| 
         Chương 
        I 
        Nhận 
        Thức Cơ Bản Về 
        Con Ðường Thiền Ðịnh Của Phật Giáo
         
        Trước khi đi vào 
        phần thực hiện Thiền Ðịnh Tứ Niệm Xứ, thiết tưởng 
        chúng ta cần ổn định một số nhận thức về con đường 
        Thiền định của Phật giáo. Từ những nhận thức đúng và 
        tư duy đúng về Thiền định, ta dễ có những bước thực 
        hiện có kết quả tốt đẹp về nó. 
        Từ lâu, có người cứ ngỡ 
        Thiền như là một tông phái Phật giáo. Thiền đến với 
        thế hệ chúng ta như là chỉ có Thiền Công Án (hay Thiền 
        Tổ sư). Những hình ảnh quen thuộc với Thiền là những 
        tiếng bổng, tiếng hét, tiếng quát, là những câu nói bí 
        hiểm đầy ẩn dụ, hay là những lời dạy ngắn ngủi gọi 
        là "thoại đầu" hay "thoại vĩ", là những hình ảnh phóng 
        khoáng, tự do của các Thiền sư "thỏng tay vào chợ", là 
        hình ảnh "chích lý Tây qui" (đi về Tây Trúc với một 
        chiếc dép cỏ trên vai), là các bài kệ truyền thừa hay 
        những mẫu đàm thoại ngắn giữa một Thiền sư và một người 
        hỏi đạo. Thiền đến với ta với ý nghĩa của "Giáo 
        ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, 
        kiến tánh thành Phật" (truyền riêng ngoài giáo, không lập 
        văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật). 
        Hoặc với ý nghĩa của "Ða ngôn đa quá chuyển bất tương 
        ứng, tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất Thiền" (nói nhiều 
        thì lỗi nhiều trở nên không hợp, bặt nói năng bặt suy 
        nghĩ thì không đâu là không Thiền). Thiền đến với ta như 
        là một pháp tu đặc biệt chỉ dành cho hàng căn tánh đặc 
        biệt. 
        Tại Việt Nam, trong mấy thập niên 
        gần đây các sách Thiền có ảnh hưởng phổ biến nhất là 
        các cuốn viết về các Thiền sư Trung Hoa, cuốn Thiền 
        Luận (Essays in Buddhist Meditation) của D.T. Suzuki, và cuốn 
        Thiền Ðại Ðạo Tu Tập (Zen Practice) của Chang Cheng Chi (Trương 
        Trừng Cơ). Ðây là ảnh hưởng tốt. 
        Bên cạnh ảnh hưởng của Thiền 
        Công án ấy, còn có các hiện tượng "Thiền xuất hồn", 
        "Thiền chữa bịnh" v.v... xuất hiện cùng với làn sóng dư 
        luận rằng tu Thiền thì dễ điên, dễ lạc đạo, dễ "tẩu 
        hỏa" v.v... 
        Một số người thì cho rằng 
        muốn tu Thiền thì phải buông tha hết các công việc gia đình, 
        xã hội, bỏ hết việc học hành, đi vào ở ẩn một nơi nào 
        thật xa vắng. Thiền gắn liền với đời sống núi rừng. 
        Thật là đầy dẫy các ngộ 
        nhận lớn về con đường Thiền định của Phật giáo. Thượng 
        tọa W. Rahula, trong cuốn " Những Ðiều Ðức Phật Dạy" 
        (What the Buddha Taught), đã viết: "Thật không may rằng hầu 
        như không có ngành nào của giáo lý đức Phật bị các 
        Phật tử và những người khác hiểu lầm như Thiền định" 
        (Chương VII). 
        Chúng ta cần ổn định nhận 
        thức từng vấn đề: 
        
        -- Thiền định là con đường tu 
        tập chính thống, độc nhất đi đến giải thoát của 
        Phật giáo: 
        Trên lộ trình tu tập giải thoát, 
        Thế Tôn đã đi qua hết đoạn đường Thiền định của 
        ngoại đạo mà cao đỉnh là định Phi tưởng phi phi tưởng, 
        và Ngài đã từ bỏ ra đi vì cho rằng con đường này còn 
        bị vướng mắt vào sinh tử. Thế Tôn lại hành khổ hạnh 
        sáu năm liền, và Ngài đã từ bỏ ra đi, vì cho rằng đây 
        không phải là chánh đạo dẫn đến giải thoát (xem "Phật 
        Học Khái Luận", cùng soạn giả). Sau cùng, Thế Tôn quyết 
        định Thiền quán dưới cội Bồ-đề (Assatha - Bát-đa-la) 
        trong vòng ba tuần lễ (có nơi ghi 7 tuần lễ; thời gian này 
        có thể ghi nhận từ 3 đến 7 tuần lễ ) theo kinh nghiệm 
        Thiền định đã giúp Ngài vào Sơ Thiền trong dịp vua Tịnh 
        Phạn làm lễ "hạ điền" (xuống đồng). Ngài khởi niệm 
        đoạn tận lòng tham ái và đã chứng đắc vô thượng bồ-đề. 
        Ðây là con đường độc nhất ngài chứng ngộ để về sau 
        ngài tuyên thuyết con đường giải thoát sinh tử, khổ đau 
        gọi là Phật giáo . 
        Do vậy, định giải thoát cao 
        nhất của Phật giáo đến từ Thiền định (Thiền chỉ, 
        Thiền quán). 
        Ðạo đế gồm có 37 phẩm trợ 
        đạo mở đầu là Tứ Niệm Xứ. Ðây là pháp môn Thiền định. 
        Tứ Chánh cần thì thuộc Ðịnh uẩn. Tứ như Ý Túc (dục 
        định, niệm định, tâm định và tư duy định) cũng thuộc 
        Ðịnh. Ngũ căn, ngũ lực (tín, tấn, niệm, định, tuệ) có 
        ba chi phần (tấn, niệm, định) là thuộc Ðịnh uẩn. Thất 
        Giác Chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, 
        xả) bao gồm các chi phần Thiền định. Bát Thánh Ðạo có 
        ba chi phần (chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định) 
        thuộc Ðịnh uẩn. Thế có nghĩa là Ðạo đế là con đường 
        tu tập nỗi bật sắc thái Thiền định. 
        Qua nếp sống của chư Tăng lời 
        Thế Tôn tại thế, các vị Tỷ-kheo chỉ có hai việc chính 
        phải làm là học hỏi Giáo lý và tu tập Thiền định (xem 
        Phật Học Khái Luận, cùng soạn giả). Sinh hoạt cốt lõi 
        của nếp sống giải thoát ấy rõ là Thiền định. 
        Kinh Pháp Cú, kệ số 301 chép: 
        
          
          "Ðệ tử Gotama 
          luôn luôn tự tỉnh giác 
          không luận ngày hay đêm 
          Ý vui tu Thiền định". 
          ("Suppabuddham pabujjhanti 
          Sadà Gotamasàvakà) 
          Yesam divà ca ratto ca 
          Bhàvanàya rato mano") 
         
        Kệ 386 chép: 
        
          
          "Tu Thiền, trú ly trần 
          Phật sự xong, vô lậu 
          Ðạt được đích tối thượng 
          Ta gọi Bà-la-môn." 
          ("Jhàyim, virajam àsìnam 
          Katakiccham anàsavam 
          Uttamattham anuppattam 
          Tam aham brùmi Bràhmanam") 
         
        Quả chứng Lục thông của Phật 
        giáo gồm Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc thông là 
        kết quả tu tập Thiền chỉ; Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông 
        và Lậu tận thông là kết quả của tu tập Thiền quán. 
        Quả vị Tam minh (Thiên nhãn, Túc mệnh và Lậu tận) là 
        quả vị tu chứng đặc biệt chỉ có trong Phật giáo đã là 
        kết quả đến từ con đường Thiền định của Phật giáo. 
        Qua chừng ấy trưng dẫn, chúng ta 
        đã thấy Thiền định là con đường tu chính thống của 
        Phật giáo. Ðức Thế Tôn còn xác định rõ hơn vị trí 
        của con đường Thiền định này: 
        
          
          "Này các thầy Tỷ-kheo, con đường 
          độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua 
          mọi sầu não, khổ, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng 
          Niết-bàn là con đường này: đó là Bốn Niệm Xứ". 
          (Ekàyano ayam bhikkhave maggo sattànam 
          visuddhiyà sokapatiddhavànam samatikkamàya dukkhadomanassànam 
          atthagamàya nàyassa abhigamàya niggànassa sacchikiriyàta cattàro 
          satipatthanà - Trung Bộ Kinh I, Kinh Tứ Niệm Xứ). 
         
        Con đường trở về nương tựa 
        chính mình và nương tựa Chánh pháp đúng nghĩa là con đường 
        Thiền định. Thế Tôn dạy: 
        
          "Này, Ananda, vị Tỷ-kheo quán 
          thân nơi thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm nhiếp 
          phục tham ưu ở đời, quán thọ nơi thọ..., quán tâm nơi 
          tâm..., và quán pháp nơi pháp.... này Ananda, như vậy là 
          vị tỷ-kheo tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, không nương 
          tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh 
          pháp làm chỗ dựa nương tựa, không nương tựa một gì 
          khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng 
          trong hàng Tỷ-kheo của Ta." (Trường Bộ Kinh III, tr. 101, 
          bản dịch của HT. Minh Châu, 1972). 
         
        Qua lời dạy này, Thiền định 
        nỗi bật sắc thái rất là chính thống của Phật giáo. 
        Trung A-hàm, Kinh Niệm Xứ, số 98, 
        chép: 
        
          "Có một con đường tịnh hóa 
          chúng sanh, vượt qua lo sợ diệt trừ khổ não, chấm dứ 
          kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Ðó là Bốn Niệm Xứ. Các 
          Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh Giác ở quá 
          khứ đều đoạn trừ Năm triền cái là thứ làm tâm ô 
          uế, tuệ yếu kém, lập tâm chánh trú nơi Bốn Niệm Xứ, 
          từ Bảy Giác Chi mà chứng quả Giác ngộ. Ta nay trong 
          hiện tại, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh 
          Giác, Ta cũng đều đoạn trừ Năm triền cái làm tâm ô 
          uế, tuệ yếu kém, Ta cùng lập tâm chánh trú nơi Bốn 
          Niệm Xứ, tu Bảy Giác Chi mà chứng quả Vô Thượng Chánh 
          tận". 
         
        A-hàm thuộc Nhứt Thiết Hữu 
        Bộ, qua đoạn kinh vừa dẫn, xác định rõ Thiền định 
        Tứ Niệm Xứ là con đường tu tập truyền thống của ba đời 
        chư Phật. 
        Ði vào các kinh thuộc Bắc Tạng, 
        chúng ta cũng sẽ lần lượt tìm thấy một kết luận tương 
        tự về Thiền định. 
        Thủ Lăng Nghiêm kinh chỉ bày con 
        đường vào Lãng Nghiêm đại định để thấy rõ thật pháp 
        hay chân tâm là con đường hành Thiền quán viên thông các căn, 
        các trần, các thức, các đại. Thực ra đó là ngõ đường 
        Thiền chỉ và Thiền quán của Thiền định. Kinh Viên Giác 
        ngoài phần diễn bày viên giác tánh, đã giới thiệu các pháp 
        tu chỉ, quán, và chỉ quán song tu. 
        Kinh Pháp Hoa thì đã khéo giới 
        thiệu Ðức Phật nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ định rồi 
        xuất Vô Lượng Nghĩa Xứ định mới tuyên thuyết Pháp Hoa 
        (phẩm Tựa). Ðấy là cách diễn đạt Tri Kiến Phật chỉ 
        xuất hiện từ đại định, hay nói cách khác, qua con đường 
        Thiền định, hành giả mới đi đến Tri Kiến Phật. 
        Kim Kim Cang Bát-nhã thì với bài 
        kệ kết thúc kinh được trình bày như là lời cô kết về 
        con đường hàng phục vọng tâm, rằng: 
        
          
          "Hết thảy các Pháp do duyên 
          sanh 
          Như mộng, như huyễn, như bọt nước 
          Như sương mai, như ánh chớp 
          Nên khởi lên cái nhìn như vậy". 
          (Nhứt thiết hữu vi pháp 
          Như mộng, huyễn, bào ảnh 
          Như lộ diệc như điển 
          Ưng tác như thị quán) 
         
        Ðấy là hình thức hành Thiền quán 
        về tính vô ngã và vô thường của các pháp, nhìn rõ thấy 
        tính không thật và tính mong manh của con người và thế 
        giới để rời khỏi lòng tham ái và chấp thủ. 
        Pháp tướng Duy thức học là con 
        đường dẫn đưa hành giả từ tướng trạng vào chân 
        thể. Cơ sở nhận thức của tông phái này là lý Duyên 
        khởi. Con đường thực hiện là Duy thức hạnh hay là Duy 
        thức quán mà nội dung quán niệm gồm có năm bậc: 
        
          1. Quán nhận thức "biến kế" 
          là sai lầm, do vì tất cả Pháp là Duyên sinh, nên hết 
          thảy tướng trạng ấy là hư giả. 
          2. Quán hết thảy các Pháp là 
          do "tám thức tâm vương" biến hiện ra, do đó không có 
          thực thể. 
          3. Quán tâm thức năng biến và 
          các pháp sở biến đều do duyên sinh, đều nương nhau mà 
          có, nên tất cả đều không thật. 
          4. Quán 51 món"tâm sở" và 24 món 
          "tâm bất tương ưng hành" là do các tâm vương biến 
          hiện nên không thật. 
          5. Sau hết, quán "tám thức tâm 
          vương" do duyên sinh, kỳ thực cũng phi thực. 
         
        Cái chân thật sau cùng là "tánh 
        cảnh" thì rời hết mọi tướng trạng giả hợp. Ðây 
        gọi là Duy thức thật tánh. 
        Như vậy, con đường vào "Duy 
        thức thật tánh" là con đường Thiền quán (Vipassana) về 
        duyên sinh tính, vô ngã tính của các pháp. Ðấy là Thiền 
        Ðịnh. 
        Nói tóm, con đường giải thoát dù 
        được trình bày dưới hình thức nào của các Kinh Nam hay 
        Bắc tạng, vẫn là con đường Thiền định loại trừ tham 
        ái, chấp thủ và vô minh. 
        Ở đây, ta có thể kết luận 
        rằng: Thiền định là con đường tu chính thống nhất của 
        Phật giáo. Nói rõ hơn nữa, Thiền định là con đường độc 
        nhất đi đến đoạn tận khổ đau. 
        
        Thiền Ðịnh Là Pháp Môn Tu Phù 
        Hợp Với Mọi Căn Cơ 
        Người ta thường xem Thiền là 
        một tông phái của Phật giáo, và gọi là Thiền tông. Ðây 
        thật là một điều nhầm lẫn lớn. 
        Có người lại xem Thiền Công án, 
        như chính là con đường Thiền định của Phật giáo, rồi 
        cho rằng Thiền định chỉ phù hợp với một số ít căn cơ 
        đặc biệt nào đó (hàng lợi căn), người đời nay vì 
        nghiệp chướng nên phần lớn thích hợp với con đường 
        Tịnh độ. Ðây cũng là một quan niệm giới hạn và lệch 
        lạc. 
        Khi đã chứng tỏ Thiền định là 
        con đường độc nhất đưa đến giải thoát, có nghĩa là 
        mọi người đi về giải thoát đi trên con đường Thiền định. 
        Dù cho hành giả có muốn đặt tên nào khác cho con đường 
        tu tập giải thoát, thì đòi hỏi tâm thức người ấy cũng 
        phải hành Giới, Ðịnh, Tuệ, hay nói gọn là hành Thiền định. 
        Hành giả không thể hành khác đi mà có thể giải thoát các 
        lậu hoặc. 
        Truyền thống Thiền định Phật 
        giáo, chia căn tánh con người làm sáu loại: 
        
          1. Căn tánh tham ái (ràga carita) 
          2. Căn tánh si mê (moha carita) 
          3. Căn tánh sân hận (dosa carita) 
          4. Căn tánh tín ngưỡng (saddhà carita). 
          5. Căn tánh tri thức, biện giải (buddhi carita) 
          6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita). 
         
        Mỗi người sẽ rơi vào một 
        trong sáu căn tánh kể trên trong suốt đời hay trong một 
        giai đoạn của cuộc đời. 
        Mỗi căn tánh lại có một số phương 
        thức tu tập Thiền định thích ứng. Chẳng hạn, căn tánh 
        sân thì đối tượng tu là "từ", căn tánh tham thì đối tượng 
        tu là "bất tịnh tướng" v.v... 
        Riêng pháp môn tu Niệm giác hay 
        Niệm xứ (trừ quán bất tịnh) thì phù hợp cho mọi căn tánh. 
        Thế tôn đã truyền dạy Pháp Niệm hơi thở vào hơi thở 
        ra (Anàpanasatisuttam, Tương Ưng Bộ Kinh, V) để an toàn tâm lý 
        cho mọi hành giả thuộc mọi căn cơ. Do đó, pháp môn 
        Thiền định này hẳn là phù hợp các căn cơ khác nhau của 
        con người thời đại. 
        Chúng ta không thể viện ra bất 
        cứ lý do nào để cho rằng căn cơ mình, điều kiện sống 
        của mình không thích hợp với con đường Thiền định. Tùy 
        theo điều kiện sống, giờ giấc, nhận thức, ý chí cầu 
        tu và nỗ lực tu tập của mỗi người mà kết quả tu tập 
        đến khác nhau sớm hay muộn, nhưng không có một thất bại 
        nào hay một phản tác dụng tâm lý nào xảy ra. 
        Xét kỹ nội dung tu tập của 
        Thiền định Phật giáo, ta cũng có thể nhận ra rằng trong 
        các bước đi điều hòa hơi thở, điều hòa thân và điều 
        hòa tâm với nhịp độ tu tập vừa phải thì sẽ không có 
        một sự xáo trộn tâm lý, vật lý nào (kể cả sinh lý). 
        Ngày nay, với sự phổ biến 
        rộng rãi kinh điển của các bộ phái, và với sự tiếp 
        cận dễ dàng với các Thiền sư các Thiền viện đây đó, 
        thế hệ chúng ta có thêm nhiều điều kiện tìm hiểu giáo 
        lý sâu rộng và cởi mở, nên dễ ổn định về nhận 
        thức. Chúng ta có thể phát biểu rằng nói đến Phật giáo 
        là nói đến Thiền định, như quần chúng Việt Nam thường 
        gọi cửa chùa là cửa Thiền. Nói đến Thiền định là nói 
        đến Tứ Niệm Xứ hay Ðạo đế (37 phẩm trợ đạo). Nói 
        đến con đường tu tập giải thoát của hàng xuất gia và 
        tại gia là đề cập đến việc học hiểu giáo lý và 
        thực hành Thiền định. Công việc thực hành Thiền định 
        là công việc chuyển đổi tâm lý có thể thực hiện được 
        trong các công việc sinh hoạt hằng ngày, gồm cả việc 
        giảng dạy giáo lý, bố thí, trì giới, tham gia các công tác 
        xã hội đem lại an lạc và hạnh phúc chung. 
        Chính ý nghĩa trên của Thiền định 
        Phật giáo mở ra một hướng thống nhất về quan điểm 
        nhận thức và tập cho tín đồ Phật giáo của các bộ phái, 
        xóa đi các ngộ nhận và cố chấp trên đường tu tập để 
        có cái thấy đúng, cái tư duy đúng về con người giải thoát. 
        Như thế, Thiền định Tứ Niệm 
        Xứ là giáo lý có thể được mọi người thực hiện trên 
        một địa bàng rộng rãi khắp các sinh hoạt xã hội (đi, 
        đứng, nằm, ngồi) từ công phu giản dị nhất đến công 
        phu tế nhị nhất. Nói gọn là nó mang đủ ba tính chất: không 
        phân biệt người, không phân biệt nơi chốn, và không phân 
        biệt thời gian. 
        
        Thiền Ðịnh: Hình Thức Giáo Lý 
        Ðược Trình Bày Một Cách Giản Dị Nhưng Chứa Ðựng Các 
        Công Phu Ðặc Thù 
        Giáo lý Tứ Niệm Xứ về "Niệm 
        hơi thở vào hơi thở ra" trình bày với nội dung rất 
        giản dị, nhưng không vì thế mà chúng ta nghi ngờ về công 
        năng giải thoát của nó. Nhất là giáo lý này được chính 
        Thế Tôn, bậc Ðại Tuệ, tự ngài thân chứng và giảng 
        dạy. Không có lời dạy nào của Thế Tôn mà lại rỗng không, 
        không có chứa đựng thực tại giải thoát. Cứ đi vào công 
        phu tu tập, chúng ta sẽ dần dần thấy rõ cái thực tại 
        giải thoát phong phú nằm ở đằng sau các ngôn ngữ giản 
        dị của pháp môn Thiền định. 
        Thiền định Tứ Niệm Xứ sẽ giúp 
        hành giả tự huấn luyện Niệm lực, Ðịnh lực và Tuệ 
        lực. Niệm là công phu nhìn, quan sát, theo dõi một đối tượng. 
        Nhìn từ điểm khởi đầu hời hợt chuyển dần đến chuyên 
        sâu, từ trạng thái tâm lý đầy dao động đến trạng thái 
        vắng lặng, an tỉnh, từ cấp độ tâm bị chi phối bởi 
        ảnh hưởng từ nội tâm đến ngoại cảnh đến cấp độ 
        làm chủ, kiểm soát, chế ngự các ảnh hưởng ấy. Công 
        phu nhìn như thế sẽ giúp hành giả đi ra khỏi các sai 
        lệch và giới hạn của tư duy, tình cảm và các tâm lý 
        tham, sân, si, mạn, nghi của chính hành giả. Công phu nhìn như 
        thế sẽ nuôi dưỡng chánh niệm, tỉnh giác là sự có mặt 
        của trí tuệ, nhân tố soi đường vào giải thoát và tri 
        kiến giải thoát. Tại đây, các tâm lý và cảm thọ đem 
        lại sầu, bi, khổ, ưu, não chấm dứt; tại đây sự vật 
        như thật xuất hiện. 
        Chính cái nhìn chuyện sâu ấy 
        tạo nên Niệm lực và Ðịnh lực, Chánh niệm tỉnh giác 
        tạo nên Tuệ lực đưa hành giả từ địa vị phàm phu lên 
        địa vị các bậc Thánh Vô học (Thánh A-la-hán), chứng 
        ngộ quả vị cao nhất của một bậc Ðại nhân . 
        Suốt quá trình tu tập, hành giả 
        luôn luôn đối mặt với những chuyển biến tâm lý của 
        tự thân, thấy rõ phiền não, sự sinh khởi của phiền não, 
        và thấy rõ lối đi ra khỏi phiền não(hay lối đi vào 
        giải thoát). Hành giả có kinh nghiệm rất thực, rất là người, 
        không bao giờ cầu xin hay chờ đợi một ân huệ nào từ đâu, 
        biết rằng hạnh phúc và giải thoát do chính mình tạo 
        bằng nỗ lực của chính mình trong hiện tại và tại đây. 
        Hạnh phúc ấy có thực, có mặt trong hướng sống đầy ý 
        nghĩa trong lành ấy. 
        Chừng nào lòng tham ái và đắm 
        trước (chấp thủ) lặn mất thì bấy giờ các việc thở vào 
        thở ra, hay theo dõi hơi thở vào ra, đều là Bà-la- mật, 
        rốt ráo Ba-la-mật. 
        
        Thiền Ðịnh: Con Ðường Giáo 
        Dục Tâm Lý, Loại Bỏ Tức Thời Các Phiền Não 
        Phiền não được nói đến ở đây 
        là phiền não của hành giả trước khi vào Thiền. Ðối 
        với tuổi trẻ, đây là một vấn đề giáo dục thật chủ 
        yếu. Phiền não cướp đi mất hạnh phúc và tươi tắn 
        của tuổi trẻ. Nó ngăn trở các nguồn sáng tạo, làm trì 
        trệ việc phát triển khả năng, làm giảm sút nhiều hiệu 
        năng tiếp thu của sinh viên, học sinh, có nghĩa làm mất đi 
        nhiều hiệu năng của việc dạy, học, giáo dục. Nó là đối 
        tượng chính của ngành tâm lý giáo dục hiện tại. Ðể giúp 
        cho con người nói chung, tuổi trẻ nói riêng, hàng phục 
        phiền não, các học đường tiên tiến đã áp dụng nhiều 
        biện pháp giải trừ mà biện pháp Thiền chỉ và Thiền quán 
        đã được vận dụng từ ba thập niên trở lại là hiệu 
        lực nhất, dù mức độ phổ biến còn giới hạn. 
        Như chúng ta biết, đạo Phật là 
        đạo đoạn trừ phiền não, khổ đau. Thiền định là con 
        đường trực tiếp hàng phục nó. Nói thiền định có khả 
        năng hàng phục phiền não và vô minh là nói đến khả năng 
        hàng phục ở đương niệm, đương thời, tại đương xứ 
        (nó giản dị là: nó hàng phục phiền não ngay trong hiện 
        tại và tại đây). 
        Phiền não có mặt là có mặt 
        ngay trong ý thức đang trôi chảy (đương niệm), có ý thức 
        nắm giữ nó, nhìn nhận nó và đầu hàng nó, có khi mê mờ 
        biến nó thành mình. Phiền não không thể, tuyệt đối không 
        thể, đến với ta bằng ngõ đường nào khác. Nếu cánh 
        cửa đương niệm (ý niệm tức thời) mở ra và cho phép, thì 
        nó vào; nếu khép lại thì nó đi. Thiền định và Thiền quán 
        là khả năng tạo cho đương niệm một cánh cửa tự động 
        luôn luôn khép lại trước các thứ phiền não. 
        Giờ ta đi vào quan sát cánh cửa 
        tự động ấy: 
        -- Nếu bạn chú tâm vào một đối 
        tượng như là hơi thở, như đóa hồng, một đóa sen, mơ 
        hồ nước một thác nước hay một kỷ niệm đẹp của 
        thời thời thơ ấu v.v... thì bạn sẽ gạt khỏi tâm mình các 
        đối tượng khác, trong đó có các đối tượng phiền não 
        của bạn. Bạn có thể làm điều đó khi mở mắt đang đi, 
        đứng, nằm, ngồi, nghĩa là bạn có thể gạt phiền não ra 
        khỏi đương niệm bất cứ khi nào bạn muốn. 
        -- Nếu công phu thực hiện Thiền 
        của bạn đã đến mức phấn khởi, sinh hỷ lạc, thì 
        đương nhiên các phiền muộn tức bực, chán nản không có 
        chân đứng trong tâm bạn. 
        -- Nếu bạn, theo phương pháp 
        Thiền quán nhìn thẳng vào đối tượng phát sinh chản 
        nản, sầu muộn, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, và các khía 
        cạnh tiêu cực của nó, thì sầu muộn, chán nản sẽ mắc 
        cở tan đi. Nếu là loại phiền não cấm rễ sâu vào tâm lý 
        của bạn, bạn sẽ đi con đường suy nghĩ thoát khỏi nó, 
        bạn sẽ thấy ngay và đi ra khỏi ngay không bao lâu sau, bởi 
        vì nó vốn là khách trần, là ảnh tượng, bạn có thể 
        mời nó ra khỏi đương niệm, ra khỏi căn nhà tâm lý của 
        bạn bất cứ lúc nào. 
        -- Bằng Thiền Quán, bạn có thể 
        dùng trí tuệ của mình đốt cháy nó. Bạn tự hỏi: nó là 
        gì? Tại sao ta lại phải khổ đau vì nó? Ta vốn làm chủ và 
        độc lập với nó, tại sao ta lại vướng mắc vào các bóng 
        dáng, ảnh tượng ấy? Tại sao lại để nó (phiền não) trói 
        mình? Rồi bạn sẽ thấy buồn cười, sẽ mỉm cười mình 
        với nụ cười như "nụ cười niêm hoa" của Tôn giả 
        Ca-diếp. 
        Trong khi thực hiện pháp quán này, 
        dù bạn chưa đạt được cấp độ của "nụ cười niêm 
        hoa", phiền não cũng đủ mất hết ảnh hưởng của nó và 
        chết chìm trong tâm thức của bạn. 
        -- Nếu bạn biết trú vào Thiền 
        quán Ngũ uẩn, Mười hai nhân duyên, thì bạn sẽ dễ dàng 
        thấy phiền não không phải là mình, không phải của mình, 
        không phải là tự ngã của mình, và dễ dàng buông bỏ nó. 
        -- Nếu bạn còn có mối nghi ngờ 
        nào về các điều vừa được trình bày, thì hãy thử làm 
        đi, bạn sẽ biết liền hư thực. 
        -- Khi tức giận, khi sợ hãi, lo 
        âu, bất an, tim bạn thường nhảy loạn. Bạn chỉ cần theo 
        dõi hơi thở ra vào, đếm từ 1 đến 10 (vào và ra: đếm 
        1...) và giữ cho hơi thở đều đặn, điều hòa, thì tim 
        bạn sẽ trở lại bình thường và tâm lý của bạn sẽ 
        trở lại trạng thái quân bình. 
        Bạn mất bình tĩnh trước đám 
        đông, tim cũng nhảy loạn, bạn cứ làm y hệt như thế (điều 
        hòa hơi thở), bạn sẽ lấy lại khá nhiều bình tĩnh. 
        -- Chỉ với sự khôn ngoan, với 
        suy tư giản dị (dĩ nhiên, suy tư giản dị này cũng mang ý 
        nghĩa Thiền quán) bạn cũng có thể đi ra khỏi rối loạn, 
        phiền não. Bạn hãy từng bước đặt vấn đề: 
        
          a. Có một phiền muộn, nghĩa là 
          bạn đang để tâm lý mình vướng mắc một phiền muộn. 
          Bạn đang đối mặt với nỗi phiền muộn trong tâm của 
          bạn. Về mặt tâm lý, bạn hầu như hoàn toàn tự do trong 
          từng giây phút hiện sinh. Không thực sự có một bàn tay 
          hay một sức mạnh nào ngoài can thiệp cả. Bạn chịu trách 
          nhiệm hoàn toàn trong việc nắm giữ hay buông thả nó. 
          b. Bạn nhìn thẳng vào nỗi 
          phiền muộn, đừng chạy trốn cũng đừng sợ hãy nó. 
          Với thái độ đó, phiền muộn sẽ yếu hẳn đi, mất đi 
          nhiều tác dụng trên tâm lý của bạn. Xét kỹ do nguyên 
          nhân nào nó sinh, bạn sẽ thấy ra chỗ gỡ. Ðồng thời 
          bạn sẽ thấy ra rằng nỗi phiền muộn quấy rầy bạn thì 
          ít, mà chính cái suy tư rắc rối, bối rối của bạn 
          quấy rầy nhiều hơn. Bởi vì, trên bề mặt ý thức, 
          phiền muộn ý thức, phiền muộn xuất hiện cũng như mây 
          trời, như cỏ nội hoa ngàn, tự nó không quấy rầy, châm 
          chích bạn. Duy chỉ vì bạn chấp chặt nó, suy tư về nó 
          một cách lệch lạc, bệnh hoạn nào đó, bạn mới hốt 
          hoảng, sầu muộn. 
          c. Bạn cần nhận ra rằng: Không 
          ai bốc phiền não ném vào tâm mình cả, mà phiền não cũng 
          không thật có để quấy rầy mình. Chỉ có một điều 
          duy nhất là bạn biết giữ cho đương niệm (ý thức 
          hiện tại) đừng dính mắc nó. 
         
        Chuyện theo dõi và kiểm soát 
        đương niệm một cách nhẹ nhàng như vậy là chuyện đơn 
        giản, nhưng nếu bạn thấy vẫn còn khó thực hiện, thì 
        bạn hãy bắt chước kinh nghiệm của người đời xưa, 
        bạn tự nói: Thây kệ nó! Ðể mai hẳn buồn , hẳn lo ... 
        Rồi các công việc tiếp theo trong ngày, hay một giấc ngủ 
        con sẽ giúp bạn đi ra khỏi nó. Ðiều đó có nghĩa là 
        nếu bạn kệ nó, bỏ qua nó, thì nó qua. Mọi chuyện đời 
        đều đơn giản. Chỉ có suy tư của rắc rối mà thôi! 
        Nhìn kỹ vào tâm lý của mình, 
        bạn sẽ thấy phần lớn các phiền não rối loạn của mình 
        dấy khởi đều do những tư duy của mình tiếc nuối quá 
        khứ, hay những tư duy không thiết thực, mơ mộng hão 
        huyền về tương lai. Bạn cần nhận rõ sống là sống trong 
        hiện tại, sống bằng an lạc của đương niệm, bằng 
        thực tại có thực đang trôi chảy. Quá khứ và tương lai 
        đều là ảnh tượng, là những hình ma bóng quế. Từ đây, 
        bạn mới có được một chọn lựa rõ ràng: nắm giữ 
        hiện tại và buông bỏ những tiếc nuối, những mơ ước, 
        mộng tưởng. 
        Thế Tôn đã dạy: 
        
          
          "Không tiếc nuối quá khứ 
          Không mơ ước tương lai 
          Chỉ sống với hiện tại 
          Người tiếc nuối quá khứ 
          Và mơ ước tương lai 
          Dung sắc sẽ khô héo 
          Như bông lau lìa cành". 
          (Tương Ưng Bộ Kinh I, phẩm Cây Lau) 
          " Quá khứ không truy tìm 
          Tương lai không ước vọng 
          Quá khứ đã qua rồi 
          Tương lai thì chưa đến 
          Chỉ có Pháp hiện tại 
          Tuệ quán chính ở đây". ... 
          (Trung Bộ Kinh III, Nhất Dạ Hiền Giả) 
         
        Từ một số ý kiến vừa trình bày, 
        bạn hãy trầm tư và thực hiện. Thiền định chỉ cho ta trách 
        nhiệm về chính sự vui, khổ của mình. Không đổ lỗi, cũng 
        không chờ đợi một phép lạ nào khác. Chúng ta cần mãi 
        nhớ rằng cái chìa khóa của kho tàng tâm thức , của hạnh 
        phúc muôn đời đang ở trong tay mình, nó rất gần gũi và 
        giản dị, nếu mình nhận ra điều đó . 
        
        Thiền Ðịnh Giữ Vị Trí Cần 
        Yếu Trong Việc Xây Dựng Một Mẫu Người Giáo Dục Tốt 
        1. Thiền định là con đường 
        trở về với tự trách nhiệm, tự tri, tự giác, tự chế, 
        tự lập... cho ta niềm tin xây dựng được một mẫu người 
        giáo dục tốt 
        Các hệ tư tưởng Hy Lạp, Ấn Ðộ, 
        Trung Hoa và các hệ tư tưởng thời nay có thể được xếp 
        vào một trong ba phạm trù sau đây: 
        
          -- Hệ tư tưởng ngôi thứ ba: 
          Ðây là những hệ tư tưởng chấp nhận có một chân lý 
          hoàn toàn khách quan ở ngoài thiên nhiên (thế giới hiện 
          tượng) và con người. Chân lý đó được hiểu như là 
          một đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ và con người, và 
          quyết định số phận con người cùng các lẽ thiện, ác. 
          -- Hệ tư tưởng ngôi thứ hai: 
          Là những hệ tư tưởng cho rằng có một chân lý khách 
          quan, nằm trong hiện tượng giới, ở thế giới khách quan 
          độc lập với con người. 
          -- Hệ tư tưởng ngôi thứ 
          nhất: Hai nhóm hệ tư tưởng là hai nhóm triết lý vong 
          thể (hay tha hóa), bởi vì chúng đã đánh mất con người, 
          đưa con người đến một thân phận khốn cùng. 
         
        Ðể giải thoát ra khỏi thân 
        phận bi đát ấy, con người đã vùng dậy khắp trái đất 
        nói lên tiếng nói rất người đánh thức mình trở về chính 
        mình. Ở đó, hy vọng sẽ tìm thấy hạnh phúc và sự thật 
        buộc đời. Những tiếng nói của buổi đầu như "Thượng 
        đế đã chết", "con người là thước đo vũ trụ", "con 
        người đặt để Thượng đế", "con người đánh giá 
        mọi thứ", "con người là chủ nhân ông ...". Ðó là giai 
        đoạn triết lý phản tỉnh, khởi đầu bằng các làn sóng 
        "hiện sinh" (Existentialism), tiếp đến là các thuyết nhân 
        bản. Tổ chức nhân quyền của Liên Hiệp Quốc cũng nhấn 
        mạnh đến con người, vì con người và cho con người. Ðó 
        là hệ tư tưởng ngôi thứ nhất. 
        
        Con người đích thực của hiện 
        sinh là con người của giáo lý Vô ngã: 
        Nhưng con người là một hiện 
        hữu phức tạp của một tổng hợp thể vật lý (sắc 
        uẩn), tâm lý, tình cảm, ý chí và trí tuệ (thọ, tưởng, 
        hành và thức uẩn). Nó đứng giữa đám sương mù của tim 
        và óc, của quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự trở về 
        của hệ tư tưởng phản tỉnh ngôi thứ nhất là sự trở 
        về với con người đầy sương mù ấy và không nhận ra 
        nẻo vào con người đích thực của hiện sinh, con người 
        của hạnh phúc và chân lý. Thiền định thật sự chỉ 
        nẻo về con người đích thực ấy: con người đi ra khỏi 
        những tiếc nuối về quá khứ, những mơ ước về tương 
        lai, và không bị cuốn trôi bởi dòng thác ham muốn và sầu 
        hận của hiện tại. Ðấy là con đường tự chủ, tự tri, 
        tự trách nhiệm, tự phát triển bản thân. Tinh thần "tự" 
        ấy lấy mình làm hòn đảo, làm nơi nương tựa cho chính mình, 
        là tinh thần chỉ đạo cho một hệ thống giáo dục xây 
        dựng một mẫu người đầy tính người. Ở mặt dân tộc, 
        nó biểu hiện ra tinh thần độc lập, tự cường, tự 
        trọng, bất vọng ngoại, bất khuất, là một trong những đòi 
        hỏi cần thiết mà xã hội Việt Nam muốn học đường 
        Việt Nam đáp ứng. 
        
        2. Chân lý, tự do và hạnh phúc 
        Hai khát vọng thống thiết nhất 
        của con người là hạnh phúc và chân lý (hẳn nhiên là bao 
        gồm tự do). Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm 
        kiếm hai đối tượng đó. Không ai có thể phủ nhận rằng 
        con người sinh ra để sống hạnh phúc, chứ không phải để 
        khổ đau hay vì mục tiêu nào khác. Các mục tiêu lý tưởng 
        khác sở dĩ có giá trị, được chấp nhận là vì chúng 
        phục vụ cho giá trị tối thượng: con người và hạnh phúc 
        thật sự của con người. Thấy hạnh phúc, mang theo nó ý 
        nghĩa thấy rõ mình và cuộc đời, là thấy sự thật. 
        Cho đến nay, người ta vẫn tiếp 
        tục hỏi và trả lời về hạnh phúc và chân lý. Nghĩa là 
        người ta đang ở trên con đường tìm kiếm chúng. Ðó là lý 
        do của sự tồn tại và phát triển của các tư tưởng 
        hệ. Chừng nào nắm được hạnh phúc và chân lý, hay có 
        niềm tin vững chắc vào một con đường dẫn đến hạnh phúc 
        và chân lý, con người sẽ ngưng ngay vai trò của triết lý, 
        khép cửa lại tư tưởng hệ. Chừng nào còn tiếp tục tìm 
        kiếm, phó thác vận mệnh mình cho trí thức (nghĩa là cho các 
        hệ tư tưởng), con người còn tiếp tục thất vọng dài dài 
        trong thân phận: "mờ mờ nhân ảnh của người đi đêm" 
        (Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu). 
        Con người khát khao hít thở 
        hạnh phúc và chân lý như khát khao chung sống với người yêu 
        của họ, chứ không phải nói về người yêu cho đỡ nhớ, 
        như triết lý; hay ngắm nhìn ảnh tượng của người yêu, 
        như tôn giáo hình thức. Thiền định sẽ giúp con người ra 
        khỏi ngõ đường thất vọng kia, đến gặp mặt người yêu 
        - hạnh phúc - chân lý của họ. 
        Niềm hỷ, lạc của Sơ thiền đến 
        Tứ thiền sẽ là những cảm nhận hạnh phúc với tần số 
        rung động do vật chất hay do tương giao xã hội đem lại. Cũng 
        từ Sơ thiền đến Tứ thiền, qua tuệ quán, con người có 
        thể đắc quả Thánh từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán thấy 
        được sự thật của cuộc đời. Ðây là con đường sống 
        rất thực, đang mở cửa rộng vẫy mời chúng ta và thách 
        thức chúng ta đi vào thể nghiệm. 
        Tại đây, nếu giả định rằng 
        con người chấp nhận Thiền định là con đường đưa đến 
        hạnh phúc và chân lý, thì cuộc đời sẽ chấm dứt ngay các 
        cuộc nút chiến về tư tưởng hệ, sẽ chấm dứt ngay các 
        cuộc chiến do bất đồng quan điểm về con người ấy, và 
        sẽ tiết kiệm được những khoản chi phí khổng lồ về 
        giấy mực, bom đạn ... và rất nhiều xương máu. Chúng ta 
        thấy rõ một phương trời sáng, an lạc, hạnh phúc của nhân 
        loại mở ra ngay trước mắt. 
        
        3. Các tinh thần giáo dục của 
        Thiền định 
        Thiền định giáo dục ta tích 
        cực chấp nhận mình và xã hội mình đang sống, phấn đấu 
        khắc phục mọi khó khăn, không tiêu cực chạy trốn, và 
        thể hiện một số tinh thần vừa cải thiện cá nhân vừa 
        đóng góp vào việc xây dựng xã hội: 
        
          -- Thiền quán về lý Duyên sinh, 
          Vô ngã sẽ giúp ta có thái độ sống lành mạnh, thản nhiên 
          trước mọi biến chuyển và phát triển lòng dũng cảm, đức 
          tính vô úy (không sợ hãi). 
          -- Huấn luyện tâm lý rời xa các 
          điều ác và bất thiện dẫn đến hai thái độ sống tích 
          cực: tránh mọi việc làm phương hại đến tập thể và 
          tha nhân, làm các việc làm đem lại lợi ích cho tha nhân và 
          tập thể. 
          -- Hướng tu tập xả bỏ vị 
          kỷ của Thiền định là hiện thân của lòng vị tha, có 
          thể giúp người biết xả thân vì xã hội. 
          -- Tinh thần không tham ái giúp 
          người ta tránh tham nhũng, biết sống cần kiệm, liêm chính. 
          Tại đây, có cơ sở tâm lý vững chắc trong việc bày 
          trừ tham nhũng xã hội. Tiếng nói của nó sẽ hữu hiệu 
          hơn bất cứ tiếng nói nào khác nhân danh luật pháp hay 
          một đấng tối cao nào, thiều nền tảng tâm lý đầy tính 
          người. 
          -- Tinh thần tu tập đập vỡ các 
          sân hận và tính cố chấp sẽ là nhân tố tốt nhất cho 
          một tinh thần tập thể tích cực. Nó mở ra một hướng 
          văn hóa khai phóng đầy tính người và tạo dựng được 
          tốt đẹp tình đoàn kết keo sơn của dân tộc, yếu tố 
          quan yếu nhất quyết định sự tồn tại và phát triển 
          của dân tộc Việt Nam. 
          -- Tinh thần tinh cần, không buông 
          lung, không phóng dật, không lười biếng, sẽ phá đổ các 
          căn bệnh tiêu cực của xã hội. 
          -- Thiền chỉ và Thiền quán 
          (hay định và tuệ) sẽ là những nút bấm làm bung vỡ các 
          nguồn sáng đã đóng góp lớn lao vào công việc kiến 
          tạo xã hội và xây dựng văn hóa và văn minh. 
          -- Tinh thần tự chủ, trở về 
          nương tựa chính mình của Thiền định sẽ là nhân tố 
          chính của tinh thần độc lập của dân tộc, mở ra một 
          nền văn hóa rất là dân tộc, mang đầy Việt tính. 
         
        Thời đại Lý Trần chịu ảnh hưởng 
        lớn của giáo lý Thiền định của Phật giáo, dù chưa 
        thể hiện đúng mức những giá trị của một nền văn hóa 
        Thiền định, đã là những thời đại vàng son của lịch 
        sử: anh dũng đánh thắng giặc ngoài đầy hung bạo, đoàn 
        kết dân tộc keo sơn, và tổ chức tốt các mặt văn hóa, xã 
        hội, học thuật và quốc phòng. Hai thời đại đó cho ta 
        niềm tin về những đóng góp tích cực của một nền văn hóa 
        Thiền định trong việc dựng xây con người và xã hội 
        Việt Nam tốt đẹp. 
        Từ một số nhận thức cơ bản 
        trên về Thiền định , chúng ta có thể ổn định tâm lý 
        tự thân về cả hai mặt: an toàn tâm lý trong việc tu tập 
        của cá nhân và đáp ứng được thao thức chung về việc góp 
        phần xây dựng một cuộc sống hạnh phúc cho con người. 
        -oOo- 
        Mục 
        lục | Chương kế  |