BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Pháp Hiển, Nhà chiêm bái
Thích Minh Châu (1963)
Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1997)


Phần II

Hoàn cảnh Phật giáo cùng đời sống Tăng lữ
tại Ấn độ và Tích lan trong thế kỷ thứ V
qua ký sự của Pháp Hiển

(tiếp theo)


4. Việc thờ cúng Xá-lợi

Việc thờ cúng Xá-lợi dường như đã bắt đầu từ lúc Phật còn tại thế, khi đức Phật cho Bhalluka và Tapassu một ít móng tay và tóc của Ngài để về thờ. Và sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, tro hỏa táng nhục thân Ngài được phân phối cho 80 quốc gia để xây tháp cúng dường. Khi viếng Ấn Ðộ và Tích Lan, Pháp Hiển đã chứng kiến sự thờ cúng Xá lợi được thực hành một cách rộng rãi tại các nước ngài đã đi qua và đã ghi lại trong ký sự. Ðây là một đề tài rất thú vị để nghiên cứu.

Xá-lợi có thể được phân làm 3 loại. Ðầu tiên là Tro còn lại sau khi hỏa táng nhục thân Phật; rồi đến những di cốt thuộc về thân Phật như xương sọ, răng... Và cuối cùng là những vật dụng mà đức Phật đã dùng lúc sinh tiền như: Y, đồ chải răng... hoặc những vật có liên hệ ít nhiều đến Phật như là cái bóng của Ngài để lại trong hang động, tảng đá Ngài ngồi Thiền... Không những người ta đảnh lễ cúng dường Xá-lợi cuả chư Phật trước ngài và Xá-lợi của các đại đệ tử.

A- Xá-lợi Tro của Phật

Pháp Hiển ghi lại rằng tại Câu-thi-na, những chùa tháp được xây cất tại những ngày xưa 8 Quốc vương đã phân chia Xá-lợi của Phật. Khi đến Ramagràma, một nơi cách chỗ Phật đản sinh 5 do-tuần về phía Ðông Pháp Hiển kể Quốc vương xứ này đã dựng một cái tháp lấy tên Ramagràma để thờ phần Xá lợi dành cho nước ông. Pháp Hiển cũng kể lại truyền thuyết liên hệ đến tháp này như sau:

"Gần ngôi tháp có một cái ao, một con rồng ở đấy canh giữ tháp. Ngày và đêm rồng đảnh lễ tháp. Khi vua A-dục lên ngôi, vua muốn phá hủy tám ngôi tháp. Rồng xuất hiện trước vua và đưa vua về cung điện của mình chỉ cho vua đủ mọi vật dụng cụ thờ cúng mà nói, nếu những vật cúng dường của vua tốt hơn những thứ này thì vua cứ việc phá tháp và lấy Xá lợi. Vua A-dục biết những phẩm vật cúng duờng này không có trên thế gian, bởi thế vua bỏ đi". (c: 4b, 6-8).

Cũng trong nước này có ngôi tháp gọi là Tháp Thờ Tro, có lẽ chứa một ít tro của Phật. Vua A-xà-thế được một phần Xá lợi của Phật, và Pháp Hiển đã ghi lại, cách cổng thành Vương Xá Mới 300 bước về phía Tây, có một ngôi tháp tráng lệ do vua A-xà-thế dựng để thờ phần Xá-lợi mà vua nhận được. Ở thành Ba-liên-Phất, Pháp Hiển kể, vua A-dục sau khi phá 7 ngôi tháp xong, đã xây 84000 tháp thờ tro của Phật, đầu tiên là ngôi đại tháp cách kinh thành 3 dặm về phía Nam.

B- Xá-lợi các thân phần của Phật

1. Răng Phật:

Pháp Hiển ghi lại có 2 Xá-lợi Răng Phật được thờ: một ở Cao Xương và một ở đảo Sư Tử. Tại Cao Xương, Xá lợi được xây tháp thờ trong khi ở đảo Sư Tử, Xá Lợi được tàng trữ trong ngôi chùa thờ Răng Phật, làm bằng 7 thứ quý báu. Cái răng này được trưng bày vào giữa tháng 3 và người ta chuẩn bị linh đình để rước Xá lợi từ chùa này đến tu viện Vô Uý Sơn.

2. Xương đảnh đầu (xương sọ).

Pháp Hiển ghi lại việc thờ Xương sọ của Phật trong thành Hilo như sau:

"Trong thành Hilo có một ngôi chùa Xương đảnh Phật, chùa được dát vàng và trang hoàng bằng bảy báu. Quốc vương rất tôn trọng Xá Lợi này. Vì sợ trộm, vua chọn 8 người quý tộc mỗi người giữ một khuôn dấu để bảo về Xá-Lợi. Mỗi sáng sớm, cả 8 người cùng đến kiểm tra dấu niêm phong. Sau đó cửa đưọc mở ra. Họ dùng nước thơm rửa tay rồi cung nghinh Xá-lợi ra ngoài chùa, tôn trí trên một đài cao làm bằng bảy báu có đế xoay tròn, Xá lợi được phủ bằng một cái bát thủy tinh; tất cả đều được trang trí bằng ngọc ngà lưu ly. Xương đảnh Phật có màu vàng nhạt, vuông vức 4 tấc Anh với đảnh nhô ra. Mỗi ngày sau khi xương đảnh Phật đã được thỉnh ra khỏi chùa, một người trong chùa lên lầu cao đánh chuông trống và thổi còi. Quốc vương nghe tiếng chuông trống thì đến chùa để cúng dường hoa hương, đảnh lễ Xá lợi rồi về. Vua đi vào bằng cổng phía Ðông và đi ra bằng cổng phía Tây. Mỗi buổi chiều vua đều hành lễ như vậy trước khi lo việc triều đình. Các cư sĩ và trưởng giả cũng đảnh lễ cúng dường Xá lợi trước rồi mới về làm việc nhà. Mỗi ngày, tập tục này được thi hành không xao lãng. Sau lễ dâng cúng, Xá lợi lại được đưa vào trong chùa, đựng trong tháp Giải thoát cao hơn 5 tấc làm bằng bảy báu. Trước cổng chùa mỗi sáng có những người bán hoa hương cho những người muốn cúng dường. Khuôn viên tu viện này chiếm một khoảng vuông vức mỗi bề 30 bước, đất nơi này không rung chuyển dù khi có sấm sét động đất" (c: 2a, 17-20; 2b, 1-2).

4. Tóc và móng tay:

Tại xứ Nagarahàra, cách 100 bước về phía tây của hang có bóng mát Phật, có một cái tháp cao từ 70-80 bộ tương truyền do Ðức Phật và chúng đệ tử ngài xây, chứa tóc và móng của Phật. Tại Sankàsya có những ngôi tháp kỷ niệm nơi đức Phật đã cắt tóc và móng tay.

C- Những di vật gồm các vật dụng mà Phật đã dùng:

Ngay cả những vật dụng mà đức Phật đã từng dùng cũng trở thành những đối tượng để tôn kính đối với quần chúng Phật tử. Pháp Hiển đã chứng kiến sự thờ phụng này hầu như ở khắp nơi ngài đi qua.

1. Bát khất thực:

Trong thành Purushapura, có một bát khất thực của Phật có thể chứa hai đấu; bát có đủ màu sắc mà nổi bật là màu đen. Người nghèo cúng một ít hoa bát đã đầy, trong khi ngưòi giàu thì dù bỏ bao nhiêu cũng không đầy bát. Hơn bảy trăm tu sĩ trong chùa giữ gìn bát ấy. Trước giờ ngọ trai, họ đem bát ra cùng với cư sĩ làm lễ cúng Phật, sau đó mới thọ trai. Buổi chiều đến giờ thắp hương cũng làm như vây. Ngày xưa Quốc vương nước Yue Chih [Nhục chỉ] muốn đoạt cái bát này đã cất quân sang đánh. Khi chinh phục được nước này, vua muốn thỉnh bát đi vì ông cũng là một Phật tử sùng đạo. Vua tổ chức một đại lễ cúng dường Tam Bảo. Xong lễ, vua cho thắng một thớt voi lớn, đặt bát lên lưng voi. Nhưng voi quỵ xuống không chịu bước tới. Vua lại ra lệnh cho một chiếc xe bốn bánh mang bình bát đi. Nhưng dù có tám con voi kéo, xe cũng không tiến đi được bước nào. Vua biết mình chưa đủ nhân duyên để chiếm cái bát, lấy làn hổ thẹn. Ông bèn xây một cái tháp và một ngôi chùa rồi cử một viên quan ở lại đấy mà thờ cúng bái. Khi ở Tích Lan, Pháp Hiển ghi lại một bài kinh do một nhà sư Ấn tụng. Bài kinh này được xem là lịch sử cái bát khất thực của Phật, chứa nhiều yếu tố huyền thoại khá thú vị như sau:

"Ðầu tiên bình bát của Phật ở Tỳ-xá-ly. Bây giờ nó ở Gandhara. Sau nhiều trăm năm (vị Tăng nói rõ khoảng thời gian nhưng Pháp Hiển đã quên chi tiết này) bình bát lại trở về nước Yue Shih ở phía Tây. Rồi nhiều trăm năm sau nó sẽ đến xứ Vu Ðiền. Nó sẽ ở đấy nhiều trăm năm, rồi sẽ đến kinh đô Kucha. Sau nhiều trăm năm nó đến đất Hán. Sau nhiều trăm năm nó sẽ trở về đất Ấn, rồi thăng lên trời Ðâu-suất. Khi trông thấy cái bát, Bồ tát Di-lặc kêu lên: "Bát của đức Thích Ca mâu ni đã đến". Rồi cùng với chư Thiên, Di lặc tuyên bố hãy cúng dường bát bằng hương hoa trong 7 ngày. Sau 7 ngày nó sẽ trở xuống Diêm-phù-đề. Khi ấy vua Rồng biển sẽ đưa bát xuống Long cung. Khi Di-lặc thành Chánh giác, cái bát sẽ thành 4 và trở về chỗ cũ trên núi Anna. Sau khi Di Lặc thành Phật, bốn vị vua trời sẽ làm như đối với Ðức Phật trước (dâng cúng bát). Một ngàn đức Phật trong Hiền kiếp đều sử dụng cái bát này. Khi bát này biến mất thì Phật giáo cũng dần dần biến mất. Sau khi Phật giáo biến mất, thọ mạng con người giảm dần cho đến chỉ còn 5 năm. Khi thọ mạng giảm còn 5 năm, thì ngũ cốc, dầu, bơ cũng biến mất và con người trở nên ác độc, xấu xa đến nỗi cỏ cây cũng biến thành gươm giáo gậy gộc để giết hại lẫn nhau. Những người Hiền Thiện sẽ rút vào núi rừng. Khi những người xấu ác đã tàn hại lẫn nhau đến tận diệt, những người vào núi lại đi ra và bảo nhau: "Thọ mạng người xưa rất dài; nhưng do tạo nhiều ác nghiệp mà thọ mạng chúng ta ngày nay rút ngắn chỉ còn 5 năm. Vậy chúng ta hãy làm thiện hành, có tâm thương xót, đào luyện đức tin và chính trực". Rồi họ đào luyện đức tin và chính trực, nên dần dần thọ mạng tăng lên 8 vạn tuổi. Khi Di-lặc ra đời và chuyển Pháp luân lần đầu, trước tiên ngài sẽ hóa độ những đệ tử của Phật Thích Ca, những người đã đi tu, những người đã quy y thọ 5 giới, 8 giới và cúng dường Tam Bảo. Nhóm thứ hai và thứ ba được ngài cứu độ là những người có duyên lành. Lúc ấy Pháp Hiển muốn ghi chép bài kinh nhưng vì sư nói không bản viết thành văn, mà chỉ học thuộc lòng". (c: 8a, 1-9).

Pháp Hiển còn kể lại sự thờ kính một bát khất thực khác của Phật. Trên đưòng đến Tỳ-xá-lý, ngài đến một nơi mà ngày xưa đức Phật đã cho người dòng họ Licchcavi [Ly-sa] bình bát khất thực của Ngài làm kỷ niệm. Khi đức Phật du hành đến nơi Ngài sẽ nhập Niết bàn, những người dòng họ Ly-sa muốn đi theo ngài. Ðức Phật không cho họ đi theo, nhưng vì cảm mến Ngài, họ không chịu trở lui về. Bởi thế Phật hóa hiện một cái hố sâu ngăn cách giữa Ngài và những người này để họ không qua được, rồi Ngài cho họ bình bát của Ngài để làm Xá-lợi. Một trụ đá ghi khắc việc này được dựng lên tại chỗ ấy.

2. Tích trượng của Phật:

Cách thành Nagara một do-tuần về phía Ðông Bắc, có một ngôi chùa được xây để thờ tích trượng của Phật làm bằng gỗ chiên đàn dài khoảng 16-17 tấc . Tích trượng được đặt trong một hộp gỗ dài, dù trăm người ngàn người cũng không thể di chuyển.

3. Áo Phật:

Cũng trong xứ Nagarahara, có một ngôi chùa thờ áo Phật. Theo tường thuật của Pháp Hiển, dân chúng rất sùng tín đối với áo này mỗi khi gặp hạn hán họ thỉnh áo ra làm lễ dâng cúng để cầu mưa, và quả thực sau đó trời mưa.

4. Ống nhổ bằng đá của Phật:

Tại Cao Xương, Pháp Hiển kể đến một Xá Lợi khác, đó là một ống nhổ bằng đá mà ngày xưa Phật đã dùng, nó có màu như bình bát của Ngài.

5. Bàn chải răng của Phật:

Ngoài cổng phía Nam của thành Vaisakha và phía Ðông con đường, là nơi mà ngày xưa Phật đã trồng một cây dương để lấy cành đương dùng chà răng. Cây dương này cao đúng 7 bộ, và chiều cao ấy không Tăng không giảm. Một vài ngoại đạo Bà-la-môn ganh ghét muốn cắt bỏ nó, nhổ nó lên hoặc ném nó đi chỗ khác nhưng lại có cây khác mọc lên ngay tại chỗ cũ.

D- Xá-lợi gồm những vật có ít nhiều liên hệ đến đức Phật

Một đôi khi những dấu tích mà Phật đã để lại trên môt vài vật dụng cũng được bảo trì và tôn thờ như Xá Lợi, chẳng hạn cái bóng của ngài, dấu chân của ngài...

1. Mỏm đá:

Tại xứ Udyàna, mỏm đá mà Phật thường phơi áo và hàng phục rồng dữ bây giờ vẫn còn. Mỏm đá này rộng 20 bộ, chiều cao của nó có chỗ 14 bộ, chỗ 20 bộ, và có một cạnh phẳng. Ở Gàya, Pháp Hiển ghi lại rằng cách hai dặm về phía Bắc của nơi dâng cúng cháo sữa, là một tảng đá nơi đức Phật ngồi dưới một cây đại thụ để dùng cháo mà thiếu nữ Gramikas đã dâng. Tảng đá này vuông vức 6 bộ, cao 2 bộ, vẫn còn ở đấy khi Pháp Hiển chiêm bái.

2. Tảng đá:

Tại núi Linh Thứu, Pháp Hiển kể rằng tảng đá mà Ðề-bà-đạt-đa lăn xuống để giết Phật hiện vẫn còn.

3. Cây:

Tại Gayà, cây lớn mà đức Phật đã ngồi dưới gốc để dùng cháo, đến nay vẫn còn. Theo Pháp Hiển, khí hậu ở đấy điều hòa nên cây có thể sống nhiều ngàn năm, cả đến một vạn năm. Ngài còn nói đến cây bối-đa tại Bồ-đề tràng, dưới cây ấy Ðức Phật đã đạt Chánh giác. Một hột giống của cây này đã được gởi đến nước Sư Tứ để trồng gần Phật điện của tu viện Vô Úy Sơn. Pháp Hiển đã mô tả cây ấy như sau:

"Vị vua xứ này ngày xưa đã gởi một sứ giả đến Ấn Ðộ để xin về một hột cây bối-đa và đã trồng nó gần Phật đường. Hột giống đã Tăng trưởng thành một cây lớn cao 20 trượng nghiêng về phía Ðông Nam. Sợ cây ngã, vua đã ra lệnh dùng một cây trụ khổng lồ 8, 9 nguời ôm để chống đỡ. Tại nơi cây được chống, một cành mọc xuyên qua cột trụ, đâm xuống đất và mọc rễ. Cành lớn đến 4 người ôm. Cột trụ mặc dù bị cành xuyên thủng vẫn còn đứng đấy, không bị dời đi. Dưới đây này người ta xây một ngôi chùa thờ một tượng Phật ngồi. Tăng tục đến lễ bái không dứt" (c: 7a, 20; 7b, 1 - 2).

4. Hang:

Tại Vương Xá trên đỉnh núi Linh Thứu có một cái hang trong đó Phật thường ngồi Thiền định. Cách 30 bước về phía Ðông Bắc của hang này, có một hang khác của ngài A-nan. Có một lần khi Tôn giả A-nan đang ngồi Thiền, Ác ma biến thành hình một con chim Thứu bay đến khủng bố A-nan. Do năng lực thần thông đức Phật biết được, đã duỗi tay ra vỗ vai A-nan để uỷ lạo ngài. Theo ký sự Pháp Hiển, thì dấu vết của chim Thứu, cái lỗ xuyên qua đấy đức Phật đã đưa tay vỗ vai A-nan đến thời ấy vẫn còn.

5. Dấu móng tay Phật:

Khi rời thành Ba-liên-phất, Pháp Hiển đến một địa điểm cách đó 9 do-tuần, tại đây có một hang đá nằm trên đỉnh núi, bên trong có môt tượng Phật ngồi. Theo truyền thuyết, đây là nơi mà Ðế Thích đi hỏi Phật 42 câu, cứ mỗi câu Ðức Phật lại lấy móng tay làm dấu một vạch. Những dấu vạch này vần còn tồn tại khi Pháp Hiển chiêm bái.

6. Bóng Phật:

Phía Tây Nam một ngọn núi cao cách thành Nagara nửa do tuần, đức Phật đã để lại cái bóng của Ngài trong một hang động. Pháp Hiển kể, đứng cách xa chừng 10 bước, người ta có thể trông thấy cái bóng giống hệt như Phật thật với thân sắc vàng chói. Khi đến gần hơn cái bóng mờ dần. Các Quốc vương ở nhiều nước đã phái những họa sĩ tài ba đến vẽ lại cái bóng đó những không ai có thể ghi lại được. Người ta tin rằng cả ngàn Ðức Phật đều đã để bóng lại trong hang. Ngày xưa, có một bóng Phật được trông thấy ở đây, sáng như thật, với đủ các đặc tướng. Nhưng về sau người ta không thấy được thường xuyên như trước, mà chỉ hiện ra một hình ảnh lờ mờ. Người nào tha thiết cầu nguyện, sẽ được thấy bóng Phật rõ ràng trước mắt mặc dù không lâu. Ðến đời Huyền Trang, chính ngài cũng đã trông thấy bóng Phật khi đi chiêm bái. Cạnh Bồ-đề tràng trong một hang động, nơi đức Phật ngồi kiết-già hướng về phương Ðông trước khi đạt giác ngộ, cái bóng của Ngài cao gần 3 tấc xuất hiện trên vách đá trước mặt Ngài, như báo điềm Ngài sắp thành Phật. Pháp Hiển xác nhận cái bóng ấy vẫn còn được thấy vào lúc ngài đi chiêm bái.

7. Dấu chân Phật:

Dấu chân Phật được thờ tại 3 nơi: Udyàna. Ba-liên-phất và đảo Sư Tử. Truyền thuyết cho rằng khi Ðức Phật đến miền Bắc Ấn, Ngài đã viếng thăm Udyàna và đã để lại nơi xứ này một dấu chân, kích thước của dấu chân này dài ngắn do tầm tri kiến người nhìn. Pháp Hiển đã xác nhận dấu chân ấy vẫn còn hiện rõ khi ngài đến chiêm bái. Ðức Phật đã để lại một dấu chân khác tại thành Ba-liên-Phất trước ngôi đại tháp của vua A-dục, và người ta đã xây một ngôi chùa trên dấu chân, cổng mở về phía Bắc, hướng về tháp. Ở đảo Sư Tử, truyền thuyết ghi rằng Ðức Phật đã có lần đến đảo này để hàng phục một con rồng dữ. Ngài đã để một chân ở phía Bắc thành, chân kia để trên đỉnh núi cách đó 15 do tuần. Trên dấu chân này của Phật, một ngôi tháp lớn được xây cao 400 bộ, được trang hoàng bằng vàng bạc và đủ thứ châu báu.

E- Phật Ca-diếp, Ðộc giác, La-hán, và A-nan

Trong Phật Quốc Ký, Pháp Hiển còn đề cập sự tôn thờ Xá-lợi của các đức Phật khác và các đệ tử của Phật.

1. Phật Ca-diếp:

Tại một thành phố tên Tadwa, nơi đức Phật Ca-diếp đản sinh và nhập Niết Bàn, có một ngôi tháp lớn được xây dựng trên những Xá Lợi của ngài.

2. Ðộc giác:

Khi Pháp Hiển đến chùa Agnidagdha, ngài gặp một nơi dân chúng tin là chỗ nhập Niết bàn của một vị Ðộc Giác. Chỗ ấy cỡ bằng một bánh xe, không có rau cỏ nào mọc, mặc dù xung quanh đầy cỏ. Cũng không có cỏ mọc tại chỗ mà Ðức Phật đã phơi áo, để lại những lằn y trên đất. Pháp Hiển ghi nhận rằng những dấu vết ấy vẫn còn được thấy.

3. La hán:

Tại chùa Agnidagdha theo Pháp Hiển kể, có lần một vị La hán rửa tay, nước giọt từ hai bàn tay của ngài đã để lại dấu trên mặt đất đến nay vẫn còn. Pháp Hiển thêm rằng mặc dầu bị cọ xát nhiều lần, những dấu vết ấy vẫn không biến mất.

4. Xá-lợi A-nan:

Tại Tỳ-xá-lỵ, theo Phật Quốc Ký, về phía Bắc đô thành, có một ngôi tháp xây trên một nửa phần Xá-lợi của Tôn giả A-nan. Nửa phần kia được vua A-xà-thế mang đến Vương Xá, Pháp Hiển không nói gì về việc tại Vương Xá có xây tháp A-nan hay không.

F. Việc thờ Xá-lợi theo xứ sở

1. Cao Xương:

Trong xứ này có tháp thờ ống nhổ bằng đá ngày xưa đức Phật đã dùng, và tháp thờ Răng Phật.

2. Ô-trường [Udyàna]:

Theo truyền thuyết khi Phật đến thăm miền Bắc Ấn, Ngài đã để lại dấu chân ở đấy, lại có một núi đá nơi Phật phơi áo và hàng phục rồng dữ.

3. Phất lâu sa [Purushapura]:

Tại đây thờ bát khất thực của Phật, dung lượng hai đấu, có đủ màu, màu đen nổi bật. Bình bát có 4 lớp được trông thấy rõ ràng, mặt bình bát láng bóng.

4. Thành Hilo:

Ðây là nơi có chùa thờ xương sọ của Phật, toàn thể ngôi chùa được dát vàng và trang hoàng bằng bảy báu.

5. Nagarahara:

Tại đây răng Phật được thờ trong một cái tháp. Tích trượng của Phật bằng gỗ trầm dài 16 - 17 bộ được đặt trong một cái hộp gỗ và được thờ trong một ngôi chùa xây để thờ tích trượng. Một Xá-lợi khác được thờ ở đây là áo Phật, dùng để cầu mưa khi có hạn hán. Trong một hang đá ở trên núi cao cách thành này nửa do-tuần về phía Nam, có một cái bóng đức Phật để lại, đã trở thành đối tượng tôn thờ. Cái bóng này giống như đức Phật còn sống, có lần Ngài đã cạo tóc và cắt móng tay tại đây. Một cái tháp được chính đức Phật và các đệ tử xây lên ở nơi này.

6. Sankàsya:

Tại chùa Agnidagdha, có thờ dấu tích để lại của một vị A-la-hán giọt nước rửa tay rơi xuống đất, tại đây một ngôi chùa được dụng lên. Lại có một tu viện được xây để kỷ niệm chỗ mà môt vị Ðộc Giác Phật đã từng nhận thức ăn, chỗ Ngài nhập Niết Bàn, và nơi Ngài phơi áo, Pháp Hiển thêm có những lần y vẫn còn lưu dấu.

7. Vaisàkha:

Một cây dương cao đến 7 bộ mọc lên từ cành dương Phật đã dùng để chà răng. Cây này chiều cao không Tăng giảm.

8. Ramagràma:

Một phần Xá Lợi của Phật được thờ trong một ngôi tháp do Quốc vương xứ này xây dựng.

9. Ba-liên-phất:

Trước mặt ngôi tháp lớn do A-dục vuơng xây, có một ngôi chùa được dựng lên trên một dấu chân Phật.

10. Tỳ-xá-ly:

Trong một ngôi chùa có lầu ở Ngôi Rừng Lớn (Ðại Lâm), có một ngôi tháp được xây trên nửa phần Xá-lợi của Tôn giả A-nan.

11. Vương Xá:

Tại đây có một tháp lớn do vua A-xà-thế xây để thờ một phần Xá Lợi của Phật. Trên đỉnh núi Linh Thứu trong một hang động, có những dấu vết của chim Thứu đến khủng bố A-nan và cái lỗ do bàn tay Phật tạo nên khi Ngài đưa qua vỗ vai A-nan để trấn an Tôn giả. Ở đây cũng còn tảng đá mà Ðề-bà-đạt-đa đã lăn xuống, làm ngón chân Phật bị thương. Trên một mỏm núi cách thành Ba-liên-phất 9 do tuần có những dấu tay của Phật vạch trên đá khi trả lời 42 điểm Ðế Thích hỏi. Những dấu này còn khi Pháp Hiển chiêm bái.

12. Bồ đề tràng:

Cây và đá nơi đức Phật ngồi để dùng cháo do các thiếu nữ Gramikas cúng vẫn còn khi Pháp Hiển đến viếng nơi này. Trong một hang động nơi Ðức Phật ngồi trước khi giác ngộ, cái bóng của ngài cao chừng 3 tấc vẫn còn được thấy rõ.

13. Nước Sư Tử:

Ðức Phật đã để lại một dấu chân ở phía Bắc vương đô khi Ngài đến xứ này để hàng phục một con rồng dữ. Trên dấu chân này được xây một tháp lớn cao 400 bộ, trang trí vàng bạc và đủ thứ châu báu. Có một cây Bồ-đề mang từ Ấn Ðộ về trồng vẫn còn lớn mạnh. Nhưng Xá Lợi quan trọng nhất ở đây là một cái răng Phật được thờ trong một ngôi chùa xây toàn bằng 7 báu.

 

5. Việc thờ tháp

A- Nguồn gốc

Tập tục thờ tháp dường như đã bắt đầu ngay từ thời đức Phật, như giai thoại sau đây được các nhà Hữu Bộ truyền tụng, đã chứng tỏ. Có lần trưởng giả Cấp Cô Ðộc bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn, khi Ngài du hành trong nhân gian để giáo hóa, con luôn mong muốn được chiêm ngưỡng ngài. Xin Thế Tôn cho con một vài kỷ vật để con có thể thờ kính". Phật liền cho ông ta một ít tóc và móng tay Ngài và nói: "Ông hãy thờ kính những thứ này". Cấp Cô Ðộc nói: "Bạch Thế Tôn, xin Ngài cho phép con xây tháp thờ những tóc và móng tay này." Ðức Phật liền cho phép ông ta xây tháp.

B- Số lượng tháp

Khi Pháp Hiển viếng thăm Ấn Ðộ, ngài nhận thấy sự thờ pháp lan truyền khắp, và hầu hết các nước Phật giáo đều có rất nhiều tháp mà các Quốc vương và dân chúng đều đến cúng dường lễ bái rất thành kính.

Ở Ba-liên-phất, Pháp Hiển kể ràng vua A-dục đã giật sập 7 ngôi tháp cũ và xây 84000 ngôi tháp mới trong nước. Ở thành Nagara có nhiều tháp nhất, hơn 1000 ngôi. Tại thành Agnidagdha, có 100 ngôi tháp nhỏ nhưng người ta không thể đếm số lượng thật sự, dù có bỏ ra cả ngày để đếm.

C- Một vài tháp lớn

Cái tháp cao nhất và hùng vĩ nhất có lẽ là ngôi tháp do vua Ca-nị-sắc-ca xây ở Purashapura. Pháp Hiển ghi rằng, tháp này cao 400 bộ làm bằng đủ thứ châu báu, và là tháp đẹp nhất ở Diêm-phù-đề. Tại xứ Takshasila, những ngôi tháp lớn được trang hoàng bằng nhiều báu vật, và các vua quan dân chúng từ nhiều nơi tranh nhau dâng hoa hương và đèn không ngớt. Lại cần chú ý đến tháp do vua A-dục xây ở Ba-liên-phất cách hơn 3 dặm về phía Nam của châu thành. Ngôi tháp này phải rất hùng vị vì đó là ngôi tháp đầu tiên trong 84000 tháp mà vua định xây.

D- Tháp do chính đức Phật xây

Hầu hết các tháp đều do vua chúa và dân chúng xây để tỏ lòng kính mộ Phật và các đệ tử của Ngài. Pháp Hiển ghi lại một trường hợp trong đó chính Ðức Phật cùng với một số đệ tử của Ngài tham gia xây tháp. Tại xứ Nagarahara, có một tháp cao 70-80 bộ được Phật và các đệ tử xây trên tóc và móng tay của Ngài để làm mẫu cho sự xây dựng bảo tháp trong tương lai.

E- Các loại tháp

Tháp có thể chia làm hai loại:

1) Tháp cúng dường, được xây trên Xá-lợi của Phật và các bậc Thánh khác:

2) Tháp kỷ niệm, để đánh dấu những nơi liên hệ đến vài biến cố hay vài hoạt động của đức Phật và một số đại đệ tử của Ngài. Về tháp cúng dường, có thể kể tháp thờ Răng Phật, Nagarahara, và tháp do vua A-xà-thế xây trên phần Xá-lợi Phật mà ông nhận được. Về tháp kỷ niệm, ta có thể kể đến điển hình như tháp xây kỷ niệm chỗ Phật rời cung điện đi ra cổng thành phía Ðông, thấy một người ốm và đã ra lệnh cho Kapilavastu [Ca-tỳ-la-vệ], hoặc ngôi tháp dựng lên tại chỗ đức Phật đã giảng pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như tại Vườn Nai.

F- Tháp thờ bốn đức Phật

Ðấy là những tháp cúng dường và kỷ niệm, được xây trên Xá-lợi hay những nơi liên hệ đến những hoạt động của chư Phật trước kia, một vị Ðộc Giác, Phật Thích Ca, một số La-hán và đại đệ tử của Phật cùng Tăng-già nói chung.

Tại xứ Vansakha, những ngôi tháp được xây trên những chỗ mà bốn vị Phật đã từng kinh hành, ngồi Thiền, tàn tích còn được thấy vào thời kỳ Pháp Hiển chiêm bái. Tại Sankàsya cũng thế, có những ngôi tháp kỷ niệm nơi ba vị Phật trước đức Thích Ca đã sống, và bất kể nơi nào có hình ảnh và dấu vết đức Phật Thích Ca. Tại Xá vệ có những nôi tháp để kỷ niệm Phật Ca-diếp giáng sinh và gặp thân phụ, nhập Niết Bàn. Cũng có một ngôi tháp lớn được dựng trên những nơi đức Phật Câu-lưu-tôn giáng sinh, gặp thân phụ và nhập Niết bàn. Chưa đến một do-tuần về phía Bắc, có những ngôi tháp xây trên những nơi Phật Câu-na-hàm-ni giáng sinh, gặp thân phụ và nhập Niết Bàn.

G - Tháp thờ các vị Ðộc giác và La-hán

Ở xứ Nagarahara có đến một ngàn ngôi tháp thờ Ðộc Giác và La-hán. Ở Tỳ-xá-ly, có hai ngôi tháp thờ Ðộc Giác và La-hán. Ở Tỳ-xá-ly, có hai ngôi tháp xây để kỷ niệm hai vị vua tu hành thành Ðộc giác. Những tháp này có tên là tháp Buông Cung Kiếm liên hệ đến một huyền thoại.

H. Tháp thờ Phật Thích-ca

Ðiều đương nhiên là Phật Thích Ca được xây tháp thờ nhiều nhất tại khắp các quốc gia mà Pháp Hiển đã thăm viếng.

a. Các tiền thân của Ngài:

Có những tháp được xây trên những địa điểm liên hệ đến một vài tiền thân của Phật.

Tại Suvastu, có một nơi ở đấy trời Ðế Thích đã thử Phật bằng cách giả dạng một con diều hâu cắp một con bồ câu; và Bồ tát vì muốn cứu chim bồ câu, đã tự cắt thịt mình để chuộc con chim khốn khổ. Khi đạt thành Chánh Giác, đi qua nơi ấy Phật đã kể lại cho các đệ tử nghe chuyện tiền thân cuả Ngài, và chỉ chỗ Ngài cắt thịt cứu bồ câu. Thế là dân chúng dựng lên một ngôi tháp trang hoàng bằng vàng bạc.

Tại xứ Gandhàra, một ngôi tháp lớn được xây trang trí bằng vàng bạc ở địa điểm mà ngày xưa trong một tiền kiếp Phật đã bố thí mắt.

Ở nước Takshasilà, có hai nơi liên hệ đến đời trước của Phật. Khi còn là Bồ-tát, Ngài đã bố thí đầu nơi đây, do đó có địa danh Takshasilà nghĩa là chặt đầu. Từ đây đi hai ngày đường thì đến một nơi khác, chỗ tiền thân Phật đã xả thân cho cọp đói ăn thịt. Nhiều ngôi tháp trang hoàng lộng lẫy được xây trên hai nơi này; được các vua quan và dân chúng từ khắp nơi đến chiêm bái.

b. Tro của Phật:

Pháp Hiển kể tại Câu-thi-la có một ngôi tháp được xây tại chỗ 8 vị vua xây để thờ phần Xá-lợi dành cho mình. Pháp Hiển chỉ viếng được hai ngôi tháp, một tên Ràmagrama do vua cùng tên xây tại xứ của ông, nằm cách chỗ Phật giáng sinh 5 do-tuần về phía Ðông. Ngôi tháp kia do vua A-xà-thế xây tại thành Vương Xá để thờ phần Xá-lợi mà vua nhận được, tháp này nằm ngoài cổng thành 300 bước. Lại còn có một ngôi tháp gọilà Tháp thờ Tro tại Ramagrama. Tháp này có lẽ liên hệ đến tro của Phật. Ở thành Ba-liên-phất có một ngôi tháp lớn thờ tro Phật do vua A-dục xây; đây là ngôi đầu tiên trong 84000 ngôi tháp mà vua A-dục định xây.

c. Tháp thờ thân phần của Phật:

1. Răng Phật:

Ở Cao Xương, dân chúng dựng một ngôi tháp để thờ một cái răng của Phật. Tại Nagarahara cũng có một ngôi tháp thờ Xá-lợi Răng.

2. Tóc và móng tay:

Ở xứ Nagarahara cách 1000 bước về phía Tây hang động Bóng Phật, chính đức Phật và các đệ tử đã xây một ngôi tháp cao từ 70 đến 80 bộ trên những tóc và móng tay của Phật. Sankasya có những ngôi tháp tại những nơi Phật đã cắt tóc và móng tay.

3. Dấu chân:

Mặc dù dấu chân Phật được thờ ở 3 nơi Ô-trường [Udyàna], Ba-liên-phất [Pataliputra], đảo Sư Tử [Simhala], chỉ có nơi sau cùngnày xây một ngôi tháp cao 400 bộ trên một dấu chân của Phật. Pháp này được trang hoàng bằng các loại vàng bạc và châu báu.

d. Các tháp liên hệ đến vài hoạt động của Phật.

Những tháp kỷ niệm này được xây trên những nơi liên hệ đến hoạt động của Phật, chúng có số lượng nhiều nhất và lan rộng nhất. Ðương nhiên Pháp Hiển không thể nào kể cho hết, vì ngài không ghi lại những ngôi tháp không lôi cuốn sự chú ý của ngài, hoặc vì ngài cho là không đủ tầm quan trọng để nhắc đến. Các tháp được xây trên những chỗ như sau:

  1. Nơi Thái tử đản sinh ở vườn Lâm-tỳ-ni.
  2. Nơi Thái tử sau khi ra khỏi thành Ðông trông thấy người ốm và bảo người đánh xe quay trở về Ca-tỳ-la-vệ.
  3. Nơi Thái tử từ giã Xa-nặc và bạch mã Kiền Trắc, ở xứ Ramagrama.
  4. Nơi đức Phật tu khổ hạnh 6 năm.
  5. Nơi Ðức Phật có lần đã tắm và một vị Trời đã hạ thấp một cành cây cho Ngài vịn để bước lên khỏi mặt nước.
  6. Nơi các cô gái dâng sữa và cháo cho Bồ Tát.
  7. Nơi đức Phật ngồi trên tảng đá quay mặt về hướng Ðông để dùng cháo ấy.
  8. Nơi đức Phật thành Chánh giác.
  9. Nơi đức Phật nhìn ngắm cây Bồ đề và thưởng thức đại lạc của giải thoát trong 7 ngày sau khi giác ngộ.
  10. Nơi ngài kinh hành từ Ðông sang Tây dưới cồi Bồ đề.
  11. Nơi chư Thiên dựng một đàn cao làm bằng 7 báu để dâng cúng Phật trong 7 ngày.
  12. Nơi con rồng mù mucalinda quấn quanh đức Phật trong 7 ngày.
  13. Nơi đức Phật ngồi trên tảng đá xoay mặt về phương Ðông dưới cây nigrodha [Ni-câu-luật], lúc Phạm thiên hiện xuống thỉnh cầu Ngài thuyết pháp.
  14. Nơi bốn vua Trời cúng dường bát cho Phật.
  15. Nơi 500 người buôn dâng cúng Phật bột và mật; tất cả những nơi này đều ở Buddhagàya [Bồ đề tràng].
  16. Nơi Phật ngồi xoay mặt về phía Ðông thuyết pháp lần đầu hóa độ 5 anh em Kiều Trần Như.
  17. Nơi Ngài tiên đoán tương lai của Phật Di Lặc.
  18. Nơi rồng Y-bát-la hỏi Phật chừng nào nó thoát được lốt rồng.
    (Ba chỗ trên đây đều ở Vanarasi trong vườn Nai.)
  19. Nơi Ðức Phật hóa độ ba anh em ông Ca-diếp và 1000 đệ tử ở thành Gàya.
  20. Nơi đức Phật về thăm thân phụ.
  21. Nơi đất rung động 6 lần khi 500 vương tử dòng Thích Ca đảnh lễ Ưu-ba-ly sau khi xuất gia.
  22. Nơi Phật thuyết pháp cho chư Thiên trong Tứ thiên vương canh giữ bốn cổng giảng đường để ngăn vua Tịnh Phạn đi vào.
  23. Nơi Ðức Phật ngồi dưới cây nigrodha xoay mặt về hướng Ðông khi Di mẫu Mahaprajapati [Ðại Ái Ðạo] dâng cúng Ngài một cái y.
    (Tất cả những biến cố trên đây xảy ra tại thành Ca-tỳ-la-vệ.)
  24. Nơi Ðế Thích và Phạm thiên từ cung trời 33 cùng với Phật xuống trần, ở Sankasya.
  25. Nơi Ni Utpala người đầu tiên đảnh lễ Phật khi Ngài từ cõi trời 33 trở xuống tại Sankasya.
  26. Nơi Ðức Phật giảng pháp cho đệ tử tại Kanyàkubja.
  27. Nơi Ðức Phật giảng pháp, kinh hành và ngồi Thiền ở làng Hari.
  28. Nơi Ðức Phật thuyết pháp cứu độ nhiều người, nơi Ngài kinh hành, ngồi Thiền ở thành Xá-vệ, mỗi tháp có một tên riêng.
  29. Nơi đức Phâạt đứng bên vệ đường khi vua Lưu Ly sắp tấn công dòng Thích Ca tại Xá-vệ.
  30. Nơi vua Lưu Ly tàn hại con cháu dòng họ Thích Ca và những người này khi chết đều đắc sơ quả tại Ca-tỳ-la-vệ.
  31. Nơi Ðức Phật cảm hóa một Ác quỷ, cách 8 do-tuần về phía Ðông vườn Ghosila [Cù-sư-la] ở nước Kausambi [Câu-diệm-di].
  32. Nơi Ðức Phật ở, nơi ngài ngồi Thiền và kinh hành, tại Champa.
  33. Nơi Ðức Phật cùng với chúng đệ tử rời Tỳ-xá-ly bằng cổng Tây, và quay về bên phải nhìn đô thành mà bảo: "Ðây là nơi cuối cùng mà ta viếng thăm".
  34. Nơi đức Thế Tôn nằm trong một quan tài bằng vàng và được lễ kính trong 7 ngày.
  35. Nơi Vajrapàni [Kim Cương Thủ] bỏ kiếm vàng xuống.
  36. Nơi Phật nhập Niết Bàn. Ba tháp sau cùng này đều ở Kusinagara [Câu-thi-na].

I. Tháp thờ đại đệ tử của Phật

Với lòng nhiệt thành ngưỡng mộ đức Phật, quần chúng cũng không quên các đại đệ tử của Ngài nên đã xây nhiều đại tháp để cúng dường các vị ấy.

a. Dành cho Xá-lợi-phất:

Tại ngôi làng Nalaka, cách một ngọn núi đơn độc, một do tuần vệw về phía Tây Bắc, một ngôi tháp được dựng tại chỗ Xá-lợi-phất sinh ra và nhập Niết Bàn.

b. Dành cho A-nan:

Một ngôi tháp được dựng trên nửa phần Xá-lợi của A-nan tại thành Tỳ-xá-ly.

c. Dành cho Subhadra (Tu-bạt-đà-la):

Tại Câu-thi-na, một ngôi tháp được dựng tại chỗ đệ tử cuối cùng của Phật là Tu-bạt-đà-la gia nhập Tăng đoàn.

d. Dành cho Ðại Ái Ðạo:

Tại Xá-vệ, một ngôi tháp được dựng tại chỗ ngôi chùa đã đổ nát của Ðại Ái Ðạo.

e. Dành cho Cấp Cô Ðộc;

Ở Xá vệ một ngôi tháp được xây trên di tích nhà của Cấp Cô Ðộc.

f. Dành cho Angulimala (Vô Não):

Cũng ở Xá vệ, có những ngôi tháp được xây tại những nơi Vô Não đã đắc quả A-la-hán và được hỏa táng sau khi chết. Ở đây Pháp Hiển kể rằng một số ngoại đạo Bà-la-môn vì ganh ghét muốn phá những ngôi tháp này nhưng bỗng sấm sét nổi lên làm họ sợ hãi bỏ chạy.

J. Tháp thờ kỷ niệm kỳ Kết tập thứ hai

Tại Tỳ-xá-ly, có một ngôi tháp được dựng để kỷ niệm nơi xảy ra đại hội. Kết tập kinh điển lần hai.

Ngoài những ngôi tháp nói trên, Pháp Hiển còn ghi lại một ngôi tháp do vua Kanishka [Ca nị-sắc-ca] xây, có lẽ để cúng dường Phật, tại xứ Purushapura. Tháp này cao hơn 400 bộ, Pháp Hiển ghi rằng đây là tháp đẹp nhất trong khắp cõi Diêm-phù-đề, với tầm vóc vĩ đại và đủ loại trang hoàng quý báu.

Ở chùa Agnidagdha, Pháp Hiển kể có 100 ngôi tháp, nhưng ngài không nói rõ là tháp thờ những ai.

K. Những bảo tháp kể theo quốc gia

1. Vu Ðiền:

Trong tu viên Tân Hoàng Gia, Pháp Hiển kể có một ngôi tháp với một Phật điện tráng lệ đằng sau.

2. Cao Xương:

Có một ngôi tháp thờ Răng Phật.

3. Tú -ha-đa [Suvastu]:

Một ngôi tháp trang hoàng bằng vàng bạc, được xây tại chỗ tiền thân Phật đã cắt thịt mình để chuộc một con bồ câu.

4. Kiền-đà-vệ [Gandhàra]:

Một ngôi tháp lớn trang hoàng vàng bạc được xây tại chỗ tiền thân Phật đã móc mắt bố thí.

5. Trúc-sát-thi-la [Takshasilà]:

Tại nơi Phật trong một tiền kiếp đã bố thí đầu, và nơi Ngài xả thân cho cọp đói ăn thịt, cả hai nơi đều có tháp trang hoàng bằng các báu vật. Vua quan và dân chúng từ nhiều nước tranh nhau đến cúng dường rải hoa thắp đèn không dứt. Hai ngôi tháp này và hai ngôi tháp được nói ở trên làm thành bốn vĩ đại của Takshasilà.

6. Phất-lâu-sa [Purushapura]:

Tại đây có một tháp lớn cao 400 bộ do vua Ca-nị-sắc-ca xây. Tháp được trang hoàng bằng đủ thứ báu vật và được xem là đẹp nhất trong tất cả tháp ở Jambudvìpa [Diêm phù đề].

7. Na-kiệt [Nagarahàra]:

Một ngôi tháp được xây để thờ Răng Phật. Tại nơi đức Phật cắt tóc và các đệ tử đã xây một tháp cao 70-80 bộ, tháp này vẫn còn vào thời gian Pháp Hiển chiêm bái. Tại đây có đến 1000 ngôi tháp thờ các bậc La-hán và Ðộc giác.

8. Tăng già-thi [Sankàsya]:

Một ngôi tháp được dựng tại nơi Tỳ-kheo ni Utpala đảnh lễ Phật đầu tiên khi Ngài từ cung Trời ba mươi ba trở xuống. Lại có những tháp kỷ niệm nơi Phật cắt tóc và móng tay, nơi ba đức Phật quá khứ và Phật Thích Ca đã kinh hành, ngồi Thiền, và bất cứ nơi nào có hình ảnh dấu vết của chư Phật. Những ngôi tháp này vẫn còn. Một ngôi tháp được xây tại chỗ Trời Ðế Thích và Phạm thiên theo Phật xuống trần.

9. Chùa Agnidagdha:

Tại đây có một ngôi tháp thờ đức Phật, tương truyền được các Thiện thần giữ gìn sạch sẽ không cần đến sức người. Một ông vua ngoại đạo muốn thách thức những phi nhân, đã kéo một đạo quân đến đóng, phóng uế xả rác thành đống lớn, nhưng phi nhân nổi gió mạnh thổi tan làm sạch sẽ chỗ ấy. Có hàng trăm ngôi tháp nhỏ ở nơi này, không ai đếm xiết dù có bỏ ra cả ngày mà đếm. Nếu người nào nhất định muốn biết số lượng, bằng cách đặt mỗi người đứng bên mỗi tháp rồi đếm số người, thì luôn luôn có lúc thừa, lúc thiếu, rốt cuộc họ cũng không thể nào biết được số lượng chính xác.

10. Thành Kanyàkubja:

Một ngôi tháp được xây dựng tại chỗ đức Phật đã thuyết Pháp cho các đệ tử. Ngài Huyền Trang có kể thêm một ngôi tháp cách 6-7 dặm về phía Ðông Nam đô thành, cao 200 bộ, do vua A-dục xây để kỷ niệm nơi đức Phật thuyết giảng trong 6 tháng về vô thường khổ vô ngã bất tịnh. Cách 200 bước trước mặt Sanghàrama [Tăng-già-lam] ở Navadevakula có một ngôi tháp cao 100 bộ do A-dục vương xây để kỷ niệm nơi Ðức Phật đã thuyết pháp trong 7 ngày. Cách 3 - 4 dặm về phía Bắc của Tăng-già-lam, có một ngôi tháp cao 200 bộ cũng do A-dục xây để kỷ niệm nơi Phật thuyết pháp.

11. Làng Hàri:

Có những tháp được dựng tại nơi đức Phật thuyết pháp, kinh hành và ngồi Thiền.

12. Vaisàka:

Có những ngôi tháp được xây tại chỗ bố vị Phật kinh hành và ngồi Thiền, phế tích của những nơi ấy đến thời Pháp Hiển vẫn còn.

13. Xá Vệ:

Những tháp đã được xây lên tại di tích tu viện hoang phế của bà Mahàpajàpatì [Ðại Ái Ðạo], nhà ông Cấp Cô Ðộc, nơi Vô Não [thay được hỏa táng sau khi nhập Niết Bàn. Những tháp này bị ngoại đạo phá, nhưng trời giáng sấm chớp làm họ kinh hãi bỏ đi. Có những tháp có tên riêng, được xây tại chỗ Ðức Phật thuyết pháp, kinh hành và ngồi Thiền. Bốn dặm về phía Tây Bắc Xá-vệ là nơi vua Virudhaka [Lưu Ly] tấn công dòng họ Thích-Ca, một ngôi tháp được xây tại chỗ này. Lại có những tháp được dựng để đánh dấu chỗ Phật Ca-diếp đản sanh chỗ Ngài gặp thân phụ, chỗ Ngài nhập Niết bàn. Một ngôi tháp lớn được xây trên những di hài của Phật Ca-diếp.

14. Thành Napika:

Những ngôi tháp được dựng tại chỗ Phật Krakucchand [Câu-lưu-tôn] đản sanh, gặp thân phụ và nhập Niết bàn. Chưa đầy một do-tuần về phía Bắc, có một tháp khác xây trên di tích Phật Kanakamuni [Câu-na-hàm-mâu-ni] đản sanh, gặp thân phụ và nhập Niết Bàn.

15. Ca-tỳ-la-vệ:

Những ngôi tháp được xây tại những địa điểm Thái tử ra cổng thành phía Ðông thấy một người bệnh và cho xe quay về, nơi A-tư-đà xem tướng Thái Tử, nơi Thái Tử cùng Ananda và những người khác vật ngã một con voi, nơi thái tử bắn một mũi tên xuyên qua đất vè phía Ðông Nam 30 dặm, làm cho một dòng nướt vọt lên. Lại có những ngôi tháp xây để kỷ niệm những nơi đức Phật trở về thăm thân phụ sau khi thành đạo, nơi Phật thuyết pháp cho chư Thiên, có Tứ thiên vương gác bốn cổng; nơi đức Phật ngồi dưới cây Nigrodha [Ni-câu-luật] để nhận một cái y do bà Ðại Ái Ðạo cúng, nơi có di tích ngôi chùa của bà, nơi vua Lưu Ly tàn sát dòng họ Thích.

16. Ramagràma:

Quốc vương nước này đã được chia một phần Xá-Lợi của Phật, và khi về nước đã dựng một cái tháp tên Ramagràma. Phía Ðông tháp này cách 8 do-tuần là chỗ Thái Tử từ giã người hầu Xa-nặc và con ngựa trắng của Ngài. Cách ngôi chùa 100 dặm về phía Ðông có một tháp do vua A-dục xây cất. Cách nơi này 4 do-tuần về phía Ðông là Tháp thờ Tro.

17. Câu-thi-na:

Có những ngôi tháp được xây trên những chỗ kỷ niệm đệ tử cuối cùng của Phật là Subhadra [Tu-bạt-đà-la] gia nhập Tăng đoàn; chỗ đức Thế Tôn nằm trong một chiếc quan tài bằng vàng, nhận sự kính lễ trong 7 ngày, chỗ Vajrapàni [Kim Cương Thủ] buông khí giới bằng vàng, chỗ 8 ông vua chia nhau Xá Lợi của Phật.

18. Tỳ-xá-ly:

Một ngôi tháp được xây trên nửa phần Xá-lợi của Tôn giả A-nan. Trong thành này có bà Amrapali người đã xây cho Phật một ngôi tháp, di tích vẫn còn được thấy vào bởi thời Pháp Hiển chiêm bái. Khi đức Phật sắp nhập Niết bàn. Ngài cùng các đệ tử rời Tỳ-xá-ly bằng cổng Tây thành, và quay về bên phải ngoài nhìn đô thị mà nói, đây là nơi cuối cùng Như Lai đã viếng thăm. Một ngôi tháp cũng đã được dựng tại chỗ ấy. Cách thành này 300 dặm về phía Tây Bắc là ngôi tháp Buông Cung Gậy. Hai ngôi tháp được dựng để kỷ niệm hai vị vua tư thành Ðộc giác. Ở đây một ngôi tháp được xây tại chỗ triệu tập đại hội Kết tập lần hai.

19. Ba-liên-phất:

Sau khi phá 7 ngôi tháp cũ, vua A-dục đã xây 84000 tháp mới, ngôi tháp đầu tiên được xây cách thành này 300 dặm về phía Nam.

20. Kàlapinàka:

Cách một do tuần về phía Tây Nam đỉnh núi cô đơn, Pháp Hiển đi đến làng Kàlapinàka. Ðây chính là nơi sinh của Tôn giả Xá-lợi-phất, ngài cũng đã trở về đấy để nhập Niết Bàn. Một ngôi tháp được dựng lên ở đây, đến thời Pháp Hiển chiêm bái vẫn còn.

21. Vương Xá:

Cách cổng Tây Thành 300 bước có một ngôi tháp lớn do vua A-xà-thế xây để thờ phần Xá-lợi của Phật mà vua nhận được.

22. Buddhagayà (Bồ đề tràng)

Tại những nơi mà khi còn tu khổ hạnh đức Phật đã đến, và tại một nơi được kể sau đây, những người sau đã xây những ngôi tháp và dựng tường Phật còn tồn tại đến ngày nay: tháp kỷ niệm chỗ Ngài thưởng thức đại lạc giải thoát trong 7 ngày sau khi giác ngộ, chỗ Ngài kinh hành từ Ðông sang Tây trong 7 ngày dưới cây Bồ Ðề, chỗ chư Thiên cúng dường Ngài trong 7 ngày một đài làm bằng 7 báu; chỗ con rồng mù Muchlinda quấn quanh Phật 7 ngày, chỗ Phật ngồi dưới cây ni-câu-luật xây mặt về hướng Ðông, khi Phạm thiên thỉnh Ngài thuyết pháp; chỗ bốn vua Trời cúng Ngài cái bát khất thực; chỗ 500 người buôn dâng cúng Ngài bột và mật; và chỗ Ngài thâu nhận ba anh em Ca-diếp và một ngàn đồ đệ của họ.

23. Vàrànasi (Ba-la-nại):

Những ngôi tháp được xây dựng tại những nơi đức Phật độ cho nhóm ông Kaundinna [năm anh em Kiều-trần-Như]; nơi Ðức Phật tiên đoán sự ra đời của Phật Di-lặc; nơi con rồng Y-bát-la hỏi Phật đến lúc nào nó mới thoát khỏi thân rồng.

24. Kausàmbi (Câu-diệm-bì):

Cách 8 do tuần phía Ðông vườn Ghoshira [Cù-sư-la] là nơi Phật đã cảm hóa một Ác quỷ. Một ngôi tháp cũng đánh dấu những nơi Ngài đã từng sống, kinh hành và ngồi Thiền.

25. Champà:

Những ngôi tháp được xây tại nơi đức Phật cư trú, kinh hành, và nơi cả 4 đức Phật đã từng ngồi thiền.

26. Nước Sư Tử:

Phía Bắc vương đô này, một ngôi bảo tháp lớn cao 400 bộ, trang hoàng vàng bạc và đủ thứ châu báu, được xây trên một dấu chân của Phật.


[Lời nói đầu][Phần I][Phần II][Phần III][Phần IV]


[Trở về trang Thư Mục]