I. Giới Thiệu Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata),
kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society. Cũng như Kinh Chơn Hạnh Phúc
(Mahamangala Sutta), kinh nầy do một thiên nhân hỏi nguyên nhân dẫn đến bại
vong. Nội dung gồm 12 cửa bại vong. Từ điều thứ nhất đến điều
thứ mười hai, không có gì khó hiểu. Ví dụ điều thứ nhất: "Thích
chánh pháp thành công, ghét chánh pháp bại vong" có nghĩa là ưa
thích đạo lý gồm qui luật thiên nhiên và lối sống cao đẹp thì có
thể thành tựu sự nghiệp; trái lại chê ghét đạo lý thì thất bại
thua thiệt; hoặc điều mười hai: nếu sanh trong gia đình vua chúa hay
gia đình có quyền thế mà tham vọng quá lớn, không biết tài
sản địa vị của mình đang có, luôn luôn vơ vét, bốc lột tiền của, của
người khác và tranh dành quyền thế để thống trị kẻ dưới thì
nhất định sẽ đi đến chỗ tiêu diệt.
Ðọc qua mười hai cửa bại vong, chúng ta thấy rõ
đạo Phật với những lời dạy do chính Phật Tổ thuyết giảng không phải là
một "triết lý phù phiếm" mà là một đạo lý cao siêu
song thực tiển giúp con người sống đẹp, sống cao và sống rộng. Có
thể nói đạo Phật là những liều thuốc cứu người khỏi bịnh hoạn và
có được sức khỏe để sống vui.
Ðọc kinh Phật, chúng ta thấy có rất nhiều bài
kinh sâu xa do Phật giảng cho các vị xuất gia tu hành như các thầy Tỳ kheo,
các vị A-la-hán những cũng không ít bài kinh thực tiển do Phật giảng cho
các Phật tử tại gia, những người tôn kính ba ngôi báu song vẫn sống với gia
đình và trong xã hội.
Nội dung của những bài kinh ấy nhiều khi có vẽ trái
ngược nhau. Ví dụ trong Kinh Chơn Hạnh Phúc Phật dạy người Phật tử tại gia
thương mến vợ con, trong khi trong kinh Pháp cú, kệ 345, Phật dạy các
thầy Tỳ kheo xem vợ con là giây trói buộc còn chắt hơn giây sắt. Nhưng sự
thật thì không có gì mâu thuẩn nếu xem những bài kinh ấy là những
liều thuốc trị bịnh mà không phải là những chủ thuyết và nhất là
không phải là những tín điều (dogma).
Vì thế, người giảng kinh phải biết rõ nội dung
kinh và căn cơ người nghe kinh, và người nghe kinh, đọc kinh cũng phải
biết rõ kinh nào thích hợp với khả năng tu hành và hoàn cảnh sinh sống
của mình. Nếu không, thì thuyết pháp chẳng khế cơ và nghe pháp
không lợi ích. Và trong thực tế, sâm nhung dù quí bổ cũng có thể làm
chết người được.
Ðức Phật quả là đấng trí tuệ và từ bi vì Phật
không những chỉ đường cho chúng ta đi đến chơn trời hạnh phúc mà còn
dặn chúng ta tránh những lối rẻ dẫn đến bại vọng.
II. Chánh Kinh
Kinh Bại Vong (Paràbhava) (Sn 18)
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana,
khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn,
với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng
một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:
Thiên nhân:
91. Về bại vong con người,
Con hỏi Gotama,
Con đến hỏi Thế Tôn,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
92. Thật dễ hiểu thành công,
Thật dễ hiểu bại vong,
Ưa mến pháp, thành công,
Thù ghét pháp bại vong.
Thiên nhân:
93. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ nhất về bại vong,
Thứ hai, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
94. Ai mến kẻ bất thiện,
Không ái luyến bậc thiện,
Thích pháp kẻ bất thiện,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
95. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ hai về bại vong,
Thứ ba, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
96. Người tánh ưa thích ngủ,
Thích hội chúng, thụ động,
Biếng nhác, thường phẫn nộ,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
97. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ ba về bại vong.
Thứ tư, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
98. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ hết,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
99. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tư về bại vong.
Thứ năm, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
100. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các khất sĩ khác,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
101. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ năm về bại vong.
Thứ sáu, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
102. Người giàu có tài sản,
Có vàng bạc thực vật,
Hương vị ngọt một mình,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
103. Như vậy, chúng con rõ
Thứ sáu về bại vong.
Thứ bảy, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
104. Người tự hào về sanh,
Về tài sản dòng họ,
Khinh miệt các bà con,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
105. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ bảy về bại vong,
Thứ tám, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
106. Người đắm say nữ nhân,
Ðắm say rượu, cờ bạc,
Hoang phí mọi lợi đắc,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
107. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tám về bại vong.
Thứ chín, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
108. Không vừa đủ vợ mình,
Ðược thấy giữa dâm nữ,
Ðược thấy với vợ người,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
109. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ chín về bại vong.
Thứ mười, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
110. Người tuổi trẻ đã qua,
Cưới cô vợ vú tròn,
Ghen nàng không ngủ được,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
111. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ mười về bại vong.
Thứ mười một, xin nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
112. Ðàn bà, hay đàn ông,
Rượu chè, tiêu hoang phí,
Ðược địa vị quyền thế,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
113. Như vậy, chúng con biết,
Thứ mười một bại vong.
Thứ mười hai, xin nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
114. Tài sản ít, ái lớn,
Sanh gia đình hoàng tộc,
Ở đây muốn trị vì,
Chính cửa vào bại vong.
115. Bại vong này ở đời,
Bậc trí khéo quán sát,
Ðầy đủ với chánh kiến,
Sống hạnh phúc ở đời.
-oOo- |