Chương
III
Thiền
Chỉ - Thiền Quán
Bốn Mươi Ðối Tượng Thiền Quán
Có
hai hình thức thực hiện Thiền định của Phật giáo gọi
là Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana). Các hành
giả thường có chủ trương hành ròng Thiền quán, có người
chủ trương hành ròng Thiền chỉ, có người chủ trương hành
Chỉ Quán song tu, có người đặt nặng Thiền chỉ, có người
lại đặt nặng Thiền quán. Các chủ trương ấy đều đúng
cả, nhưng chỉ thích ứng với một số căn cơ nào đó, mà
không phải thích ứng với mọi căn cơ. Hình thức thực
hiện Thiền định thiện xảo nhất là hành Chỉ Quán Song
Tu (tu tập xen kẻ Chỉ và Quán). Cứ xét kỹ 37 phẩm trợ
đạo ta sẽ thấy rõ điều đó.
Trong Tứ Niệm Xứ, mỗi đối tượng
thân, thọ, tâm và pháp đều có hai phần thực hiện: chỉ
và quán. Phần quan sát, theo dõi các đối tượng gọi là
Thiền chỉ, phần quán tánh sanh diệt trên mỗi đối tượng
gọi là Thiền quán.
Trong Tứ như ý túc, Tâm định là
thuộc Thiền chỉ, Tư duy định là thuộc Thiền quán.
Trong Năm căn và Năm lực, chi
phần Niệm chính là Bốn Niệm Xứ gồm đủ Thiền chỉ và
Thiền quán.
Trong Bát Thánh Ðạo, Chánh niệm
tương đương với Tứ Niệm Xứ, Chánh tư duy thì tương
đương với Thiền quán. Nói tóm, Ðạo đế hay con đường
Thiền định của Phật giáo là con đường tu tập rất quân
bình của Chỉ và Quán.
Thiền Chỉ
Nếu bạn dừng suy nghĩ và để tâm
theo dõi hơi thở vào ra, hoặc để tâm dừng trú trên một
đối tượng nhất định với chánh niệm tỉnh giác, thì đây
gọi là Thiền chỉ. Thiền chỉ là phần tu tập giữ tâm lý
ở trạng thái tĩnh có tác dụng đối trị các tâm lý dao
động, trạo cữ, đối trị với các vọng niệm thường
khởi lên những ham muốn, những ưu tư v.v... Hành Thiền
chỉ, bạn dễ đi vào thân an và tâm an, và do đó dễ đi vào
định.
Trong Bảy giác chi, Niệm giác chi
là chi phần quân bình động tĩnh; Trạch pháp giác chi, Tinh
tấn giác chi và Hỷ giác chi là thuộc phần động; Khinh an
giác chi, Ðịnh giác chi và Xả giác chi là thuộc phần tĩnh,
thuộc Thiền chỉ.
Thông thường, khi nào tâm lý hành
giả dao động, bồn chồn, hân hoan thì hành giả nên đề
khởi Thiền chỉ, tránh đề khởi Thiền quán. Bấy giờ
nếu hành Thiền quán thì tâm lý sẽ trở nên động hơn, khó
phát triển định lực.
Theo dõi hơi thở vào ra, hay theo dõi
thân nhiệt, chỉ ghi nhận mà không tư duy và không có phản
ứng tâm lý nào đối với thân hành là hành Thiền chỉ
về niệm Thân.
Theo dõi các cảm thọ trong tự thân,
cảm thọ như thế nào thì ghi nhận như thế ấy - hỷ,
lạc hay không hỷ không lạc, hoặc các cảm thọ sầu, ưu
khác... - mà không có tư duy về các cảm thọ, cũng không có
phản ứng tâm lý đối với các cảm thọ ấy, là hành
Thiền chỉ về niệm Thọ.
Theo dõi các sinh khởi của tâm lý
mình - tâm lý tham khởi, sân khởi, si khởi hay không tham, không
sân, không si khởi - và chỉ ghi nhận sự có mặt các tâm lý
ấy mà không có phản ứng tâm lý khác tiếp theo và không tư
duy, phân tích các hiện tượng tâm lý ấy là hành Thiền
chỉ về niệm Tâm.
Lắng tâm trú niệm trên một
cảnh vô thường, khổ đau hoặc diệt nào đó đã để
lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng mình, hoặc để tâm
trên các quá trình của tâm - vật lý, hay để tâm chú ý trên
hình ảnh của chiến tranh, của lá đổ v.v... mà không tư
duy phân tích các hiện tượng ấy là hành Thiền chỉ về
niệm Pháp.
Trú tâm trên hình ảnh của Thế
Tôn, trên những đức tánh và đức tướng của Thế Tôn,
hoặc trú tâm trên hình ảnh của một gương mẫu thanh
tịnh xuất thế nào đó, cũng là hành Thiền chỉ.
Ðể niệm theo dõi ảnh tượng êm
đềm của thời thơ ấu, của các cảnh trời được diễn
đạt trong kinh điển v.v... cũng là hành Thiền chỉ.
Ðể tâm lắng tỉnh và yên lặng
dừng lại ở niệm từ bỏ, ở niệm không ham muốn cảnh
đời phiền trược là hành Thiền chỉ về niệm Pháp.
Thường thì các hành giả trong
giai đoạn đầu tu tập nên hành Thiền chỉ hay nặng về
Thiền chỉ để lắng đứng các vọng đọng của thân và tâm
trước khi hành chỉ quán song tu hay đi sâu vào Thiền quán.
Ở Thiền chỉ, bạn huấn luyện niệm lực vừa định lực
để có khả năng tập trung và quan sát sắc bén, sau đó
mới có hy vọng phát triển Thiền quán.
Nếu tâm lý thích ứng với
Thiền chỉ thì bạn có thể hành Thiền chỉ liên tục cho
đến khi nào còn thấy cần thiết và còn dẫn đến kết
quả tốt. Nếu không phải là căn tánh đó, thì giai đoạn
đầu tu tập là giai đoạn trừ ngũ cái bạn cần để
khởi Thiền chỉ hay Thiền quán thích ứng với việc đối
trị từng chi phần của ngũ cái và thích ứng với tâm lý
bạn từng lúc ngồi Thiền.
Ðặc biệt đối với căn tánh tư
duy quá nhiều thì pháp môn Thiền chỉ như là pháp môn được
chọn lựa thực hiện để quân bình tâm lý.
Những lúc cần tĩnh dưỡng sức
khỏe để phục hồi năng lực, bạn hành Thiền chỉ. Nếu
bạn ngồi Thiền giữ chánh niệm đi ra khỏi trạo cử và hôn
trầm, và chỉ chờ các vọng niệm khởi lên thì bạn xóa,
thì đây là hình thức Thiền chỉ. Nhưng bạn cần tỉnh giác
để biết rằng tâm tịnh chỉ đến một mức độ nào đó
bạn cần phải đề khởi Thiền quán để có thể đi sâu và
nhanh vào Thiền định, vào việc loại trừ dần các kiết
sử. Thiền quán mới là sắc thái trí tuệ đặc biệt của
Thiền định Phật giáo.
Thiền Quán
Nếu theo dõi phân tích một đối
tượng, dù đối tượng đó là hơi thở hay Năm triền cái,
Năm uẩn, Mười hai giới, Bốn đại, Bảy giác chi hay Bốn
Thánh Ðế, và cái nhìn tư duy vận chuyển trên nền tảng
Duyên khởi hay Ba pháp ấn, thì đó là Thiền quán. Nói
giản dị, Chánh tư duy (tư duy về pháp, về không tham, không
sân, không si, không hại) là Thiền quán. Nếu chỉ đơn
thuần tư duy mênh mang trong các pháp "thế gian" thì chỉ
gọi là tư duy mà không phải là Thiền quán.
Nếu tư duy phân tích về tánh
sanh khởi và đoạn diệt của thân hành thì gọi là Thiền
quán về Thân hành.
Nếu tư duy, phân tích tánh sanh
khởi và đoạn diệt của các tâm lý tam, sân, si, vô tham, vô
sân, vô si thì gọi là Thiền quán về Tâm.
Nếu tư duy, phân tích để hiển
lộ tánh vô ngã, vô thường, tánh hoại diệt, khổ đau
của các pháp, thì gọi là Thiền quán về các Pháp.
Nếu tư duy, phân tích các pháp để
ly tham ái, ly chấp thủ thì cũng gọi là Thiền quán về các
pháp. Theo dõi đường hơi thở vào, hơi thở ra và cái
thấy biết về thân, tâm của sự theo dõi cho đến khi
bừng tỏ sự thật rằng: không có một tự ngã nào có
mặt trong quá trình vật lý, tâm lý ấy, và không có một
tự ngã nào gọi là ông A, bà B đang hành Thiền cả, thì đây
được gọi là hành Thiền Quán. Lập đi, lập lại công phu
này cũng gọi là hành Thiền quán.
Theo truyền thống của kinh tạng
Nikàya (Kinh Bộ) và kinh tạng A-hàm, hành giả chỉ hành
Thiền quán hữu hiệu để loại trừ các kiết sử sau khi
đắc Tứ Thiền sắc định hay ít nhất là Sơ Thiền, Nhị
Thiền hay Tam Thiền. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng con
đường vào giải thoát nói gọn là Bát Thánh Ðạo, mà hai
chi phần Chánh kiến và Chánh tư duy là thuộc Tuệ uẩn,
thuộc Thiền quán, nên trước khi vào Sơ Thiền, chúng ta có
thể hành Thiền quán xen kẻ vào Thiền chỉ để dễ loại
trừ dục, sân và nghi triền cái. Thiền quán lúc bấy giờ
chỉ được thực hiện vừa đủ, nếu nghiêng nặng Thiền
quán lúc bấy giờ thì dễ rơi vào trạo cử, chậm vào định.
Thiền quán sau khi rời Tứ Thiền là bước thực hiện
quyết định để loại trừ tận gốc rễ các kiết sử,
tham ái và vô minh.
Suốt lộ trình hành Thiền định,
bất cứ khi nào tâm lý ở trạng thái tỉnh hay thụ động
như khinh an, xả, định ... thì hành giả cần để khởi
Thiền quán mới phát triển được tâm.
Bạn có thể thực hiện Thiền quán
trong các sinh hoạt hằng ngày bất cứ khi nào bạn muốn và
bạn có thể. Ðấy là phương cách bạn quan sát và phân tích
sự vật với niệm giác tỉnh.
Truyền thống tu tập thường ghi
lại bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán dành cho sáu
căn tánh khác nhau.
Sáu căn tánh nỗi bật của con người
là:
1. Căn tánh tham ái (ràga carita).
2. Căn tánh sân hận (dosa carita).
3. Căn tánh si mê (moha carita).
4. Căn tánh về đức tin (saddhà carita).
5. Căn tánh tri thức, luận giải (buddhi carita).
6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita)
Bốn mươi đối tượng Thiền quán
bao gồm:
1. Mười đối tượng liên hệ đến
các vật có tướng trạng như: đất, gió, lửa, vật màu
xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng và không gian.
Về đất, bạn có thể phân tích
về tính duyên sinh của nó, có thể quan sát tính nhẫn
chịu, không dính mắc hay tính thanh tịnh của nó như các
chất nhơ không thể làm bẩn được đất, như các loài
thực vật có thể sinh sống từ đất v.v... để bạn giác
tỉnh rằng cái tánh của tâm mình cũng thế.
Về nước, tương tự, các chất
nhơ cũng không có thể làm nhơ được nước, nước dung
chứa tất cả và nhẫn chịu tất cả. Tâm của con người
cũng vậy.
Về gió, không có gì có thể làm
nhơ được gió, gió thổi qua tất cả mà không dính mắc. Tâm
của con người cũng vậy.
Về lửa, các chất nhơ không làm
hoen ố được lửa. Lửa đốt cháy tất cả mà vẫn tỉnh
lặng, không dính mắc. Tâm của con người cũng vậy.
Chúng ta phải học nhiếp tâm mình
theo tánh của đất, nước, gió, lửa.
Về màu sắc, có tâm lý thích
hợp với màu xanh, có tâm lý thích hợp với màu đỏ v.v...
Bạn hãy quán sát tâm lý của mình thích hợp với màu sắc
nào thì bạn chọn vật có màu sắc ấy làm đối tượng
Thiền quán. Nếu màu thích ứng tâm lý thì bạn dễ hân
hoan đi vào quán niệm; ngược lai, màu chọi lại tâm lý thì
bạn sẽ không tập trung được tâm vào Thiền quán, có khi
còn bị phản ứng đi vào sầu não, chán nản.
Về ánh sáng, không gian bạn cũng
hành Thiền quán tương tự. Ánh sáng và không gian đều
thanh tịnh và bủa khắp, không có gì làm ô uế được. Tâm
của con người cũng vậy.
2. Mười đối tượng về xác
chết như: sình, biến sắc, rã, chảy nước dơ, bị
cắt đứt đoạn, bị xé nát, bị bung rời từng mảnh, không
nguyên hình thể, đẫm máu, bị dòi rỉa, thi hài chỉ còn
cốt.
Quán mười đối tượng xác
chất này gọi là quán bất tịnh tướng, chỉ áp dụng để
đối trị các tâm tham ái, tham dục: cứ tập trung nhìn,
quan sát kỹ mười đối tượng ấy cho đến khi lòng tham
dục lắng dịu hẳn. Chỉ nên quán vừa đủ mà không nên
đi sâu vào quán pháp này, bởi vì nó có thể dẫn đến
phản tác dụng tâm lý khiến hành giả chán nản đến không
muốn sống (hay đến độ tự hủy hoại mạng sống).
Với các căn tánh nặng về sân
thì tuyệt nhiên không nên hành pháp quán bất tịnh ấy.
Với các căn tánh thích sạch và ghét dơ cũng thế.
3. Mười đối tượng suy niệm
như: Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Thiên, Niết-bàn, Chết,
Thân và Hơi Thở vào, ra.
Về Phật, quán niệm nội dung: Ðức
Phật là bậc đã chứng ngộ vị giác ngộ cao cả nhất, đã
chứng ngộ từ lý Duyên khởi, đã thấy rõ tất cả pháp,
đã mở ra con đường giải thoát chưa từng được khai
mở, là bậc Thầy cao cả của Trời và Người.
Về Pháp, quán niệm nội dung: Pháp
đã được Ðức Phật khéo thuyết giảng, có tác dụng đoạn
tận tham sân si, đoạn tận khổ đau. Bản chất của Pháp là
ly dục.
Về Tăng, quán niệm nội dung: Tăng
là đoàn thể sống hòa hợp, có giới đức thanh tịnh, là
những người đang thực hiện con đường giải thoát mà Ðức
Phật đã tuyên thuyết, đang hành Ðạo và sẽ thành tựu Ðạo.
Về Thí, quán niệm về tánh khoan
dung, vị tha để loại trừ các hại tâm, bất thiện tâm.
Về Thiên, quán niệm cuộc sống
thiện dẫn đến quả báo Thiên giới để dìm sâu các dục
ái.
Về Niết-bàn, quán niệm nội
dung của giải thoát là ái diệt, sân diệt và vô minh
diệt, vọng tưởng thức diệt, thủ diệt ..., Niết bàn là
pháp vô vi, không sinh diệt.
Về Chết, quán niệm rằng mọi
người đều phải chết và có thể chết bất cứ lúc nào
thân bị diệt, tuổi thọ diệt hay mạng sống diệt. Quán
niệm nhiều lần như thế để thấy vô thường mà nỗ
lực hành Thiền định, và để không sợ hãi trước cái
chết.
Về Thân, quán niệm tái sanh
diệt của thân, quán niệm tánh bất tịnh của thân ... để
giác tỉnh đi ra khỏi lòng tham ái, chấp thủ sắc thân
của mình và của người.
Về Hơi thở vào hơi thở ra, quán
niệm tái sanh diệt của hơi thở vào ra, quán niệm mạng
sống của con người treo trên đầu hơi thở, rất là mỏng
manh, vô thường. Sự nghiệp cuộc đời của con người cũng
mỏng manh như hơi thở: hơi thở vào mà không ra hay hơi
thở ra mà không vào là thời điểm khép kín thế giới
hiện tại này, bây giờ tất cả chỉ là bóng mộng đối
với hành giả.
Tất cả các pháp quán trên đều
nhắm đến một mục tiêu duy nhất là đánh thức tâm thức
rời khỏi tham ái và chấp thủ.
4. Bốn Thiền vô sắc:
Thiền quán bốn cảnh Thiền vô
sắc chỉ thực hiện sau khi đã vào Tứ Thiền sắc giới,
nghĩa là lúc tâm thức đã nhuần nhuyễn chỉ còn xả và
nhất tâm để đưa vào bốn đối tượng vô sắc.
- Quán niệm "không gian là vô
biên" và an trú tâm ở đó.
- Quán niệm "thức là vô biên"
và an trú tâm ở đó, sau khi đã vào Không vô biên xứ.
- Quán niệm "không có gì cả"
và an trú ở đó, sau khi đã vào Thức vô biên xứ.
- Quán niệm rằng "không có tưởng,
cũng không phải là không có tưởng" và an trú ở đó,
sau khi đã vào Vô sở hữu xứ.
Căn bản của bốn quán niệm trên
là thường giác tỉnh rằng các cảnh giới đang trú là
hữu vi nên vô thường và chúng sẽ dẩn đến đoạn diệt,
khổ đau. Nhờ niệm giác tỉnh ấy hành giả mới từ bỏ các
cảnh giới Thiền vô sắc để đi vào Diệt thọ tưởng định
để đoạn tận các lậu hoặc.
Thường thì, để được an toàn,
hành giả dừng lại ở Vô sở hữu xứ định và hành giả
hành Tứ vô lương tâm (từ, bi, hỷ, xả).
5. Tứ vô lượng tâm:
Tứ vô lượng tâm là đại từ,
đại bi, đại hỷ và đại xả. Kinh Bộ (Nikaya) chỉ có vài
phẩm Kinh đặc biệt xác định hành giả chỉ tu Bốn vô lượng
tâm từ Vô sở hữu xứ định để băng vượt Phi tưởng
phi phi tưởng định thẳng vào Diệt thọ tưởng định.
Hành giả quán niệm rải tâm
từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả khắp các phương hư không
nhiều lần cho đến nhuần nhuyễn thì sẽ được định
Diệt thọ tưởng.
Một số kinh khác (của Kinh Bộ và
A-hàm) thì chỉ khích lệ hành giả dừng lại ở Tứ thiền
sắc định. Tại đó, dùng Thiền quán để loại trừ, đốt
cháy các lậu hoặc.
6. Một đối tượng về tưởng
(sannà):
Tưởng đến khía cạnh nguy hiểm
(vô thường và khổ đau) của bốn loại thức ăn (đoàn
thực, tư niệm thực, thức thực và thiền duyệt thực) để
xả bỏ hết thảy tham sân.
7. Ðối tượng phân tích, luận
giải:
- Phân tích Năm uẩn như đã trình
bày ở chương II.
- Phân tích Sáu giới (địa,
thủy, hỏa, phong, không gian và thức) và quán sát như thật
rằng Sáu giới ấy ở trong thân thể ta và ở ngoài thế
giới đều là Duyên sinh, không có tự ngã; chúng không
phải là ta, là của ta hay là bản ngã của ta. Quán sát và
phân tích như thế để giác tỉnh đi ra khỏi chấp thủ ngã
và chấp thủ pháp.
- Phân tích Mười hai nhân duyên:
hết thảy các pháp ở trong cũng như ngoài ta đều do duyên
sinh nên hữu vi, vô thường và dẫn đến khổ đau. Do vậy,
không thể xem chúng là ta, là của ta hay là bản ngã của
ta. Mỗi chi phần trong Mười hai chi nhân duyên cũng do duyên
mà sinh (do mười một chi phần kia duyên nhau mà sinh). Hết
thảy là vô ngã, nên thật là sai lầm nếu ta nhận thấy có
bóng dáng của cái ngã ở một nơi nào đó. Thấy vô ngã
sẽ rời khỏi chấp thủ ngã. Thấy vô thường, khổ đau
sẽ rời khỏi tham ái và sân hận.
Ở vị trí phàm phu, nhờ thấy lý
Duyên khởi mà ly dục; ở Tứ thiền sắc định, nương vào
tâm thức nhu nhuyến ở đây, hành giả có thể từ pháp quán
Duyên sinh để giác tỉnh vào Thánh vị. Ở địa vị hữu
học, các bậc Thánh có thể nương vào pháp quán nhân duyên
mà đoan trừ hết thảy lậu hoặc, đắc A-la-hán quả.
Từ Thiền quán, hành giả thấy rõ
giả tướng của cuộc đời và của các Thiền cảnh. Tác
dụng của cái thấy ấy là buông xả ái, thủ. Một nguồn
hỷ lạc đầy thanh thoát, giải thoát đến ngay sau cái ấy
và sự buông xả ấy tùy thuộc vào cái thấy sâu hay cạn,
toàn vẹn hay giới hạn mà sự buông xả sẽ trọn vẹn hay
giới hạn. Từ đây, bạn có thể định nghĩa Thiền là
buông xả, hay ra đi, hoặc từ bỏ, như ý nghĩa của
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (nên khởi lên niệm không
trú trước, không dính mắc, hay không chấp thủ - Kinh Kim
Cang), hoặc như lời Tổ dạy "Tọa Bồ- đề tòa, tâm vô
sở trước" (ngồi chỗ giác ngộ, tâm không dính mắc).
* * *
Qua phần Thiền quán được trình
bày ở trên, bạn có thể đi đến một nhận thức mới
về pháp tu đơn giản "Niệm hơi thở vào, hơi thở ra"
rằng hình thức đơn giản ấy không còn giản đơn nữa.
Trong nó có chứa đựng diệu pháp, diệu nghĩa của giải
thoát. Nếu không thế, thì hóa ra pháp tu ấy có ngã tính không
đi vào diệu pháp, là một điều trái ngược với sự
thật vô ngã.
Thực sự, đi vào pháp hành, bạn
sẽ thấy chánh niệm tỉnh giác là trú trên niệm vô ngã, là
rời xa khỏi sự chấp trước của tướng ngã, nhơn, chúng
sinh và thọ giả (ly tứ tướng), đây là ý nghĩa
ba-la-mật. Ðạo đã có mặt ngay tại chánh niệm tỉnh giác
theo dõi hơi thở vào ra, có thể nói đó là "niệm hơi
thở vào, hơi thở ra" Ba-la-mật. Chỉ vì trong tập thể tâm
thức của hành giả đang có mặt nhiều tiếng nói ồn ào
của Năm triền cái, của các kiết sử nên hành giả chưa
kịp thấy rõ đạo hay chứng ngộ Ðạo. Do vậy, công phu
Thiền chỉ trong buổi đầu tu tập là làm lắng dịu và
dập tắt đi những tiếng nói ồn ào kia để từ Thiền quán
mà làm hiển lộ Ðạo như thật. Từ đây hiện rõ lên
rằng: sự khác biệt của người có chánh kiến đang tu
tập Thiền định và người đã chứng đắc định và Thánh
quả là ở sự có hay không có mặt của những tiếng nói
ồn ào nói trên. Nói cách khác, con đường Thiền định là
con đường đánh tan sự hoạt náo của Năm triền cái và Mười
kiết sử. Bạn không thể mơ màng chờ đợi công phu hành
Thiền những gì khác hơn.
Tuy nhiên, giữa phàm phu và Thánh
giả, và giữa Thiền chỉ và Thiền quán không hoàn toàn có
sự cách biệt, mà là có một cái gì liên tục, xuyên suốt
như là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chuỗi ngọc bích, đó
là Chánh niệm tỉnh giác.
Thông thường, cái nhìn, quan sát
hay theo dõi các pháp của hành giả chỉ dừng lại ở sự có
mặt của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính thì chỉ gọi là
niệm. Nhưng, khi cái nhìn, quan sát hay theo dõi của hành
giả có mặt tính sáng suốt của tâm thức, tính nhận ra vô
ngã tính, vô thường tính và khổ tính của các pháp - hay
gọi là tuệ (pannà), nhân tố điều chỉnh cho đúng các hành
động thân, khẩu, ý và giữ tâm ra khỏi các phiền não,
tham, ưu, thì bấy giờ nó được gọi là Chánh niệm. Tánh
sáng suốt kia có mặt gọi là Tỉnh giác. Do đó, Chánh
niệm luôn luôn đi đôi với Tỉnh giác. Cũng có thể nói Chánh
Niệm là Tỉnh giác, hay Tỉnh giác là Chánh niệm.
Nhờ tánh sáng suốt của tuệ có
mặt trong từng niệm mà hành giả luôn luôn thấy có mặt
của mục đích giải thoát trong từng bước đi, trên con
đường đi, và biết chọn lựa đối tượng Thiền chỉ và
Thiền quán một cách thiện xảo, thích ứng với điều
kiện tu tập của tự thân, hầu để dẫn đến sự phát
triển tốt về Thiền định.
Cho đến khi nào mà Chánh niệm
Tỉnh giác không còn việc gì để làm nữa, nghĩa là cho đến
khi nào mà các phản ứng tâm lý tham ái và chấp thủ bị
loại ra hết ngoài cái nhìn, ngoài sự quan sát hay theo dõi các
pháp của hành giả, thì cho đến khi ấy khổ đau được hoàn
toàn đoạn tận, đấy là đích điểm cuối cùng của lộ
trình tu tập giải thoát của Ðạo đế, hay của con đường
Thiền định, như Thế Tôn đã dạy:
"Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái
thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng,
sẽ chỉ là thọ, tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái
thức tri. Như vậy là đoạn tận khổ đau". (Tiểu Bộ
Kinh I, tr.398, bản dịch của HT . Minh Châu, 1982).
Chính Chánh niệm, Tỉnh giác đã
có mặt từ đây đến đó, từ phiền não đến Niết-bàn.
Nó như đôi chân của ngỗng trời lội trong dòng sinh tử mà
không dính mắc sinh tử, và có tác dụng đưa ngỗng trời
qua bên kia bờ sông nó muốn, mà hai câu thơ của nhà sư
Việt Nam, sư Pháp Thuận (thế kỷ thứ 10) đã nói đến khi
nối tiếp hai câu thơ của Sứ thần Trung Quốc là Lý Giác:
"Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba"
(Lông trắng phô dòng lục
Sóng biếc chân hồng bơi -- TT. Mật Thể dịch)
Ðể có thể biết thêm về lộ
trình tu tập Thiền định, chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường
Thế Tôn đã đi qua, đã thân chứng. Và duyệt lại công phu
của mình qua bảy bước đi thanh tịnh mà Luận sư Phật Âm
(Buddhaghosa) và Hòa thượng Mahasi Sayadaw trình bày trong tập
Thăng Tiến Tuệ Giác (The Progress of Insight) mà chúng tôi sẽ
trình bày trong chương IV.
-oOo-
Chương
trước | Mục lục | Chương
kế |