Những vị Thiền sư đương thời (Living Buddhist Masters,
Jack Kornfield)
Wat Tow Kote là một tu viện lớn ở thành phố nằm ở vùng ngoại ô Nakorn Sri Thammaraj. Vùng này đã từng có một bãi biển, bởi vì mặt đất là cát, cây cối thưa thớt. Hơn phân nữa chùa dành cho hai khu vực lớn làm nơi hành thiền cho nam và nữ. Khu vực của các sư có hơn năm mươi cốc nhỏ nằm xung quanh rộng một cây số vuông, nơi đó người ta dành nhiều giờ để tu tập thiền đi và thiền đứng mỗi ngày. Ngoài ra khu vực này có một lò thiêu xác, ở đây hành giả có thể quan sát sự thiêu xác để thực hành về đề mục tử thi, để củng cố thêm cho sự tu tập của họ. Các hành giả thường dùng bữa cơm sáng và xế trưa trong một phòng lớn. Ngài Thiền sư khuyến khích việc tu tập thiền quán và giải đáp những vấn đề thắc mắc. Ngài thường thực hành thiền đi và đứng với các thiền sinh và những bài giảng về thiền của ngài được phát trên "ống loa" của chùa hàng ngày. Hơn mười người phương Tây đã đến học thiền ở tu viện Wat Tow Kote, và thiền sư Achaan Dhammadaro đặc biệt quan tâm đến họ. Ngài không nói được tiếng Anh, nhưng thường có thông dịch để cho các thiền sinh ngoại quốc hiểu. Lúc xuất bản quyển sách này, chúng tôi đã nhận được thông tin thiền sư Achaan Dhammadaro đã dời đến một ngôi chùa tỉnh lẻ miền bắc của Nakorn Sri Thammaraj, và ngài đang thu nhận đệ tử người Thái và người phương Tây ở đó. Trong phương pháp thiền của ngài thiền sư Achaan Dhammadaro nhấn mạnh đến niệm thọ. Nhờ chánh niệm liên tục về sự thay đổi của cảm thọ, nên chúng ta có thể thấy được tất cả sự cảm nhận của mình sanh diệt từng sát-na. Ngài giải thích, do bởi có nhãn căn và sắc trần nên có cảm thọ điều này là cơ bản của tất cả năm uẩn. Sự cảm nhận về năm uẩn khi chúng sinh diệt là những gì mà đức Phật muốn nói khi ngài hướng dẫnn chúng ta chánh niệm thân trong thân, thọ trong thọ, tâm trong tâm và pháp trong pháp. Thiền sư Achaan Dhammadaro sử dụng sự nhận thức cảm thọ theo từng sát-na như đã được cảm nhận trong thân, các cảm thọ và thậm chí những chuyển động vi tế của tâm là phương tiện trực cảm chân lý nội thân. Ðể giải thích sự phát triển thiền, ngài giải thích về sự chánh niệm là thế nào để chúng ta cảm nhận tất cả các căn, trực tiếp vào căn tim (theo truyền thống được biết, tim là nơi nương náu của tâm) khi tất cả sự cảm nhận, thậm chí tâm, đã cảm nhận khi cảm thọ sanh diệt biến mất ở tim, chúng ta nhận thấy chân lý của sự vô thường khổ và vô ngã. Ðiều này dẫn chúng ta đến chân lý sâu sắc của vạn pháp, chấm dứt phiền não, đắc chứng được Níp-bàn. Hỏi Ðáp về bản chất của Thiền quánDựa theo bài pháp của ngài Dhammadaro
Hỏi: Xin ngài vui lòng giải thích về cơ bản của đạo Phật? Ðáp: Ðức Phật dạy con đường chánh đạo dẫn đến hạnh phúc tối cao và an lạc. Con đường này khởi đầu từ sự hiểu biết về khổ cho đến sự đoạn trừ khổ được đức Phật dạy thì rất giản dị và trung thực gọi là thiền chánh niệm. Chánh niệm là cơ bản của tất cả sự tu tập. Hỏi: Chúng ta có thể hiểu con đường chánh đạo qua sự đọc và suy nghĩ về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo được không? Ðáp: Sách vở thì khác với việc tu tập và điểm duy nhất có khả năng đoạn trừ khổ đau bởi con đường cao quý của đức Phật. Sự hiểu biết trí tuệ đi đến từ sách vở và từ những lời dạy. Sự tu tập thì khác. Nó thật sự giống như những cuộc thí nghiệm trong phòng thí nghiệm thân tâm của quý vị. Khi một người hành thiền, được một vị thầy hướng dẫn và phát huy được chánh niệm và sự tập trung hoàn hảo, người đó tự mình nhận thức đầy đủ con đường chánh đạo. Ðiều này có thể thành đạt bởi sự tinh tấn liên tục. Nói một cách khác, hãy giữ chánh niệm trong từng sát-na với những tiến trình thân, thọ, tâm và đề mục tâm. Ðây là Tứ niệm xứ. Hỏi: Kết quả của con đường phát huy chánh niệm, thiền quán là gì? Ðáp: Người ta tu tập chánh niệm để nhận thức được giáo pháp trong chúng ta. Khi hành giả tu tập đúng đắn, nó dẫn đến việc đoạn trừ sự dính mắc vào các đối tượng tâm, và có thể chấm dứt nguồn khổ đau, vòng tái sinh. Vô minh và sự lơ là của tâm là cơ bản cho sự khổ đau này. Tất cả các căn của chúng ta như mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc chạm và tâm - phát sinh cùng một lúc với lục trần. Khi tâm thức phát sinh thì chánh niệm biến mất, sự biết đối tượng qua các căn dẫn đến sự thích và không thích. Ðiều này dẫn đến lòng tham ái về dục lạc liên tục xa hơn nữa đến sự chấp thủ, nghiệp và tái sinh, toàn thể con người chúng ta, thân và tâm được tạo nên bởi năm uẩn, phát sinh và hiện diện ở từng thức tái sinh ở sáu căn môn. Khi thích và không thích xảy ra, dẫn đến hành động tạo nghiệp, chúng ta tiếp tục đi vào con đường tái sinh và khổ đau. Thiền quán là phương thuốc diệt trừ sự tham ái bất tận này. Hỏi: Ðức Phật dạy về sự cần thiết để phát huy chánh niệm và sự tập trung. Xin ngài nói thêm về sự tập trung. Ðáp: Có ba loại tập trung được phát huy trong thiền. Hai trong ba loại này được phát huy trên con đường đến an chỉ định, và đây là cận hành định và an chỉ định. Mỗi phần này được phát huy bằng cách chú tâm vào một điểm trong đề mục thiền. Những hình thức thiền như vậy bao gồm những sự quán tưởng về những hình thức cố định hoặc các màu sắc, hoặc tập trung tâm vào một tình cảm an lạc đặc biệt như tâm từ. Khi cận hành định và an chỉ định được hành giả phát huy, an lạc và vắng lặng phát sinh, hành giả đạt an chỉ định trong đề mục, và không có những trở ngại có thể làm phiền hành giả: Sự đoạn trừ tạm thời những phiền não này - một trạng thái thoát khỏi ham muốn, khó chịu và bối rối - việc này chỉ tồn tại khi hành giả giữ tâm vào đề mục thiền. Ngay khi tâm thoát khỏi an chỉ định trong đề mục thiền, hạnh phúc biến mất và tâm lại bị phiền não bao vây. Ngoài ra, còn có một sự nguy hiểm của sự tập trung này. Bởi vì nó không phát sinh ra trí tuệ, nó có thể dẫn hành giả bám víu vào hạnh phúc hoặc thậm chí sử dụng sai những năng lực của sự tập trung, do đó thực tế đã tạo thêm phiền não. Loại thứ ba của loại tập trung là những gì được đề cập trong bát chánh đạo là chánh định hoặc sự tập trung hoàn hảo. Ðây là sự tập trung được phát huy theo từng sát-na cơ bản trong thiền quán. Chỉ tập trung liên tục theo con đường chánh niệm dẫn đến sự đoạn trừ phiền não. Sự tập trung này không được phát huy bằng cách chú tâm bất động vào một đề mục, nhưng bằng cách giữ chánh niệm về những cảm thọ thay đổi của thân, cảm giác, thức và đề mục tâm. Khi hành giả có một chánh niệm vững chắc liên tục trong nội thân và tâm sẽ dẫn đến sự đoạn trừ tái sinh. Nhờ sự tập trung này, chúng ta phát huy được khả năng nhận thức rõ ràng về năm uẩn - sắc, thọ, tưởng, hành, thức- đã tạo nên những gì mà chúng ta gọi là đàn ông và đàn bà. Hỏi: Xin ngài giải thích rõ ràng thêm về sự phát triển tập trung liên tục. Ðáp: Có hai điểm quan trọng để thực hiện. Ðầu tiên đó là do cảm thọ phát sinh từ sự xúc chạm ở các căn môn do đó chúng ta phải tu tập thiền quán. Sắc uẩn là cơ bản cho sự phát huy tập trung liên tục và quả trí tuệ. Do đó chúng ta phải giữ chánh niệm về sự cảm thọ hoặc những cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm ở mắt, tai, mũi, lưỡi và thân tâm. Ðiểm quan trọng thứ hai là sự liên tục, nó là bí quyết của sự thành công trong thiền. Hành giả phải cố gắng giữ chánh niệm ngày lẫn đêm, từng khoảnh khắc, và như vậy phát huy nhanh chóng trí tuệ và sự tập trung chính xác. Chính đức Phật dạy rằng, nếu một hành giả giữ chánh niệm liên tục tong bảy ngày và bảy đêm, người ấy sẽ đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Do đó nền tảng của thiền quán là sự giữ chánh niệm liên tục về những cảm thọ phát sinh từ sự xúc chạm ở sáu căn. Hỏi: Ngài nói sự khác biệt về tâm chánh niệm đối với trạng thái tâm bình thường của chúng ta như thế nào? Ðáp: Mỗi người có những mức độ tâm chánh niệm. Một cuộc sống kinh doanh bình thường, hay lái xe, làm bánh mì, vân, vân, đòi hỏi chúng ta giữ chánh niệm với giây phút hiện tại ở một mức độ nào đó. Nhưng điều này thường thay đổi từng phút với sự quen làm lâu dài. Một người không có chánh niệm thì hoàn toàn điên loạn, hoàn toàn lơ đãng, và xa cách mọi người. Nhưng tất cả tâm chánh niệm bình thường này chúng ta có thể đề cập như là tục đế. Thậm chí tâm chánh niệm có liên quan đến những hành động đạo đức cũng là tục đế. Ðể đạt đến Níp-bàn, tâm chánh niệm phải trở nên siêu thế. Nhờ chánh niệm vào thân tâm và đề mục thân chúng ta có thể hiểu toàn bộ vũ trụ ở bên ngoài chúng ta. Ðể nhận thức điều này tất cả những việc chúng ta phải làm là thiết lập một tâm chánh niệm liên tục về thân ở tất cả các oai nghi. Hỏi: Sự tu tập này có liên hệ như thế nào đối với bát chánh đạo của đức Phật? Ðáp: Bất cứ khi nào có chánh niệm thì tự động kèm theo là chánh định và chánh kiến, hai yếu tố cơ bản khác của Tứ diệu đế. Những điều này có nghĩa là việc tu tập Tứ diệu đế được phát huy khi chúng ta thiết lập tâm chánh niệm về thân, thọ, tâm, pháp cho đến điểm cảm nhận rõ ràng cảm thọ xúc chạm ở bốn cảm thọ này. Ðặc biệt điều này là chú tâm liên tục đến sự sanh diệt của sự cảm nhận. Sự chánh niệm của bất cứ bốn khía cạnh của thân tâm thì tốt tương đương khi tất chúng có sắc uẩn làm cơ bản. Ðúng hơn là trả lời thêm bất cứ những câu hỏi, hãy để tôi giải thích chi tiết lớn lao hơn nữa về sự tu tập. Chánh niệm chỉ có thể đôi lúc xuất hiện vào một trong bốn nền tảng. Với tâm chánh niệm được thiết lập, và sự tập trung kèm theo sự hiểu biết, hành giả sẽ có thể nhận thấy bốn yếu tố (tứ đại) tạo nên từng sát-na sắc uẩn cơ bản. Hành giả cũng sẽ bắt đầu phân biệt giữa nội tâm và ngoại cảnh của thân. Ðây là hai điểm quan trọng. Hãy nhớ rằng tất cả bốn nền tảng của tâm chánh niệm có sắc uẩn làm cơ bản của chúng. Do bởi sự việc như thế, chúng ta đặt nặng việc hành thiền phải bắt đầu với việc giữ chánh niệm về thân là điểm chủ yếu của nó. Chúng ta phải phát triển chánh niệm trên sáu căn bằng cách cảm nhận chúng như là những cảm xúc vi tế biểu hiện trong thân. Một điểm quan trọng khác đã được đức Phật dạy trong bài kinh về sự chánh niệm, để có sự nhận thức về thân trong thân, những cảm giác trong cảm giác, tâm trong tâm và pháp trong pháp. Nó là cơ bản tuyệt đối cho sự tu tập của chúng ta để hiểu được những gì đức Phật muốn nói trong bài kinh này. Làm cách nào chúng ta có thể chánh niệm thân trong thân? Nội thân, ngoại thân là gì? Ngoại thân bao gồm tứ đại (đất, nước, gió, lửa) bằng tỷ lệ 20:12:5:4. Thân này được tạo ra và bị khống chế bởi nghiệp do sự vô minh. Ngoại thân được sinh ra, lớn lên và hoại diệt. Tóc đen trở thành tóc bạc, răng rụng, tất cả đều đi ngược với ước muốn của chúng ta. Tấm thân này từng được chúng ta cho ăn mặc đẹp và xức dầu thơm cẩn thận, cuối cùng bị vùi dưới ba tấc đất hoặc còn lại chỉ một nắm xương. Nhưng đức Phật đã tìm được con đường để vượt qua cái chết. Kĩ thuật của ngài là hiểu được nội thân với sự giúp đỡ ngoại thân. Ở phần nội thân, ngài chỉ thấy năm uẩn liên tục thay đổi, trong trạng thái bình thường của ham muốn và chấp thủ, tuy thế, người ta không thể nhìn thấy được phần nội thân. Ham muốn và chấp thủ tạo nên một ảo tưởng liên tục và vì thế sự sanh diệt của năm uẩn không được người ta nhận ra. Do vậy, sự tu tập chánh niệm là cần thiết. Nếu một người không thực hành chánh niệm, người ấy không thể thấy được nội thân, năm uẩn, người ấy không thể đoạn trừ phiền não và không hiểu được tứ đế. Người tu tập thiền phải nhận thức liên tục về sự sanh diệt của các uẩn về thân. Ðây là một điều khó khăn với người bình thường. Vì thế người ấy không thấy được sự thật về bản thân của mình. Chỉ khi hành giả có đủ sự tập trung và chánh niệm thì sẽ thấy rõ ràng về những đặc tính thật của thân. Sau đó hành giả sẽ tự mình cảm nhận được chân lý của đức Phật. Ðể nhận thức được nội tâm, hành giả phải quan sát với cái tâm khách quan. Hành giả phải thiết lập tâm chánh niệm bất cứ ở nơi nào có cảm giác, ví dụ duỗi người ra, cong mình xuống. Qua sự nhận thức chính xác này, hành giả sẽ nhận thức đặc tính thật của vô thường ở tất cả mọi cử động và oai nghi. Hành giả sẽ nhận thấy thân sinh diệt ra sao trong từng sát-na. Ngay khi hành giả nhận thức được điều này hành giả thấy được nội thân thật, hành giả thấy được năm uẩn. Nhận thức được nội thân này là nhờ nỗ lực. Vì thế, Tứ niệm xứ sẽ được tìm ra trong những cảm giác của chúng ta bên trong của thân, không ở từ bên ngoài. Chúng được cảm nhận bởi sự nhận thức thân bằng thân, cảm thọ bằng cảm thọ, tâm bằng tâm và pháp bằng pháp. Chánh niệm về thân là khía cạnh đầu tiên của thiền quán. Tiếp theo là chánh niệm cảm thọ. Có năm hình thức cảm thọ:
Ðể có sự cảm nhận loại cảm thọ này, ở một mức độ bình thường là ngoại cảm thọ. Bằng mức độ cảm thọ bình thường có nghĩa là sự chấp thủ bình thường về sự thích thú và sự khó chịu cho đến đau đớn. Sự chấp thủ này có thể ở đó và có thể người ta không thể nhận thức được nó, hoặc nếu người đó biết, người đó không thể chấp nhận nó thoải mái. Ở trường hợp như thế, sự chấp thủ còn tồn tại trong một trạng thái tiềm ẩn hơn. Tuy thế sự cảm nhận dường như được cảm nhận bởi "cái tôi". Ðiều này có nghĩa là có sự chấp thủ. Sự việc này xuất phát từ việc xác nhận với những cảm giác, tin chúng là "tôi" "của tôi" "bản thân tôi". Thậm chí trong cảm thọ trung tính có ảo tưởng và sự dính mắc. Như vậy, bất cứ cảm giác nào có sự chấp thủ ép buộc hoặc dính mắc đều có tham, sân hoặc ảo tưởng đi với nó, đó là ngoại cảm giác. Ngoại cảm giác tạo ra sự chấp thủ, bám víu dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi. Thiền quán đưa chúng ta đến sự biết về cảm giác nội tâm. Bằng cách loại trừ sự dính mắc và si mê, người tu tập có thể cảm nhận được cảm giác nội tâm. Cảm thấy "tôi đau khổ" cho thấy rõ sự hiện hữu của sự dính mắc với ngoại cảm giác. Ðể đem lại sự hiểu biết, hành giả phải nhận thức qua ngoại cảm giác đến nội cảm giác hoặc năm uẩn. Bất cứ khi nào có xúc chạm, cảm giác phát sinh. Bất cứ khi nào có cảm giác, tham dục phát sinh. Bất cứ khi nào có tham dục, chấp thủ phát sinh ở sáu căn. Nếu người tu tập thấy được nội cảm giác, người ấy có thể đoạn trừ chấp thủ. Hành giả phải nhận thấy nội cảm giác bằng cách thiết lập sự nhận thức bằng Tứ niệm xứ như là cảm nhận về thân, thọ, tâm và đối tượng tâm. Như thế hành giả sẽ nhận thức cảm thọ phát sinh như thế nào dựa trên sắc uẩn. Dù rằng đức Phật dạy việc hành thiền là chánh niệm toàn bộ sáu căn, nhưng dễ dàng nhất là theo dõi các cảm thọ qua các cảm xúc của thân. Ðiều này có thể thực hiện ở bất cứ oai nghi nào. Ví dụ, trong lúc hành giả đang sử dụng oai nghi ngồi, hành giả phải tập trung vào phần thân thể xúc chạm với mặt đất và phải cảm nhận cảm thọ xúc chạm. Khi hành giả thiền tiến bộ tập trung vào sự xúc chạm, hành giả sẽ thấy năm loại cảm giác phát sinh ra sao nơi sự xúc chạm phát sinh dựa trên sắc. Bất cứ khi nào hành giả thấy được sắc uẩn như là cơ bản của sự cảm thọ và cũng như khi hành giả nhận thấy sắc và thân là vô thường, sự cảm thọ cũng được hành giả nhận thấy là vô thường. Mở rộng tuệ giác này, hành giả sẽ nhận thấy tất cả các uẩn gồm trong những phần của tưởng sự nhận thức chính là những yếu tố tâm và tâm thức thì cũng vô thường. Chúng vô thường, khổ và vô ngã. Hành giả không cảm nhận được tam tướng trước khi hành thiền bởi vì sự có mặt của chấp thủ. Ngay khi hành giả đoạn trừ chấp thủ, hành giả có thể nhận thức được sự cảm nhận bằng chính bản thân về tứ đế. Bây giờ chúng ta phải hiểu biết định tâm thế nào trong lúc hành thiền, cả ngoại lẫn nội tâm. Ngoại tâm có nghĩa là tâm tục đế có liên hệ với những đối tượng ngoạị cảnh. Ðây là cái tâm nghĩ về nhà cửa, vợ con, quá khứ, tương lai... nói cách khác tâm đang nghĩ về mọi thứ mà không cảm nhận trực tiếp năm uẩn. Ngoại tâm thì đi cùng tham ái, bám víu, phân biệt và v.v. Ðể biết được nội tâm, chúng ta phải tìm kiếm, sử dụng sắc uẩn làm cơ bản, như chúng ta đã thực hiện trong trường hợp cảm thọ. Ðiều này được thực hiện tốt nhất bằng cách suy niệm về cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc tâm - cảm thọ vi tế của thân phát sinh từ tâm. Khi có sự xúc chạm qua sáu căn môn với bất cứ đối tượng nào, sau đó người ấy cảm nhận sự cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc của tâm. Như thế chúng ta nhận thức bằng tiến trình tâm trong tâm. Ðiều này được biết là nội tâm. Bằng sự suy niệm về cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm của tâm, người ấy sẽ hiểu trực tiếp vào năm uẩn, gọi là sắc uẩn thọ, tưởng, các yếu tố tâm và tâm thức và hành giả sẽ nhận thấy chúng luôn luôn sinh diệt ra sao. Khi hành giả tu tập đã đến sự cảm nhận vi tế của nội tâm, có thể phát sanh nhiều loại hình ảnh khác nhau như mặt trăng, mặt trời, các ngôi sao, hoặc các thiên thể tưởng tượng. Vào lúc này, đôi lúc tâm trở nên thụ động và nhận thức hạnh phúc hoặc cảm nhận những cảm giác... thậm chí cảm tưởng thoát khỏi phiền não và tin rằng mình đã giác ngộ. Người ấy có thể bị bám víu vào tình trạng thiền này. Hành giả phải dùng trí tuệ để thể nhập vào tất cả những cảm nhận đó và thấy rõ ba tướng. Ðiều đó được thực hiện bằng cách luôn trở lại với sự cảm thọ bằng cách suy niệm về cảm giác cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc của tâm. Chỉ bằng tiến trình này hành giả phát huy sự thanh tịnh cao nhất của giới đức và trí tuệ. Ðừng để sự chánh niệm rời khỏi cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc của tâm. Hành giả, trong lúc nhận thức bản chất của cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc của tâm, phải nhận thức xa hơn về việc nó phát sinh thế nào, tâm thức cảm nhận những sự việc ra sao. Hành giả sẽ thấy rằng tâm thức phát sinh trong sự liên hệ với tâm biết rõ những sự việc rõ ràng hơn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, thức. Hành giả nên nhận thức sâu xa hơn về chức năng của những căn khác như thế nào. Ví dụ, hành giả phải quan sát sự cảm nhận những hình thức khác nhau của chúng như thế nào qua mắt, sắc (hình dáng) và nhãn thức đến cùng nhau. Cảm nhận tiến trình này, xem xét tất cả điều đó có liên hệ trong sắc tướng, hành giả có thể hiểu vô ngã và không có linh hồn như thế nào. Ðây là kết quả tự nhiên của sự phát triển việc tu tập thiền đúng đắn. Ðôi lúc, khi có sự chánh niệm và sự tập trung mạnh mẽ xuất phát từ Tứ niệm xứ, tâm hành giả được nâng lên cao và những cảm nhận trống rỗng như thể không có ngã, không có nội ngoại tâm. Khi sự việc này diễn ra, hành giả có thể cảm thấy như thoát khỏi phiền não. Nhưng chấp thủ vẫn còn hiện diện trong trạng thái tiềm ẩn trong sự rỗng không này. Bất cứ lúc nào sự việc này xảy ra, hành giả phải ghi nhận rằng hành giả đã đi lạc khỏi con đường chính đạo để dẫn đến Níp-bàn và đang đi đến an chỉ. Hãy lưu ý rằng sự rỗng không của Níp-bàn thì thật khác biệt với an chỉ. Sự rỗng không như thế là kết quả của thiền thẳng đến Níp-bàn là đối tượng. Ðể cảm nhận điều này có nghĩa là liên tục trao dồi chánh niệm. Khi hành giả nhận thấy rõ nội tâm, hành giả sẽ thấy rằng nó là một nhóm tổng hợp nhiều thứ. Khi tuệ giác phát triển sâu xa hơn, hành giả có thể cảm nhận sự thay đổi theo từng sát-na. Sau đó cái ý tưởng chấp ngã đã bị đập tan và cảm nghĩ về sự vô ngã được thiết lập. Ðiều này đoạn trừ được huyền thoại về linh hồn. Những đặc tính khác của sự rỗng không trở nên rõ ràng khi hành giả liên tục theo dõi các oai nghi với tâm chánh niệm, thân được nhận ra là nguồn gốc của khổ đau. Huyền thoại về hạnh phúc bị phá vỡ và sự đau khổ thật sự tồn tại trong thân được cảm nhận. Hành giả nhận thức về vô thường sinh diệt trong thân tâm từng sát-na tự động phá vỡ huyền thoại tương tục tính (sự liên tục). Hành giả có thể thấy tam tướng của vô thường, khổ, vô ngã trong từng hiện tượng mà người ấy cảm nhận. Sự chánh niệm trong nội và ngoại tâm về giáo pháp là khía cạnh cuối cùng của thiền. Dù một người xấu hoặc tốt, hạnh phúc hoặc không, dù sẽ nhận thức được Níp-bàn hoặc không, tất cả đều tùy thuộc vào tâm. Người ấy phải nỗ lực tinh tấn trong nền tảng của giáo pháp và nhận được sự thật sâu sắc trong giáo pháp. Nội pháp thế gian có liên hệ nhau mật thiết. Hành giả phải tách rời chúng riêng biệt. Có nghĩa là hành giả đừng dính mắc vào bên ngoài của giáo pháp là lời và hình thức của giáo pháp. Nó dùng để so sánh pháp thế gian với tâm bản đồ để chỉ pháp chân đế. Ðức Phật nói pháp thế gian có tám mươi bốn ngàn pháp môn được miêu tả phù hợp những điều kiện tinh thần của từng cá nhân. Bản chất của pháp thế gian được đức Phật thực hiện rõ ràng khi ngài nhặt một nhúm lá trong tay và hỏi các môn đồ của ngài, nó nhiều hay ít so với lá trên rừng. Các tỳ khưu trả lời: "Ít, thưa Thế tôn". Rồi đức Phật nói: "Giáo pháp mà ta đã chứng đạt có thể so sánh với lá trên rừng. Nhưng một người có trí tuệ biết áp dụng giáo pháp thực tiễn, như vậy giáo pháp giống như nắm lá trên tay thì đủ rồi". Nắm lá này đề cập đến Tứ diệu đế. Tất cả nước trong biển đều có vị mặn; cũng vậy bất cứ lời dạy nào của đức Phật cũng đều nhằm vào sự giải thoát và đoạn trừ phiền não. Các bài kinh khác giúp chúng ta thấy rõ con đường chính đạo với những khía cạnh khác nhau. Do đó những bài kinh này rất quan trọng và hữu ích, nhưng chỉ dành cho những người có trí tuệ và khôn ngoan. Nếu những ai không có sự khôn ngoan, những ai chấp thủ vào những lời kinh, cho đến những khái niệm về pháp thế gian. Nó giống như con dao hai lưỡi. Thậm chí các thuật ngữ Ngũ uẩn hoặc Tứ diệu đế đều là pháp thế gian. Hành giả phải đoạn trừ sự chấp thủ với pháp thế gian. Bởi vì sự chấp thủ làm người ta bị dính mắc đến pháp thế gian, trích dẫn lời đức Phật hoặc đơn thuần chỉ suy nghĩ về giáo pháp của ngài. Hành giả phải phá bỏ pháp thế gian và thể nhập vào sự sâu kín vào nội tâm. Chúng ta có thể nói pháp thế gian là triệu chứng và pháp chân đế là nguyên nhân. Tất cả các pháp đều có nhân sinh khởi. Hành giả phải liên tục thể nhập pháp chân đế bằng cách liên tục giữ chánh niệm về cảm thọ phát sinh từ sự xúc chạm của tâm như là đề mục chính của chúng. Với sự tu tập theo cách này, hành giả sẽ thấy rõ tất cả những giáo pháp thật sự, như ngũ uẩn trong hành giả. Ðể đề cập đến kĩ thuật của sự tu tập đức Phật dạy: "Ai thấy được giáo pháp, tức thấy được Như Lai". Như vậy hành giả thấy thân bằng thân, tâm bằng tâm, cảm thọ bằng cảm thọ, và đề mục tâm bằng đề mục tâm, hoặc giáo pháp bằng giáo pháp. Hiểu được sự quan trọng sâu sắc của những lời nói này. Bây giờ chúng ta phải ghi nhận tất cả các pháp được nhận ra đều ở trong Tứ niệm xứ. Ðiều này có nghĩa là khi hành giả thấy thân trong thân cũng bao gồm cảm thọ, tâm và đề mục tâm. Cũng giống như thấy cảm thọ bằng cảm thọ, tâm bằng tâm, hoặc giáo pháp bằng giáo pháp. Tất cả bốn phần này đều có thể tìm thấy trong mỗi phần của nó, bởi vì chúng không thể sinh khởi riêng rẽ. Khi hành giả nhận thấy năm uẩn sinh diệt ở từng mỗi phần Tứ niệm xứ, lời nói "Tất cả các uẩn đều vô thường" sẽ trở nên rõ ràng với hành giả, dù chúng là nội hoặc ngoại, có sự sống hoặc không, thấy hoặc không thấy. Tất cả các pháp đều chối bỏ ngã hoặc linh hồn. Pháp thế gian, những khái niệm, lời kinh, thậm chí pháp chân đế, ngũ uẩn là một phần bản chất thật của chúng ta, mà không có sự thường còn của bản ngã. Khi hành giả thấy được, hiểu được, thể nhập như thế, hành giả sẽ đoạn trừ sự tham muốn đang níu kéo. Sau đó hành giả sẽ cảm nhận con đường cao quý và xa hơn nữa là đoạn trừ phiền não và ảo tưởng về ngã. Ðể phát huy sự tu tập này, điều duy nhất mà hành giả cần đến là trung thành và năng nổ. Thậm chí trẻ em, người say sưa, người điên, người già, hoặc người mù chữ đều có thể phát huy chánh niệm. Nếu có lòng tin với khả năng giác ngộ của đức Phật và với tứ đế, hành giả có thể tiến bộ trên con đường chánh đạo. Thông thường, người ta có thể duy trì giáo pháp theo ba cách: thứ nhất, người ấy có thể cung cấp các tư liệu cho những người đang tu tập. Thứ hai, người ấy có thể ủng hộ giáo pháp qua sự nghiên cứu kinh điển và sự phiên dịch giáo pháp. Thứ ba, người ấy duy trì giáo pháp bằng cách tu tập và nhận thức. Ðây là sự đáp ứng của những sự hoàn thiện. Thực tế mọi người phải duy trì giáo pháp bằng cách tu tập dẫn đến sự nhận thức bởi vì sự nhận thức và giải thoát là nền tảng của Phật giáo. Ðây là những gì mà đức Phật thật sự truyền dạy. Mọi người đều có khả năng nhận thức bởi vì chân lý tồn tại ở trong mỗi chúng sinh. Người tu tập chân thành là người ủng hộ Phật giáo. Ðây là hạnh phúc cao cả nhất. Chúng ta phải có sự quyết định chính chắn. Chúng ta phải có sự nhất quyết để niệm thân trong thân, cảm thọ trong cảm thọ, tâm trong tâm và pháp trong pháp từng sát-na. Chúng ta phải tu tập Tứ niệm xứ. Tham muốn sinh khởi ở sáu căn môn. Như thế, sự suy niệm chánh định sử dụng sự cảm thọ để ngăn chặn ham muốn ở các căn môn là chìa khoá để tu tập. Nó sẽ dẫn đến việc đoạn trừ chấp thủ và để giải thoát. Chúng ta hãy tu tập và giải thoát nghiêm túc. Chúng ta đừng nên xao lãng để hái hoa ở ngoài con đường tà đạo, bởi vì có một con đường dài nữa để đi. Con đường dạy cho chúng ta thoát khỏi khổ đau đó là kết quả tử, sanh, già, chết. Ðó là con đường dẫn đến Níp-bàn, đoạn tận và giải thoát để chấm dứt ảo tưởng về bản ngã đi đến an lạc. Sự tu tập thiền quán dựa theo Tứ niệm xứ bắt đầu bằng sự chú tâm vào thân trong thân. Hành giả thực hiện sự việc này thật tốt để có chánh niệm của sự cảm giác ở ngay giữa lòng bàn tay (giữa cổ tay và các ngón tay) và nhấc bàn tay và cẳng tay một khoảng ngắn, ba đến sáu inch tăng thêm từ đường chân trời đến đường thẳng đứng và hạ xuống trở lại. Hãy tập trung chánh niệm vào cảm giác vi tế sinh và diệt trong bàn tay mỗi lần bàn tay cử động. Ðầu tiên nó sẽ cảm thấy như là việc nhấc bàn tay lên theo một cách bình thường. Sau đó yếu tố chánh niệm mạnh mẽ hơn trong khi chú tâm vào sự cử động của bàn tay, sẽ phát sinh một cảm giác rõ ràng hơn lúc ban đầu, thông thường giống như dòng điện nhè nhẹ. Khi bàn tay ngừng cử động, cảm giác này sẽ biến mất. Với sự tu tập và sự chú ý gia tăng, tuệ giác sẽ phát sinh, như thế hành giả sẽ nhận thức rõ ràng hơn vể cảm giác sinh diệt như thế nào mỗi khi bàn tay cử động. Xa hơn nữa, sự chánh niệm và sự tập trung vào cảm giác này sẽ dẫn đến sự nhận thức cảm giác sanh diệt khắp châu thân. Sự việc này sẽ dẫn đến sự cảm nhận đến trái tim, có nghĩa hành giả sẽ cảm thấy những cảm giác sinh diệt ở trong vùng tim của người ấy cùng một lúc những cảm giác sinh và diệt trong bàn tay. Sau một thời gian tu tập sâu sắc hơn, năng lực của tập trung và chánh niệm sẽ mạnh mẽ để nhận thức được sự sanh diệt của cảm giác vi tế ở tim cùng một lúc với bất cứ cảm giác nào được ghi nhận trong thân. Từng khoảnh khắc (sát-na ) nhận thức về cảm giác trong sự cử động của bàn tay hoặc cử động thân khác sẽ đi thẳng vào sự chú tâm ở tim. Sự việc này sẽ được phát huy sâu hơn trong tất cả các oai nghi. Tu tập liên tục một ngày, hành giả có thể thay đổi các oai nghi. Trong lúc ở oai nghi đứng, hành giả phải giữ chánh niệm về cảm xúc phát sinh từ sự xúc chạm của đôi chân với đất. Việc tu tập về thiền đi, hành giả phải nỗ lực ghi nhận sự thay đổi của cảm giác từng sát-na ở lòng bàn chân đang cử động. Trong lúc thiền với oai nghi nằm hành giả phải giữ chánh niệm về sự cảm thọ theo những nơi thân xúc chạm tấm chiếu. Ở tất cả mọi oai nghi, tâm chánh niệm sẽ phát huy từ cảm giác thô liên tục đến sự cảm nhận rõ ràng hơn về sự sinh diệt của tất cả sự cảm thọ (cảm giác) từng sát-na. Với một tâm chánh niệm mạnh mẽ hơn, hành giả cũng sẽ ghi nhận rõ ràng hơn sự đồng sanh diệt của cảm thọ ở tim. Sau đó hành giả không cần thiết cử động bàn tay để cảm nhận sự cảm thọ (cảm giác) ở phần tim. Sự tu tập của hành giả có thể phải phát huy liên tục ở tất cả các oai nghi khác. Bây giờ các cảm giác ở tim sẽ mạnh mẽ hơn. Các triệu chứng và những sự đau đớn tinh vi hành giả có thể cảm nhận được. Tất cả các căn môn sẽ trở thành một phần của thiền định. Lúc ban đầu, hành giả sẽ nghe âm thanh bình thường. Sau đó những âm thanh đó sẽ được cảm nhận như là những sự cảm thọ trên màng nhĩ. Cuối cùng với sự tập trung và chánh niệm mạnh mẽ, hành giả sẽ ghi nhận những âm thanh như là những cảm thọ thuộc về thân - như những cảm thọ sanh diệt ở phần tim. Sự vắng lặng càng vi tế hơn, tất cả các căn khác sẽ được tham gia vào việc hành thiền. Cuối cùng, vị, hương và hình ảnh sẽ được cảm nhận như là thay đổi cảm thọ, đầu tiên ở cơ quan cảm nhận, và sau đó ở tim. Sự sử dụng chánh niệm cảm thọ khi nó đi và đến là công cụ trực tiếp để đoạn trừ chấp thủ cho đến bất cứ hình thức đặc biệt nào hoặc sự khoái cảm khi các căn sinh khởi. Vi tế hơn tất cả là tâm, là căn thứ sáu cũng sẽ trở nên rõ ràng khi nó sinh diệt. Sau đó hành giả sẽ cảm nhận sự cảm thọ phát sinh từ sự xúc chạm của tâm. Khi một ý tưởng sinh khởi, hành giả sẽ cảm nhận một sự cảm thọ ở tim. Ðây là cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm tâm. Bây giờ hành giả sẽ có đủ sức mạnh của tâm để theo dõi sự di chuyển của tâm từ khi khởi đầu của những ý tưởng cho đến chấm dứt. Họ cũng sẽ có thể cảm thấy con đường của sự cảm thọ khi tâm di chuyển từ tim lên phía sau cổ và trên đầu. Ở điểm này, hành giả có cảm nhận sự phát sinh của những hình ảnh khác nhau, và những ánh sáng rực rỡ, màu trắng hoặc có màu sắc. Những điều này thật kỳ lạ và có thể che lấp sự thật về những cảm nhận của chúng ta. Do đó hành giả phải đặc biệt chú tâm đến những hiện tượng như thế. Thay vào đó hãy tập trung thẳng vào sự cảm thọ khi nó cảm nhận trong tâm. Trong mỗi sự tập trung, hành giả sẽ thấy được tiến trình sinh diệt của việc cảm nhận. Ý tưởng có thể phát sinh nhưng lập tức sẽ diệt. Những ký ức, những kế hoạch cũng sẽ đoạn diệt. Tất cả những điều này sẽ đoạn diệt ngay lập tức khi năng lực chánh niệm trong giờ phút hiện tại thể nhập rõ vào trong cảm thọ của chúng sinh. Khi tu tập chuyên cần thậm chí chúng ta có thể thấy sự phân chia rõ giữa việc cảm nhận bên trong và hình thức bên ngoài cho đến khi nào chúng ta thể nhập được chân lý của sự nhận thức uyên thâm của ta. Ðiều cơ bản trong sự thực hành là hành giả phải duy trì tâm chánh niệm về cảm thọ liên tục trong mọi oai nghi. Phương pháp này, hành giả sẽ cảm nhận trực tiếp thân trong thân, thọ trong thọ, tâm trong tâm, pháp trong pháp. Cảm thọ, xúc chạm, và sự phát huy của sự nhận thức từng khoảnh khắc xuyên qua nền tảng của tâm, đây là điều chính yếu. Cuối cùng, hành giả sẽ cảm nhận tất cả năm uẩn sinh và diệt từng sát-na ra sao. Lúc này, hành giả trực tiếp cảm nhận sự thay đổi liên tục của năm uẩn, đây là chân lý mà đức Phật đã dạy. Khi nào tâm hoàn toàn thanh tịnh, tập trung và quân bình, thì hành giả sẽ cảm nhận được cả cái thân, tất cả sáu giác quan như cảm thọ trong tâm thức. Toàn thân thể, bây giờ chỉ có cảm thọ hoặc sự chuyển động sinh và diệt với mỗi khoảnh khắc, hành giả sẽ không còn cố chấp vào nữa. Hành giả sẽ thấy tam tướng rõ hơn. Chúng ta được tạo thành do bởi năm uẩn. Tất cả năm uẩn này sinh và diệt nhanh chóng. Toàn thân hành giả cảm nhận như là sự chuyển động liên tục, đây là vô thường, khổ và vô ngã. Sự cảm thọ ở bất cứ sáu căn nào thì đều đau khổ, luân hồi, sinh diệt. Cuối cùng hành giả sẽ cảm nhận sự an lạc của Níp-bàn. Ðây là con đường thực sự của đức Phật đã dạy. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sử dụng cơ duyên của mình ngay trong kiếp này để tu tập. Chỉ có một con đường để chấm dứt đau khổ thôi. Mong lời khuyên này sẽ hữu ích cho mọi người. Cầu xin cho chúng sinh được sự an vui hạnh phúc. |
[Main Index] | Last updated: 01-01-2000 |
Web
master: binh_anson@yahoo.com |