẻ dị
học tên Tiễn Mao mà nói về thiên nhãn túc mạng thông.
8. Kinh Bệ-ma-na-tu nói người không dua dối theo sự
giáo hóa của Phật ắt đắc chánh pháp.
9. Kinh Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni
Pháp Lạc đáp lời hỏi pháp của Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư.
10. Kinh Đại Câu-hy-la, ngài
Câu-hy-la đáp lời hỏi pháp của ngài Xá-lợi-phất.
XVIII. Phẩm Lệ
gồm 11 kinh :
1. Kinh Nhất Thiết Trí, Phật
vì vua Ba-tư-nặc mà nói về 4 giai cấp thành tựu 5 đoạn
chi, ở đời sau có sai biệt.
2. Kinh Pháp Trang Nghiêm, vua Ba-tư-nặc
ngợi khen các pháp Phật thanh tịnh.
3. Kinh Bệ-ha-đề, Phật nói
pháp thiện, các đệ tử hướng thiện, Phật hành thiện
không bị Sa-môn Phạm chí thông minh trí huệ và người đời
ghen ghét.
4. Kinh Đệ Nhất Đắc, nói đệ
tử không muốn pháp đổi khác, chỉ nên truyền bá rộng
rãi 8 chánh đạo.
5. Kinh Ái Sanh nói lúc sanh ái
thì sanh ra buồn khổ.
6. Kinh Bát Thành, ngài A-nan vì cư
sĩ Bát Thành mà nói 12 thiền.
7. Kinh A-na-luật-đà nói Tỳ-kheo
đắc 4 thiền và lậu tận chết được an lành.
8. Kinh A-na-luật-đà, ngài
A-na-luật-đà nói Tỳ-kheo tri kiến chất trực, tu niệm xứ,
4 vô lượng chết không bị phiền nhiệt.
9. và 10. Kinh Kiến, Kinh Tiễn Dụ,
Phật luôn luôn nói hữu thường, vô thường, nhưng không
phải bao giờ cũng nói thế gian hữu thường.
11. Kinh Lệ nói muốn đoạn trừ
vô minh cho đến già chết, thấu rõ vô minh cho đến già
chết thì phải tu 37 bồ-đề phần, 10 nhất thiết xứ, 10
pháp vô học.
* * *
Các kinh A-hàm được các bộ
phái trong Thanh văn thừa truyền đều có sai khác. Kinh Trung
A-hàm bản dịch đời Phù Tần được truyền từ bộ phái
nào, từ trước đến nay chưa có ý kiến nhất trí. Nhưng bản
dịch đầu tiên của kinh này cùng với Kinh Tăng Nhất A-hàm
cùng một người dịch là Đàm-ma-nan-đề, còn bản dịch hiện
nay do Tăng-già-la-xoa đọc bản Phạn, Tăng-già-đề-bà chuyển
dịch Phạn Hán, hai vị này đều là người ở nước Kế Tân,
căn cứ địa của Hữu Bộ. Ngoài ra, Tăng-già-đề-bà còn
có dịch Luận A-tỳ-đàm Bát Kiền-độ (tức Luận Phát
Trí), ngài Tăng-già-la-xoa dịch tiếp thành ra bộ mà sau này
ngài La-thập dịch lại mang tên Luật Thập Tụng, đều là
những tác phẩm trọng yếu của Hữu Bộ. Kết cấu của
kinh này và bản dịch Tây Tạng Trung A-hàm Hữu Bộ mà ngài
Chỉ Thiên dẫn dụng trong Câu-xá Luận Sớ Yếu Dụng Luận
cực kỳ tương tự. Xét từ các phương diện kể trên, kinh
này có thể là truyền bản của Hữu Bộ.
Toàn bộ bản Phạn của kinh này
dường như đã tán thất, những năm trước đây ở vùng
Tân Cương phát hiện được bản Phạn 3 kinh lẻ tương
đương với Kinh Thỉnh Thỉnh (kinh 121), Kinh Ưu-ba-ly (kinh
133), Kinh Anh Võ (kinh 170) của bộ Kinh Trung A-hàm này.
Trước và sau khi kinh này được
dịch trọn bộ, thì bản dịch riêng lẻ rất nhiều, hiện
còn 73 kinh. Trong đại bộ kinh của Tây Tạng thì kinh lẻ tương
đương với kinh này chỉ có 5 kinh. Đối chiếu bản kinh này
với Kinh Trung Bộ tiếng Pàli của Nam truyền, trong 222 kinh
chỉ có 96 kinh tương đồng. Bởi kinh này thu tập các kinh
dài ngắn không hoàn toàn trung bình, vì thế tại bản Pàli
Nam truyền cũng có hơn 90 kinh được thu tập vào các bộ
khác. Các kinh trong kinh này thấy trong Trường Bộ có 9 kinh,
trong Tăng Chi Bộ có 76 kinh, trong Tương Ưng Bộ có 76 kinh.
-ooOoo- |