[08]
Các Ðiểm
Giáo Lý Gặp Gỡ Giữa Kim Cương và Nikàya
hay
Tính Chất Truyền Thống Của Giáo Lý Kim Cương
-ooOoo-
Chúng
tôi trình bày các điểm so sánh giữa giáo lý Kim Cương và
Nikàya dựa vào hai điểm nhận thức cơ bản:
- Kinh tạng Nikàya và
A-hàm được xem như là giáo lý truyền thống (nguyên
thủy) của Phật giáo.
- Duyên khởi, Tứ đế
và Ngũ uẩn như là giáo lý nền tảng của Nikàya và Kim Cương
Bát-nhã.
Bằng nhận thức ấy,
chúng tôi đi vào tìm hiểu và đối chiếu các điểm gặp
gỡ giữa giáo lý hai hệ phái kể trên qua một số nét phát
họa khái quát.
I.-
Tâm Giao Ðộng Và Tâm An Trú:
1. Tâm giao động:
"Này các Tỷ kheo,
có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu? Ở đây có kẻ vô văn
phàm phu, không hiểu rõ pháp của bậc Thánh, không tu tập
pháp của bậc Thánh... xem sắc pháp: "cái này là của tôi,
cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"; xem cảm
thọ là tự ngã của tôi...; xem tưởng là tự ngã của tôi...;
xem các hành là tự ngã của tôi...; xem cái gì được
thấy, được nghe, được nghĩ đến, được ý thức, được
đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư là tự ngã
của tôi; và bất cứ kiến xứ nào nói rằng: "Ðây là
thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn,
thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú
như thế này mãi mãi, xem như vậy là tự ngã của tôi"
(Trung Bộ Kinh I, bản dịch của TT. Thích Minh Châu, 1973, tr
135). Và người ấy khi nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai nói
pháp để bạt trừ tất cả nổ lực, thiên kiến, tùy miên
về mọi chấp trước, kiến xứ, sự vất bỏ mọi chấp trước,
sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn
diệt..., chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Người ấy
lo sầu, khổ não, than vãn, đấm ngực mà khóc đến bất
tỉnh". (Trung bộ I.... 1973, tr. 136b).
2. Tâm An Trú:
"Và này chư Tỷ
kheo, có vị đa văn Thánh đệ tử hiểu rõ pháp của các
bậc Thánh... xem sắc pháp: "cái này là không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự
ngã của tôi; xem cảm thọ...; xem tưởng...; xem các hành không
phải là tự ngã của tôi; xem cái được thấy, được
nghe, được nghĩ đến, được ý thức, được đạt tới,
được tìm cầu, được ý suy tư không phải là tự ngã
của tôi; và bất cứ kiến xứ nào nói rằng: "đây là
thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn...
tôi sẽ trú như thế này mãi mãi" thì xem như vậy là:
"cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải là tự ngã của tôi" (Ibid, tr 136)
Và, "Vị này khi
nghe Như Lai hay đệ tử của Như Lai nói pháp để bạt trừ
tất cả nổ lực, thiên kiến, tùy miên về mọi chấp trước
kiến xứ, sự an tĩnh của mọi hành động, sự vất bỏ
mọi chấp trước, sự diệt trừ khát ái, để đưa đến
ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Vị ấy có thể không nghĩ
như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt". Vị
ấy không cần lo, khổ não, than vãn, không đấm ngực mà khóc
cho đến bất tỉnh" (Ibid, tr 136b)
Như thế, theo Nikàya,
nếu rời chấp thủ ngũ uẩn, rời chấp thủ tự ngã của
các pháp, thì tâm sẽ an trú, thoát ly khỏi phiền não, khổ
đau - Ðó là con đường để an trú, phát triển và hàng
phục tâm của Nikàya.
Kim Cương thì dạy Bồ
tát cầu quả giác vô thượng cần phải rời tất cả tưởng
tự ngã, rời hết mọi chấp thủ.
Như vậy, có điểm giáo
lý gặp gở rất là căn bản về an trú, phát triển và hàng
phục tâm giữa Nikàya và Kim Cương Bát nhã. Phải chăng đây
là điểm giáo lý truyền thống?
II.-
Giáo Lý Vô Ngã - Bác Bỏ Các Thuyết Về Tự Ngã:
Gần trọn tập Tương
Ưng bộ kinh II bàn về Duyên khởi và Vô ngã. Nửa tập Tương
Ưng III nói về Ngũ uẩn và Vô ngã. Các kinh còn lại đều
bàng bạc giáo lý Duyên khởi, Ngũ uẩn và Vô ngã.
Kinh Bà sa Cù đa Hỏa
dụ (Vaccha-gottasuttam, Trung II) nói đến các vấn đề siêu hình,
con người và Như Lai rằng: "Những tri kiến chủ trương
rằng: thế giới là thường hằng, thế giới là vô thường,
thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên, cơ thể và
thân mạng là một, cơ thể và thân mạng là khác, Như Lai có
tồn tại sau khi chết, Như Lai không tồn tại sau khi chết,
Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.
Tất cả những tri
kiến ấy là tà kiến, là kiến trù lâm, kiến hoang vu,
kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi
với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không
hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết bàn" (tr 485)
Và, "Do vậy ta nói
rằng sự đoạn trừ, ly tham, đoạn diệt, xã bỏ, vất bỏ
tất cả các ảo tưởng (manànita - gồm ái, tà kiến và
mạn) tất cả hôn mê (matthita) của tất cả ngã kiến, ngã
sở kiến, mạn, tùy miên, mà Như Lai được giải thoát, không
còn chấp thủ" (tr 488)
Như thế, Nikàya giới
thiệu vô ngã và phủ nhận tất cả các loại tưởng, tất
cả kiến thức (thuộc ngã tưởng) do tưởng dựng nên (các
ngã tướng) và làm dấy khởi chấp thủ, tham ái.
Kim Cương chủ trương
lìa bỏ tất cả tưởng: đoạn kinh số 6 nêu rõ xa lìa 8
loại ngã tưởng; đoạn 17... nói về vô ngã tính, tất cả
các pháp là vô ngã.
Có thể nói rằng không
có điểm dị biệt nào về hai điểm giáo lý trên giữa Nikàya
và Kim Cương.
III.-
Như Lai:
1. Có nên thấy
Như Lai qua sắc tướng không?
Kinh Ba-sa-cù-đà Hỏa
Dụ, Trung bộ II (tr 488A-488B) ghi đại lược rằng:
"Thế Tôn xác định không thể nhận biết Thế Tôn qua
sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn hay thức uẩn.
Bởi vì Như Lai là bậc đã đoạn diệt ngũ uẩn. Hơn nữa
tất cả thấy biết về Như Lai đều rơi vào chấp thủ tướng
trong khi Như Lai là bậc đã đoạn diệt chấp thủ (Tương
Ưng IV, phần cuối tập kinh đề cập tương tự như trên).
Kim Cương nhiều lần xác
định không nên thấy Như Lai qua thân sắc của Như Lai. Tóm
lại lời dạy ấy, bài kệ của đoạn 26a ghi:
"Nếu thấy Ta qua
thân sắc của Ta
Nếu nghe Ta qua tiếng nói của Ta
Người ấy làm vậy là sai
Sẽ không thấy được Ta."
Thế là chủ trương không
nên thấy Như Lai qua thân sắc giống hệt nhau giữa Nikàya và
Kim Cương Bát-nhã.
2. Như Lai là Như
tánh của các pháp (Suchness):
Trung bộ I, Kinh số 28;
Tương Ưng III, tr 144; và Tiểu bộ I, tr 48 (bản dịch in
lần thứ nhất của TT. Thích Minh Châu) đều ghi:
"Ai thấy Duyên
khởi là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Ta (Như
Lai)."
Một lần Thế Tôn đến
thăm hỏi Vakkali bị bệnh, Tôn giả bạch: "Ðã từ lâu,
Bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn,
nhưng thân không đủ sức khỏe để đến thấy Thế Tôn".
Thế Tôn dạy: "Thôi đủ rồi, này Vakkali, có gì đáng
thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, thấy Ta là
thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Ta." (Tương Ưng III. 1982,
tr 144).
Kim Cương, đoạn 26
ghi:
"Nên thấy chư
Phật từ Pháp,
Lời chỉ dạy của chư Phật đến từ pháp thân
Thật tánh của các pháp không thể được nhận thức
Không ai có thể nhận thức thực tánh như một đối tượng"
Ðoạn kinh Kim Cương
17c thì xác định: "Như Lai, này Tu-bồ-đề, là đồng
nghĩa với như tánh."
Như thế, không có gì
khác biệt về nghĩa "Như Lai là thật tánh của các pháp"
giữa Nikàya va Kim Cương Bát nhã.
3. Một định
nghĩa khác về Như Lai:
Tương Ưng I, (phẩm Cây
Lau, tr 1, bản dịch của TT. Thích Minh Châu) ghi lại một
mẫu đối thoại giữa Thế Tôn và một vị Thiên rằng:
-Vị Thiên hỏi: Thưa Tôn
giả, làm sao Ngài vượt khỏi bộc lưu? (bộc lưu là chỉ dòng
sinh tử, dòng ái, thủ).
-Thế Tôn dạy: Này
Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt qua
bộc lưu.
-Vị Thiên tán thán:
Từ lâu tôi mới thấy Bà-la-môn tịch tĩnh, không đứng
lại, không bước tới, vượt chấp trước ở đời. Lời tán
thán được Thế Tôn yên lặng chấp nhận.
Trên thực tế, Thế Tôn
vẫn đi, đứng, nằm, ngồi, nhưng Ngài rời khỏi mọi tưởng
chấp ngã, nên gọi là không bước tới không đứng lại.
Lối diễn đạt ấy
giống hệt thể cách diễn đạt của Kim Cương Bát nhã.
"Như Lai đi về đâu và đến từ đâu?" (đoạn kinh
29)
Quả không có nghĩa khác
biệt giữa hai lời dạy trên.
4.Vô trú của
Bồ tát và của Như Lai:
Vô trú đồng nghĩa
với không tác ý tất cả tướng, nghĩa là không trước tướng,
không chấp thủ. Cũng có thể hiểu vô trú là trú trong không
tánh (vô ngã tánh) của các pháp. Ðây là nghĩa chánh niệm
tỉnh giác lìa xa tham ái, sầu ưu. Kinh Tiểu Không (Cùlasunõnõatasuttam),
Trung Bộ kinh III, chép:
"Này Ananda, vị
Tỳ kheo không tác ý vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý
phi tưởng phi phi tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên
"vô tướng tâm định". Tâm vị ấy thích thú, hân
hoan, an trú giải thoát trong vô tướng tâm định. Vị ấy
biết như sau: vô tướng tâm định này thuộc hữu vi do tâm
tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt.
Vị ấy biết như vậy tâm được giải thoát khỏi dục
lậu, hữu lậu và vô minh lậu...Vị ấy biết loại tưởng
này không có dục lậu, không có hữu lậu, không có vô minh
lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu
nhập duyên mạng duyên với thân này. Và cái nào không có
mặt ở đây vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "cái kia có, cái
này có". Này Ananda, cái này đối vị ấy là như vậy,
thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh
tịnh không tánh."
Kinh Ðại Không (Mahasunõnõasuttam),
Trung Bộ III, ghi:
"Này Ananda, Ta không
quán thấy một sắc pháp nào trong ấy có hoan hỷ, có hoan
lạc, nhưng chịu sự biến dịch, đổi khác mà không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, não... Nhưng sự an trú này, này
Ananda, đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau
khi không tác ý tất cả tướng, chứng đắc và an trú nội
không... Này Ananda, "sau khi chứng đạt nội không Ta sẽ
an trú", "vị Tỷ kheo cần phải an chỉ, an tịnh,
chuyên nhất và an tịnh nội tâm" (tr 262).
(Chú Thích: An trú
nội không: Sớ giải ghi là thấy rõ 5 uẩn là vô ngã; Trú
nội không: ở giữa đám đông mà thấy như là độc cư; An
tịnh nội tâm: Sớ giải ghi là trú vào Tứ thiền sắc định).
Hai đoạn kinh trên
của Nikàya nói lên rõ rằng Thế Tôn thường an trú ở Tứ
thiền sắc định, ở đó Thế Tôn giữ nhất niệm trú không
tánh, loại hết thảy tâm chấp thủ. Như thế trú không tánh
hay vô trú, là không trú tâm vào các sắc pháp mà trú vào
Tứ sắc định và để niệm trên vô ngã tướng (hay giữ
Chánh tưởng vô ngã).
Kinh Kim Cương đoạn
10c, nói vị Bồ tát đúng nghĩa thì khởi niệm không trú trước
vào đâu cả, không trú sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.
Ðoạn 14a dạy, Bồ tát nên khởi lên thật tưởng. Và
"thật tưởng thì không phải là ngã tưởng" (đoạn
14c).
Các trích dẫn trên đều
thống nhất về nghĩa vô trú, không tác tưởng hữu ngã, vô
niệm, trú không tánh giữa Nikàya và Kim Cương.
Nikàya và Kim Cương còn
ghi hệt nhau về phản ứng tâm lý của một số thính chúng
khi nghe các giáo lý trên.
Tương Ưng III, tr
103-104, ghi:
"Này các Tỷ kheo,
các loài thú thuộc bàng sanh, khi nghe tiếng rống của Sư
tử - vua của loài thú - phần lớn chúng sợ hãi, run sợ,
khiếp đảm... Cũng vậy, này các Tỷ kheo có những chư thiên
tuổi thọ dài, có mỹ sắc, hưởng lạc nhiều... các vị
thiên này sau khi nghe Như Lai thuyết pháp, phần lớn họ sợ
hãi, run sợ khiếp đảm. Họ nghĩ rằng: "chúng ta là vô
thường, trong khi chúng ta tưởng là thường còn, thường trú..."
Kim Cương đoạn 14c và
14d thì diễn tả: "Như Lai đã vất bỏ lại ở đằng
sau tất cả tưởng. Thật là phước đức hy hữu cho những
ai khi nghe kinh này mà không run rẩy, không sợ hãi, không
kinh hoàng."
Giáo lý vô
ngã, vô thường, vô trú, không tác ý ngã tưởng
vừa nêu trên vẫn để lại nhiều kinh ngạc cho các nhà
nghiên cứu tôn giáo và triết học. Ðó là điểm giáo lý
rất đặt thù và rất là truyền thống của Phật giáo.
5.- Như Lai,
A-la-hán, Bồ-tát:
a)- Kim Cương và Nikàya
mỗi khi nói đến Phật thường xưng là Như Lai, bậc A-la-hán,
bậc Chánh Ðẳng giác, như thế cả hai bộ phái này đều xác
nhận đức Phật cũng là một bậc A-la-hán. Nói khác đi,
về mặt giải thoát khỏi các lậu hoặc (hay giải thoát thân,
vimuktikàya) xuất ly sinh tử trong tam giới thì giữa Phật và
A-la-hán là đồng đẳng.
b)- Theo Tương Ưng bộ
kinh III (phẩm Tham luyến và phẩm Chánh đẳng giác) xác định
giữa Phật và A-la-hán đệ tử có sự khác biệt về sứ
mệnh khai đạo (chuyển pháp luân). Một nơi khác của Nikàya,
một lần Tôn giả Xá-lợi- phất xác nhận tâm của vị
A-la-hán đệ nhất chưa thể biết rõ tâm Như Lai; đây là
điểm khác biệt về pháp thân.
-"Như Lai, này các
Tỷ kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng giác làm cho khởi lên
con đường trước kia chưa được đem lại con đường trước
kia chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường
trước kia chưa được tuyên thuyết là bậc tri đạo, bậc
ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn các vị đệ
tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu đạo."
Thế là, trong hàng
A-la-hán có sự khác nhau về pháp thân (Dharma-kàya) nên mới
có các vị đệ nhất về trí tuệ, đệ nhất ly dục, đệ
nhất thần thông, đệ nhất thiền định... Thế Tôn đã xác
nhận trong Nikàya, Tôn giả Xá- lợi-phất ngang hàng Thế Tôn
về mặt trí tuệ rõ biết pháp giới; Tôn giả Mục Kiền
liên ngang hàng Thế Tôn về thần thông; Tôn giả Ðại Ca
Diếp ngang hàng Thế Tôn về mặt thiện xảo nhập trú và
xuất định... Thế Tôn là bậc A-la- hán viên mãn đủ các
mặt giải thoát và được gọi là Phật, vô thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác.
Theo đó, Bồ Tát, Bích
Chi Phật đều là A-la-hán cả, nhưng cấp độ đi đến toàn
giác có khác nhau.
Ta có thể nêu một ví
dụ cho dễ nhận: - Như một người vừa trả sạch nợ
cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng rõ ràng vị này còn thiếu
niềm hạnh phúc của vị sau khi trả sạch nợ lại còn giàu
có nữa.
Cũng thế, Phật, Bích
Chi, Bồ-tát, A-la-hán đều là những vị đã phải sạch
nợ sinh tử, loại hết các lậu hoặc tham sân si (giải thoát
thân - Vimukti-Kàya). Nhưng cấp độ của cải sung mãn sau khi
phủi sạch nợ giữa các vị thì khác nhau. Ðây là điểm
khác biệt về pháp thân (Dharma-kàya). Ðức Phật đã viên mãn
cả pháp thân, còn các bậc giải thoát kia chưa viên mãn, đang
trên đường hướng đến viên mãn, tiếp tục thành tựu pháp
thân.
c)- Bồ tát là mẫu
giải thoát, hành đạo lý tưởng của Ðại thừa. Nikàya
vẫn đề cập nhiều đến Bồ tát hạnh, đặc biệt là
Bổn sanh (Jàkata), nhưng không sắp đặt thành lý tưởng
Bồ tát độ sanh như Ðại thừa.
Bồ tát chân nghĩa,
theo Kim Cương, là đoạn diệt hết các vọng tưởng, hết các
lậu hoặc và đắc Niết bàn như một A-la-hán, nhưng ở
lại sinh tử để độ sinh, tương tự Bồ tát Thiện Tuệ
(Sumedha) kiết tập trong Nikàya.
Thực ra vị Ðại
A-la-hán đề cập ở Nikàya cũng biểu hiện đủ Lục độ
Ba la mật như một vị Ðại Bồ tát:
- Các bậc A-la-hán thường
an trú giới uẩn với tâm ly thủ hoàn toàn là nghĩa Trì
giới ba la mật.
- Các A-la-hán vẫn trú
thế, dù có thể nhập Niết bàn kham nhẫn thuyết pháp độ
sinh là nghĩa nhẫn nhục và Bố thí Ba la mật.
- Các A-la-hán thường
trú vô tưởng định, hay trú không tánh, gọi là Thiền định
Ba la mật (các vị vẫn đắc diệt thọ tưởng).
- Các vị chỉ ngủ
non 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày, thì giờ còn lại để hành
đạo là nghĩa Tinh tấn ba la mật.
Thật là lầm lẫn
nếu còn quan niệm A-la-hán là tiểu thừa, quá nhỏ.
6. Như Lai lực:
Tăng Chi III, (ấn bản
1981, tr 41-42) ghi 10 Như Lai lực như sau:
Như Lai biết rõ xứ
và phi xứ...
Như Lai biết rõ quả báo của chúng sinh trong ba đời...
Như Lai thấy rõ con đường dẫn đến các sanh thú...
Như Lai thấy rõ vô lượng thế giới...
Như Lai thấy rõ tâm hướng sai biệt của chúng sinh...
Như Lai thấy rõ các thiền định, nhiễm, tịnh....
Như Lai biết rõ căn cơ của mọi chúng sinh...
Chứng Túc Mệnh Minh...
Chứng Thiên Nhãn Minh...
Chứng Lậu Tận Minh...
Kim Cương (đoạn
18a-18b) giới thiệu về ngũ nhãn của Thế Tôn cũng bao hàm
nội dung chứng đắc của 10 Như Lai lực kể trên.
IV.
Bố Thí Pháp Là Tối Thắng:
Nikàya ghi: "Này các
Tỷ kheo, có hai loại bố thí: bố thí tài vật và bố thí
pháp. Tối thắng trong hai loại bố thí này là pháp thí"
(Tăng chi I, 1981,tr 105)
- "Này Xá-lợi-phất,
có hạng bố thí với tâm mong cầu, với tâm trói buộc,
với tâm chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng
quả báo trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy khi thân
hoại mạng chung sẽ được sinh lên cùng sống với Tứ Thiên
vương thiên. Và vị ấy khi nghiệp dứt, thần lực ấy,
danh tiếng ấy, uy quyền ấy cũng dứt, vị ấy trở lại
trạng thái này".(Tăng chi IIIa, 1981, tr 61).
- "... Nhưng vị
ấy không có bố thí như trên, nay bố thí để "trang
nghiêm tâm, trang bị tâm". Do bố thí như vậy, sau khi thân
hoại mạng chung, vị ấy sanh về cùng trú với Phạm chúng
thiên. Ở đó, khi nghiệp dứt, thần lực ấy, uy quyền ấy
dứt, vị ấy trở thành vị Bất Lai, không còn trở lại
trạng thái này nữa." (Tăng chi IIIa, 1981, tr 63)
Bố thí rời khỏi
hết thảy các ngã tưởng, không trú sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp, là hình thức tương tự với bố thí để
trang nghiêm tâm (nghĩa là để loại trừ các lậu hoặc tham
sân si).
Kim Cương gọi hình
thức bố thí này là để "trang nghiêm cõi Phật"
(trang nghiêm tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc là đồng
nghĩa với trang nghiêm cõi Phật).
Duy chỉ có một điểm
khác biệt giữa Nikàya và Kim Cương về hạnh bố thí là
về phương pháp hay kỷ thuật giáo hóa.
- Nikàya giới thiệu
bố thí như là pháp môn tu tập bước đầu vào đạo trước
khi hành Tứ đế để đoạn diệt lậu hoặc.
- Kim Cương thì xây
dựng bố thí thành Ba la mật cho Bồ tát đạo.
V.-
Nương Tựa Mình Và Nương Tựa Pháp, Hay Tính Chất Nhân
Bản Và Thiết Thực Hiện Tại Của Phật Giáo:
Nikàya kiết tập rất
nhiều lời dạy của Thế Tôn về chỉ dẫn đệ tử trở
về nương tựa mình và nương tựa pháp.
- "Ngươi là nơi
nương tựa của chính ngươi, ai khác có thể là nơi nương
tựa". (Dhp XII,4)
- "Ngươi phải làm
công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ dạy con đường."
(Dhp,XX 4)
- "Này Ananda, hãy
tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương
tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chổ nương tựa,
chớ nương tựa một gì khác. Và này Ananda, thế nào là
một Tỷ kheo tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình
nương tựa chính mình?
Này Ananda, một Tỷ
kheo tu tập Tứ niệm xứ, là tự mình làm ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa chính mình." (Tương ưng
V,tr 160)
Kim Cương rất nhiều lượt
tán dương người tự mình học hiểu, giảng nói và thực
hiện Bát nhã, xem công đức ấy vô lượng vô biên, lớn hơn
nhiều so với công đức bố thí vô lượng châu báu, lớn hơn
nhiều so với công đức cúng dường hầu hạ chư Phật.
Cả hai nền giáo lý đều
quyết định điều căn bản của giải thoát là trở về nương
tựa mình và nương tựa pháp.
VI.
Giáo Lý Như Chiếc Bè:
Ðoạn kinh số 6 của
Kim Cương đưa ra ảnh dụ chiếc bè nói lên vai trò giảng
dạy và chỉ đường của Thế Tôn.
Chiếc bè là để vượt
qua, mà không phải để nắm giữ. Chiếc bè không phải là
bờ bến và cảnh giới giải thoát ở bên kia. Cũng thế, giáo
lý cũng là chỉ để giúp hành giả vượt qua dòng sông tham
sân si của các ngã tưởng.
Kinh Xà dụ (Trung I,
số 23) như có đề cập ở chương II, cuốn sách này, nêu lên
nội dung tương tự ý nghĩa nhu Kim Cương.
Thực ra, kinh Xà dụ nói
lên nhiều ý nghĩa của ảnh dụ con rắn (bắt rắn) và
chiếc bè có thể được tóm tắt vào các điểm chính để
so sánh với Kim Cương như sau:
- Cần thận trọng
nắm giữ nghĩa Kinh, như việc bắt rắn phải bắt ở đầu
rắn với cây gậy.
- Dục (thủ) là pháp
chướng đạo. Giáo lý giải thoát là để đoạn trừ
dục ái, hữu ái và vô hữu ái.
- Chiếc bè là để vượt
qua, mà không phải để chấp thủ; và phải biết cách chèo
chống, chèo chống đúng hướng.
- Về định, cần
trừ bỏ vô tưởng định, và phi tưởng và phi phi tưởng
xứ định. Về tuệ, ngay cả chánh kiến minh bạch thế, cũng
đừng chấp thủ nó.
Kim Cương dạy từ bỏ
chấp thủ cả pháp (Dharma) và không pháp (adharma). ảnh dụ
giáo lý như chiếc bè là ảnh dụ rất thời danh và rất là
truyền thống của kinh tạng Phật giáo.
VII.-
Về Căn Cơ Ðại Thừa Và Căn Cơ Tiểu Thừa:
Nikàya thường phân
biệt có hai hạng căn cơ là: các bậc Thánh và các phàm
phu.
- Phàm phu là hạng không
học hiểu và không rõ các pháp của bậc Thánh, không
thuần thục pháp của bậc Thánh, không tu tập pháp của
bậc Thánh...., luôn luôn xem 5 uẩn là "cái này là
của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi".
Có nghĩa là luôn chấp thủ ngã tướng.
- Hạng Thánh nhân: Luôn
đa văn, thuần thục pháp của bậc Thánh... luôn luôn xem 5
uẩn (cái này không phải là của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi). Có nghĩa
là luôn luôn rời khỏi chấp thủ các ngã tướng.
Kinh Kim Cương, đoạn
14a và 14b cũng phân chia có hai hạng người:
- Hạng căn cơ tiểu
thừa, thường chấp thủ các ngã tướng và thiếu quyết
tâm cầu giác ngộ Phật quả.
- Hạng căn cơ đại
thừa: thường rời xa chấp thủ các ngã tướng và có chí
cầu các quả Phật.
Thế là, Nikàya và Kim
Cương gặp nhau trong việc phân loại căn cơ có sắc thái
truyền thống như vừa nêu.
Tại đây, không có nơi
nào trong giáo lý đề cập đến điểm gọi là giáo lý
tiểu thừa và giáo lý đại thừa cả.
VIII.-
Giáo Lý Trung Ðạo:
Nikàya đề cập đến
hai ý nghĩa trung đạo:
- Trung đạo tu tập
thì tránh xa hai cực đoan ép xác và hưởng thụ dục
lạc.
- Trung đạo thật nghĩa.
Tương Ưng II, ghi lời
dạy của Thế Tôn rằng:
"Này Kaccayana, thế
giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan: có và không có.
Này Kaccayana, ai với chánh trí tuệ thấy như chân thế
giới tập khởi, thì không chấp nhận thế giới là không có.
Ai với chánh trí tuệ thấy như chân thế giới này đoạn
diệt, thì không chấp nhận thế giới này là có. Này
Kaccayana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói
buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không
chấp thủ phương tiện, không chấp thủ thiên chấp tùy miên
ấy, không có chấp trước, không có trú trước. Vị ấy không
có nghĩ: "đây là tự ngã của tôi". Khi khổ sanh thì
thấy là sanh, khi khổ diệt thì thấy là diệt. Vị ấy không
có nghi ngờ, không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí
ở đay là của vị ấy. Cho đến như vậy là chánh kiến.
"Tất cả là có" này Kaccayana, là một cực đoan,
"tất cả là không có" là một cựa đoan thứ hai.
Xa lìa hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết trung đạo: "Vô
minh duyên hành, hành duyên thức..." Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn tập khởi. Nhưng do ly tham, đoạn hết vô minh
nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt... thủ
diệt....". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn
diệt." (1982, tr 20)
Trung đạo
thật nghĩa theo Nikàya là rơi khỏi chấp thường,
chấp đoạn, chấp có, chấp không. Nghĩa là rời khỏi
chấp thủ bất cứ gì ở đời.
Toàn kinh Kim Cương là
dạy rời khỏi chấp thủ tất cả các ngã tướng. Ðoạn
27, dạy rời khỏi chấp thường, và chấp đoạn. Ðoạn 32b
xác nhận thực tại không phải là pháp (Dharma) cũng không
phải là không pháp (adharma).
Ðây là điểm giáo lý
rất nền tảng gặp gỡ khắng khít giữa Kim Cương và Nikàya.
Chúng ta có xua tan một số quan điểm sương mù ngộ nhận
về giáo lý Nikàya và Kim Cương bằng cách phát biểu rằng:
-- Nikàya là
giáo lý rất đại thừa và Kim Cương là giáo lý rất
truyền thống Phật giáo vậy.
IX.-
Tán Thán, Tôn Trọng Người Nói Pháp:
-Tăng Chi I, (phẩm Tối
Thắng, tr 148) liệt kê các vị Tăng Ni và nam cư sĩ thuyết
pháp giỏi nhất, nữ cư sĩ đa văn nhất, chứng tỏ thời
bấy giờ có nhiều cư sĩ nói pháp và sự nói pháp giỏi
được Thế Tôn tán thán.
-Kinh Pháp Cú, câu số
392, ghi:
"Từ ái, được
nghe chánh pháp
Ðã được Thế Tôn thuyết giảng
Hãy đãnh lễ vị thuyết pháp
Như người Phạm chí thờ lửa".
-Tăng Chi II, ghi về
một trưởng lão được chư Tăng ái mộ thời hội đủ các
đặc điểm sau đây:
"Ðạt được nghĩa
vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, và
biện tài vô ngại giải..." (các khả năng là 4 vô
ngại giải của một vị Bồ tát, theo quan điểm Tắc
tạng).
Kinh Kim Cương nhiều lượt
ca tụng vô cùng công đức của người giảng kinh, xem nơi có
mặt người giảng nói kinh như là nơi điện pháp, thánh tích
hoặc sẽ có mặt Như Lai hay đại đệ tử của Như Lai, nơi
đó đáng được đảnh lễ, tôn trọng cúng dường.
Ðây là một điểm
gặp gỡ có tính truyền thống khác.
X.-
Giáo Lý Ngũ Uẩn Và Thiền Quán Vô Thường, Vô Ngã:
1.- Giáo lý ngũ
uẩn:
Về hai điểm giáo lý
này thì bàng bạc khắp kinh tạng Nikàya. Ở đây chỉ trích
dẫn tiêu biểu:
-"Với những ai
sống một mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ
kheo, nương tựa chính mình, không nương tựa một ai khác, hãy
như lý tác ý: "sầu, bi, khổ, ưu, não do nguồn gốc nào
sanh? do cái gì làm cho có mặt? "Ở đây, này các Tỷ
kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ pháp của các bậc
Thánh...., quán sắc là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc,
hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc; khi sắc
này biến hoại, đổi khác, thì sầu, bi, khổ, ưu, não
khởi lên. (tương tự đối với thọ, tưởng, hành và
thức uẩn) (Tương Ưng III, 1982, tr 51).
Và: "Này các Tỷ
kheo, biết được sắc là vô thường, biến hoại..., vị
ấy thấy tất cả sắc xưa nay là vô thường, khổ, chịu
sự biến hoại. Do thấy như thật với chánh trí tuệ như
vậy, các sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận, vị
ấy giải thoát khỏi các tướng phần, nhứt hướng Niết Bàn".
(tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức uẩn). (Tương
Ưng III, 1982, tr 52-53)
Tại đây, Nikàya xác
định gốc của khổ đau là do chấp thủ 5 uẩn. Gốc của
giải thoát là giác tỉnh 5 uẩn là vô thường, vô ngã và
khổ đau mà ly tham ái, ly chấp thủ chúng.
Kim Cuơng dạy rời
chấp thủ 6 trần là nghĩa rời khỏi chấp thủ 5 uẩn
vậy.
2.- Thiền quán:
Kinh Pháp Cú ghi:
"Hãy nhìn như
bọt nước,
Hãy nhìn như ảo cảnh
Hãy nhìn đời như vậy
Thần chết không thấy được". (Dhp, 170)
Bài kệ cuối kinh Kim Cương
dạy cách nhìn các pháp hữu vi tương tự như thế.
Ðiểm giáo lý gặp
gỡ này hẳn rõ là rất căn bản và rất truyền thống
của Phật giáo.
Trên đây là một số
điểm so sánh tiêu biểu.
Theo lịch sử phát
triển tư tưởng Phật học, thì Nikàya được kiết tập trước
thời kỳ bộ phái nhiều trăm năm, nên điều có thể phát
biểu về sự gặp gỡ của hai nền giáo lý Nikàya và Kim Cương
Bát-nhã là:
Giáo lý Bát
nhã có trọn nguồn gốc từ kinh tạng Nikàya, hay giáo lý
Bát nhã có đầy đủ nội dung của giáo lý truyền thống
(hay nguyên thủy) của Phật giáo.
---ooOoo---
Ghi chú cuối bài:
Mời các bạn đọc, đọc
thêm bài: "Thượng tọa bộ, Ðại thừa, và Lý tưởng
Bồ tát trong Phật giáo" của Hòa thượng Tiến sĩ W.
Rahula, bài dịch đã đăng trong Tập văn Giáo hội số Phật
Ðản 2532./.
("Bodhisattva Ideal in Buddhism",
Ven. Dr. W. Rahula)
-ooOoo-
Mục
lục | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| 06 | 07 |
08 | 09 | 10 |