BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode VU-Times font |
THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
KINH TỤNG
Dịch giả: TỊNH TÂM
(Hòa thượng HỘ TÔNG)
Ấn bản 2005
Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode) |
[01]
ANUMODANĀRAMBHAGĀTHĀ Khi thầy Tỳ khưu hoặc Sa di thọ lãnh một vật chi nơi thí chủ rồi, hoặc thọ thực xong, thì vị Sư trưởng khởi đầu tụng bài phúc chúc như vầy:
Yathā vārivahā pūrā, Các con đường nước đầy đủ, nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà thí chủ đã làm trong lúc hiện tại đây,
Evameva ito dinnaṃ, Cầu xin cho đặng kết quả đến những người đã quá vãng.
Icchitaṃ paṭṭhitaṃ tumhaṃ, Cầu xin các quả lành mà người đã mong mỏi, cho được mau thành tựu kịp thời đến người. Sabbe pūrentu saṅkappā. Cầu xin những sự suy xét chơn chánh cho được tròn đủ đến người. Cando paṇṇaraso yathā. Như trăng trong ngày Rằm. Maṇijotiraso yathā. (Bằng chẳng vậy) cũng như ngọc Ma-ni chiếu sáng rỡ ràng là ngọc quý báu, có thể làm cho tất cả sự ước ao của người đều được như nguyện. -ooOoo- [02]
SĀMAÑÑĀNUMODANAGĀTHĀ “Các thầy khác tụng tiếp theo” Sabbītiyo vivajjantu. Cầu xin cho tất cả sự rủi ro của người đều được xa lánh. Sabbarogo vinassatu. Cầu xin cho tất cả tật bịnh của người đều được dứt khỏi. Mā te bhavatvantarāyo. Sự tai hại cũng chẳng có đến cho người. Sukhī dīghāyuko bhava. Cầu xin cho người được sự an vui trường thọ. Sabbītiyo vivajjantu. Cầu xin cho tất cả sự rủi ro của người đều được xa lánh. Sabbarogo vinassatu. Cầu xin cho tất cả tật bịnh của người đều được dứt khỏi. Mā te bhavatvantarāyo. Sự tai hại cũng chẳng có đến cho người. Sukhī dīghāyuko bhava. Cầu xin cho người được an vui trường thọ. Sabbītiyo vivajjantu. Cầu xin cho tất cả sự rủi ro của người đều được xa lánh. Sabbarogo vinassatu. Cầu xin cho tất cả tật bịnh của người đều được dứt khỏi. Mā te bhavatvantarāyo. Sự tai hại cũng chẳng có đến cho người. Sukhī dīghāyuko bhava. Cầu xin cho người được sự an vui trường thọ.
Abhivādanasīlissa, Cả 4 Pháp chúc mừng là: Sống lâu, Sắc đẹp, An vui, Sức mạnh, hằng thêm đến người, là người năng nghiêng mình lễ bái, cúng dường đến Tam-Bảo và có lòng tôn kính các bậc tu hành tinh tấn nhứt là bậc trì Giới, và bậc Trưởng lão. -ooOoo- [03]
MAṄGALACAKKAVĀḶA Sabbabuddhānubhāvena. Do nhờ đức của chư Phật. Sabbadhammānubhāvena. Do nhờ đức của chư Pháp. Sabbasaṅghānubhāvena. Do nhờ đức của Chư Tăng.
Buddharatanaṃ dhammaratanaṃ Do nhờ đức của Tam-Bảo, Phật-Bảo, Pháp-Bảo, Tăng-Bảo.
Caturāsītisahassa Do nhờ đức của 8 muôn 4 ngàn Pháp môn. Piṭakattayānubhāvena. Do nhờ đức của Tam Tạng. Jinasāvakānubhāvena. Do nhờ đức của chư Thinh-Văn đệ tử Phật. Sabbe te rogā. Tất cả các tật bịnh của người. Sabbe te bhayā. Tất cả sự lo sợ của người. Sabbe te antarāyā. Tất cả sự tai hại của người. Sabbe te upaddavā. Tất cả sự khó chịu của người. Sabbe te dunnimittā. Tất cả điều mộng mị xấu xa của người. Sabbe te avamaṅgalā vinassantu. Tất
cả điều chẳng lành của người. Āyuvaḍḍhako. Dhanavaḍḍhako. Sự sống lâu. Sự tấn tài. Sirivaḍḍhako. Yasavaḍḍhako. Sự thạnh lợi. Sự sang cả. Balavaḍḍhako. Vaṇṇavaḍḍhako. Sự mạnh khỏe. Sự sắc đẹp. Sukhavaḍḍhako. Hotu sabbadā. Sự an vui. Cầu xin hằng đến cho người. Dukkharogabhayā verā. Tất cả sự khổ não, tật bịnh, lo sợ hoặc điều oan kết. Sokā sattu cupaddavā. Hoặc tất cả sự uất ức, các cảnh nghịch hoặc sự khó chịu. Anekā antarāyāpi. Hoặc nhiều sự tai hại. Vinassantu ca tejasā. Cầu xin cho được tiêu diệt, do nhờ các đức (nhứt là đức của Chư Phật). Jayasiddhi dhanaṃ lābhaṃ. Sự vinh hiển, sự phát tài, sự phát lợi. Sotthi bhāgyaṃ sukhaṃ balaṃ. Hoặc sự thạnh lợi phong lưu, sự an vui hoặc sức mạnh. Siri āyu ca vaṇṇo ca. Sự phước lợi, sự sống lâu, sự sắc đẹp. Bhogaṃ vuḍḍhī ca yasavā. Sự tấn tài, sự tấn hóa, sự sang cả.
Satavassā ca āyu ca, Hoặc
sự sống đến trăm tuổi, hoặc sự thành tựu trong việc nuôi mạng cho được
an vui, Bhavatu sabbamaṅgalaṃ. Tất cả hạnh phúc hằng có đến người. Rakkhantu sabbadevatā. Cầu xin Chư Thiên hộ trì đến người. Sabbabuddhānubhāvena. Do nhờ oai đức của Chư Phật. Sadā sotthī bhavantu te. Các sự thạnh lợi thường thường đến người. Bhavatu sabbamaṅgalaṃ. Các sự hạnh phúc hằng có đến người. Rakkhantu sabbadevatā. Cầu xin Chư Thiên hộ trì đến người. Sabbadhammānubhāvena. Do nhờ oai đức của các Pháp. Sadā sotthī bhavantu te. Các sự thạnh lợi thường thường đến người. Bhavatu sabbamaṅgalaṃ. Các sự hạnh phúc hằng có đến người. Rakkhantu sabbadevatā. Cầu xin Chư Thiên hộ trì đến người. Sabbasaṅghānubhāvena. Do nhờ oai đức của Chư Tăng. Sadā sotthī bhavantu te. Các sự thạnh lợi thường thường đến người. -ooOoo- [04]
BHOJANADĀNĀNUMODANAGĀTHĀ
Āyudo balado dhīro, Người có trí là người hay thí thọ, thí lực, thí sắc đẹp, thí Trí tuệ.
Sukhassa dātā medhāvī, Người có trí là người hay thí sự an vui, thì hằng được sự an vui. Āyuṃ datvā balaṃ vaṇṇaṃ, Sukhañca paṭibhāṇado. “Người” tinh tấn thí thọ, thí lực, thí sắc đẹp, thí sự an vui, gọi là thí Trí tuệ.
Dīghāyu yasavā hoti, “Người ấy” khi tái sanh trong cõi nào, đều được trường thọ và sang cả. -ooOoo- [05]
JĪVABHATTĀNUMODANĀGĀTHĀ Paṇḍupalāsova dānisi. Thân người hiện tại đây, ví như lá cây chín có màu vàng. Yamapurisāpi ca te upaṭṭhitā. Tay sai của Diêm chúa, là sự chết đã đến tìm người. Uyyogamukhe patiṭṭhasi. Người là nguồn cội của sự vô ngã. Pātheyyampi ca te na vijjati. Lộ phí là việc lành của người cũng chẳng có. So karohi dīpamattano. Người chỉ có nương nhờ nơi mình. Khippaṃ vāyama paṇḍito bhava. Người mau cố gắng cho ra bậc thông minh “chẳng nên chịu tối mê nữa”.
Niddhantamalo anaṅgaṇo, “Khi đã làm như thế” thì được dứt khỏi trần lao “nhứt là tình dục” chẳng còn phiền não, và đến Thánh-vức, là nơi có Pháp huyền diệu. -ooOoo- [06]
PUBBAPETABALIDĀNĀNUMODANAGĀTHĀ
Yaṃkiñcārammaṇaṃ katvā, Những người đã làm được việc lành trong hoàn cảnh nào, trước hết phải tưởng đến cha mẹ đã quá vãng.
Pubbapete ca ārabbha, Phải tưởng đến Chư Thiên ngự trong các nơi, nhứt là ngự trong nhà, mà chẳng nên bỏn xẻn, nên làm việc phước thí.
Cattāro va mahārāje, Lại
phải tưởng đến Tứ Đại Thiên-Vương hộ-trì 4 châu thiên hạ:
Te ceva pūjitā honti, Chúa Chư Thiên ấy, nếu được người cúng dường (do phép hồi hướng), người làm đạng phước lành đã hồi hướng ấy, chẳng phải không hiệu quả, mà chắc thật được sự quả báo.
Nahi ruṇṇaṃ vā soko vā, Còn như các sự than khóc, uất ức, hoặc thương tiếc, thảy đều vô ích.
Na taṃ petānamatthāya, Nhứt là sự than khóc chẳng ích chi cho người quá vãng. Khi người khóc lóc, thương tiếc, uất ức, ăn năn, sau nầy đều là sự vô ích không không. Vì người quá vãng chẳng được nghe và biết những điều ấy.
Ayañca kho dakkhiṇā dinnā, Nếu DAKKHIṆĀDĀNA [6] mà người đã cúng dường rồi, là phước thí đến Chư Tăng.
Dīgharattaṃ hitāyassa, DAKKHIṆĀDĀNA ấy, mới được kết quả lợi ích lâu dài, đến những quyến thuộc đã quá vãng do nhờ hiệp theo duyên cớ [7]. -ooOoo- [07]
DEVATĀBHISAMMANTANAGĀTHĀ
Yānīdha bhūtāni samāgatāni Các hạng chúng sanh là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc các hạng chúng sanh là Chư Thiên ngự trên hư không, đã đến hội họp nơi đây. Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu. Cầu xin các hạng chúng sanh ấy, phát lòng hoan hỷ. Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ. Và thành kính mà nghe BHĀSITA [8]. Subhāsitaṃ kiñcipi vo bhaṇemu. Chúng tôi tụng chút ít BHĀSITA, để các Ngài nghe. Puññe satuppādakaraṃ apāpaṃ. Chẳng phải là lời dữ mà lời để thức tỉnh sự chú ý trong các việc lành. Dhammūpadesaṃ anukārakānaṃ. Là duyên cớ để tiếp dẫn đạo tâm, của những người tu hành. Tasmā hi bhūtāni samentu sabbe. Bởi cớ ấy tất cả hạng chúng sanh nên nghe. Mettaṃ karotha mānussiyā pajāya. Tất cả chúng sanh nên rải lòng Bác ái đến hạng chúng sanh, thuộc về nhơn loại. Bhūtesu bāḷhaṃ katabhattikāya. Là người đã có lòng nhiệt thành thương yêu che chở, đến các hạng chúng sanh. Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ Những người hằng dắt dẫn làm BALIKAMMA, là làm thêm việc lành trong ban ngày hoặc trong ban đêm. Paccopakāraṃ abhikaṅkhamānā. Khi mong mỏi ân cần trong sự đền ơn. Te kho manussā tanukānubhāvā. Những kẻ ấy đều là người cô thế. Bhūtā visesena mahiddhikā ca. Hạng chúng sanh thuộc về Chư Thiên, là người có nhiều huyền diệu khác nhau. Adissamānā manujehi ñātā. Là những hạng chúng sanh có thân hình khó thấy được (nhưng) con người biết rõ (rằng có). Tasmā hi ne rakkhatha appamattā. Bởi cớ ấy, xin các Ngài chớ nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì nhơn loại. -ooOoo- [08]
TIROKUḌḌAKAṆḌAGĀTHĀ (Tụng trong ngày giỗ)
Tirokuḍḍesu tiṭṭhanti, Các
hàng Ngạ quỉ đã đến nhà quyến thuộc rồi, bèn suy tưởng là nhà của mình.
Pahūte annapānamhi, Khi cơm nước cùng các món ngon ngọt vừa đủ, đã dành sẵn mà quyến thuộc không nhớ đến các Ngạ quỉ ấy, bởi tại nghiệp duyên trước.
Evaṃ dadanti ñātīnaṃ, Những quyến thuộc nào đã tế độ Ngạ quỉ hằng hồi hướng, bố thí vật thực ngọt ngon đến hàng quyến thuộc đã quá vãng bằng cách nầy:
Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, Sự bố thí nầy hãy thấu đến các quyến thuộc, cầu xin quyến thuộc ấy được sự an vui.
Te ca tattha samāgantvā, Ngạ quỉ ấy là quyến thuộc, đã tựu hội đến chỗ bố thí, do lòng mong mỏi việc lành.
Pahūte annapānamhi, Khi được thọ lãnh vật thực [9] vừa đủ rồi, nên hoan hỷ [10] cầu xin theo lời kệ nầy:
Ciraṃ jīvantu no ñātī, Chúng tôi được của nầy nhờ nơi quyến thuộc. Cầu xin các quyến thuộc của chúng tôi được trường thọ. Amhākañca katā pūjā. Sự cúng dường mà các quyến thuộc đã làm cho chúng tôi. Dāyakā ca anipphalā. Các thí chủ chẳng phải không được thiện quả. Na hi tattha kasī atthi. Việc cày ruộng lập vườn, chẳng có trong chốn Ngạ quỉ. Gorakkhettha na vijjati. Việc nuôi bò chẳng có trong chốn Ngạ quỉ. Vaṇijjā tādisī natthi. Việc buôn bán là nguyên nhân phát sanh của cải, cũng chẳng có. Hiraññena kayākayaṃ. Chẳng có việc bán buôn đổi chác bạc tiền.
Ito dinnena yāpenti, Những người đã thác đọa làm Ngạ quỉ hằng được nuôi sống, do nhờ quả bố thí của các quyến thuộc trong thế gian.
Uṇṇate udakaṃ vuṭṭhaṃ, Nước trên gò nỗng hằng chảy xuống thấp, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong đời nầy, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.
Yathā vārivahā pūrā, Các con đường nước nhứt là sông và rạch, hằng làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong lúc hiện tại đây, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.
Adāsi me akāsi me, Khi người ta tưởng thấy ơn nghĩa mà ân nhân đã làm. Petānaṃ dakkhiṇaṃ dajjā. Dành để cho người trong lúc trước, người nầy có bố thí vật nầy đến ta. Pubbe katamanussaraṃ. Các người ấy đều là quyến thuộc của ta, nên cho DAKKHIṆĀDĀNA, đến các Ngạ quỉ ấy.
Na hi ruṇṇaṃ vā soko vā, Sự uất ức thương tiếc trong sự sanh tử biệt ly, đều chẳng có lợi ích chi. Na taṃ petānamatthāya. Làm như thế chẳng có sự lợi ích đến các Ngạ quỉ. Evaṃ tiṭṭhanti ñātayo. Các Ngạ quỉ chẳng được biết, chẳng được nghe. Ayañca kho dakkhiṇā dinnā. Nếu DAKKHIṆĀDĀNA, mà người đã được làm rồi. Saṅghamhi supatiṭṭhitā. Là được bố thí theo lẽ chánh đến Chư Tăng.
Dīgharattaṃ hitāyassa, (DAKKHIṆĀDĀNA ấy) mới được kết quả do theo duyên cớ, tức là được sự lợi ích lâu dài đến các Ngạ quỉ. So ñātidhammo ca ayaṃ nidassito. Quyến thuộc ấy là người đã hành đúng theo Pháp rồi [11]. Petāna pūjā ca katā uḷārā. Sự cúng dường trọng thể và hồi hướng đến các Ngạ quỉ, người cũng đã làm rồi. Balañca bhikkhūnamanuppadinnaṃ. Sức lực các Thầy Tỳ khưu, người cũng đã bố thí rồi. Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakanti. Hạnh phúc mà người đã sẵn dành như thế chẳng phải là ít. -ooOoo- [09]
YĀNADĀNĀNUMODANAGĀTHĀ
Annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ, Cả 10 vật thí nầy là: 1) Cơm; 2) Nước; 3) Y phục; 4) Xe, Thuyền; 5) Tràng bông; 6) Vật thơm; 7) Vật thoa; 8) Thất; 9) Chỗ ngụ; 10) Đèn đuốc. Annado balado hoti. Người thí vật thực gọi là cho sức lực. Vatthado hoti vaṇṇado. Người thí y phục gọi là cho sắc đẹp. Yānado sukhado hoti. Người thí xe thuyền gọi là cho sự an vui. Dīpado hoti cakkhudo. Người thí đèn đuốc gọi là cho mắt sáng. Manāpadayī labhate manāpaṃ. Người thí vật vừa lòng hằng được vật vừa lòng. Aggassa dātā labhate punaggaṃ. Người thí vật quý trọng hằng được vật quý trọng. Varassa dātā varalābhī ca hoti. Người thí vật đẹp hằng được vật đẹp. Seṭṭhandado seṭṭhamupeti ṭhānaṃ. Người thí chỗ quý trọng hằng đi đến nơi quý trọng.
Aggadāyī varadāyī, Những người nam nữ thí vật quý, thí vật đẹp và chỗ quý trọng.
Dighāyu yasavā hoti, Những người nam nữ ấy, thọ sanh đến cõi nào, hằng được trường thọ, được cao sang trong cõi ấy.
Etena saccavajjena, Do lời thành thật nầy. Cầu xin sự thạnh lợi, sự an vui, do không tật bịnh và tránh khỏi sự đau đớn, dễ dàng hằng phát sanh đến người. -ooOoo- [10]
KĀLADĀNAPPAKĀSANAGĀTHĀ
Bhaṇissāma mayaṃ gāthā, Chúng ta nên tụng các bài kệ để giải về KĀLADĀNA.
Etā suṇantu sakkaccaṃ, Các thí chủ nam nữ, là người mong mỏi hạnh phúc, nên hết lòng thành kính nghe lời kệ nầy: (KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ)
Kālena dadanti sappaññā, Những người có trí tuệ là người biết quý trọng lời nói của bậc đã dứt lòng bỏn xẻn và hằng tùy theo thời bố thí [13].
Kālena dinnaṃ ariyesu, Sự bố thí mà người đã làm đến các bậc Thánh nhơn, là bậc có thân tâm chơn chánh, không xao động vì 8 pháp thế gian.
Vippassannamanā tassa, DAKKHIṆĀDĀNA (Của những bậc ấy) là sự bố thí được kết quả quý trọng do nhờ đức tin.
Ye tattha anumodanti, Những kẻ chỉ hoan hỷ theo, hoặc chỉ giúp sức người trong việc bố thí. Na tena dakkhiṇā ūnā. Chẳng phải DAKKHIṆĀDĀNA (Của các kẻ ấy) là bố thí hèn hạ, vì chỉ có hoan hỷ, hoặc chỉ giúp người thí chủ. Tepi puññassa bhāgino. Những kẻ chỉ hoan hỷ, hoặc chỉ giúp giùm trong việc bố thí, cũng được hạnh phúc chắc thật.
Tasmā dade appaṭivānacitto, Cho nên, sự bố thí mà người đã làm rồi, là sự bố thí rất có hiệu quả. Những người không lòng giãi đãi, nên bố thí đến những kẻ ấy [14].
Puññāni paralokasmiṃ, Bởi các điều hạnh phúc là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh trong ngày vị lai. -ooOoo- [11]
VIHĀRADĀNASUTTAGĀTHĀ
Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti, “Thất của Chư Tăng” công dụng để ngăn ngừa lạnh ướt, nóng nực, thú dữ, rắn nhỏ, rắn lớn, các côn trùng, các thứ muỗi và mưa.
Tato vātātapo ghoro, Gió và nắng quá gắt đã phát rồi hằng dội lại, bởi nhờ nơi thất.
Leṇatthañca sukhatthañca, “Cách thí thất” mà người đã dâng cúng đến Chư Tăng, cho các Ngài nương-náu, an tâm, cho đặng thiêu hủy điều ác, và tu Pháp Minh-sát mà Chư Phật là các đấng Giáo chủ, đã có lời ngợi khen, là việc bố thí cao thượng.
Tasmā hi paṇḍito poso, Cớ ấy, chư Thiện tín là người trí thức, khi được thấy rõ sự lợi ích cho mình.
Vihāra kāraye ramme, Cần lập chùa, cất thất là nơi tiêu dao an-lạc, rồi nên thỉnh các bậc Trí tuệ đến ngụ nơi ấy.
Tesaṃ annañca pānañca, Nên tín ngưỡng các bậc đã có thân tâm chơn chánh, và dâng cúng thêm vật thực, nước, y phục và thất cho các Ngài.
Te tassa dhammaṃ desenti, Người tín thí khi đã thấy và thông rõ Phật giáo, sẽ được dứt khỏi lậu phiền não và đến Niết-bàn. -ooOoo- [12]
DEVATODDISSADAKKHIṆĀNUMODANAGĀTHĀ
Yasmiṃ padese kappeti, Những bậc Trí tuệ được ở trong nước nào.
Sīlavantettha bhojetvā, Thường thỉnh các bậc trì giới cao thượng là bậc thu thúc, đến thọ thực trong nước.
Yā tattha devatā āsuṃ, Chư Thiên đã hội tại chỗ cúng dường, thì bậc Trí tuệ nên hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên ấy.
Tā pūjitā pūjayanti, Chư Thiên mà bậc Trí tuệ đã cúng dường, đã tiếp rước do quả (DAKKHIṆĀDĀNA) hằng cúng dường, hằng tiếp rước bậc Trí tuệ.
Tato naṃ anukampanti, Bởi bậc Trí tuệ hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên, thì Chư Thiên hộ trì lại bậc Trí tuệ, cũng như cha mẹ tiếp dẫn con đẻ vậy.
Devānukampito poso, Thiện tín được Chư Thiên hộ trì rồi, thì hằng thấy rõ các nghiệp lành. -ooOoo- [13]
ĀDIYASUTTAGĀTHĀ
Bhuttā bhogā bhātā bhaccā, Chúng sanh là tất cả Thiện tín, khi ở theo Pháp cao thượng, là thọ trì ngũ giới rồi, nên tưởng đến nguyên nhân các điều lành như vầy: Các tài vật (ta) được dùng rồi, người phải nuôi-nấng (ta) được nuôi-nấng rồi, DAKKHIṆĀDĀNA, có quả báo cao thượng, (ta) được làm rồi. Lại nữa, BALIKAMMA là làm thêm 5 điều lành, (ta) cũng đã làm rồi, bậc có giới hạnh cao thượng, là bậc an tịnh, (ta) được hộ độ rồi, bậc Trí tuệ là người sáng-suốt, khi ở nhà trị an gia thất, nên mong mỏi sự lợi ích, sự lợi ích ấy (ta) được làm theo thứ tự rồi; nghiệp không uất ức, không khó chịu trong ngày vị lai (ta) cũng đã làm rồi.
Idheva naṃ pasaṃsanti, Những người ấy trong đời hiện tại, hằng được các bậc Trí tuệ ngợi khen, đến khi tái sanh, cũng hằng được thơ thới an vui trong cõi Trời. -ooOoo- [14]
SAṄGAHAVATTHUGĀTHĀ
Dānañca peyyavajjañca, Một là việc phân phát của cải. Hai là nói những lời làm cho người kính mến. Ba là phải làm việc lợi ích. Bốn là phẩm cách làm người bình đẳng (là chẳng nên tặng mình, tự cao tự đại; phải tôn kính bậc trưởng thượng). Tattha tattha yathārahaṃ. Trong 4 Pháp ấy con người phải tùy thời hành theo.
Ete kho saṅgahā loke, Các Pháp tế độ ấy mà có trong thế gian (thì chúng sanh mới có thể tấn hóa được, cũng như xe nhờ có ví [15] mới chạy được.)
Ete ca saṅgahā nāssu, Nếu các Pháp tế độ ấy chẳng có thì cha mẹ cũng chẳng được con cháu tôn kính hoặc cúng dường.
Yasmā ca saṅgahā ete, Nhân cớ bậc Trí tuệ đã xem thấy các Pháp tế độ nầy rồi.
Tasmā mahattaṃ papponti, Nên các Ngài mới đạt đến phẩm-hạnh cao thượng hơn hết và đáng cho người tôn kính. -ooOoo- [15]
SACCAPÀNAVIDHYÀNURÙPAGÀTHÀ Saccaṃ ve amatā vācā Lời nói ngay thật là lời nói không chết. Esa dhammo sanantano. Pháp ấy là Pháp của bậc tiên hiền.
Sacce atthe ca dhamme ca, Các bậc Hiền triết là người chú trọng lời nói ngay thật, lời ngay thật cũng là lời giải, cũng là Pháp vậy. Saddhidha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ. Đức tin là gia tài cao quý hơn hết, trong thế gian của bậc Hiền triết. Dhammo suciṇṇo sukhamā vahāti. Pháp ấy mà người hành chơn chánh thì nó đem đến sự an vui. Saccaṃ have sādhutaraṃ rasānaṃ. Lời ngay thật nầy đây là hương vị ngon ngọt hơn các hương vị. Paññājivījīvitamāhu seṭṭhaṃ. Các bậc Trí tuệ đã nói về sanh mạng những người sống vì Trí tuệ, là sống cao thượng hơn cả.
Saddahāno arahataṃ, Khi người tin phước báo (để dùng làm lộ phí) sẽ đạt đến Niết-bàn, ấy là Pháp của các bậc A-La-Hán. Sussūsaṃ labhate paññaṃ. Sự nghe phải lẽ hằng được phát sanh Trí tuệ. Appamatto vicakkhaṇo. Người mà không dễ duôi, bỏn xẻn. Paṭirūpakārī dhuravā. Thường hay làm những việc nên làm. Uṭṭhātā vindate dhanaṃ. Là người năng gắng sức hằng được của cải. Saccena kittiṃ pappoti. Là người hằng được danh vọng vì lòng ngay thật. Dadaṃ mittāni ganthati. Người bố thí hằng được duy trì tình bằng hữu.
Yassete caturo dhammā, Cả 4 Pháp nầy, mà có đến người nào là người Thiện tín tại gia.
Saccaṃ dhammo dhiti cāgo, Người ngay thật tu thân hết lòng bố thí, nhẫn nhục, khi lìa cõi nầy, thường không mến tiếc.
Iṅgha aññe pi pucchassu, Nếu trong thế gian nầy có Pháp cao thâm hơn: Ngay thật, tu thân, bố thí, nhẫn nhịn, thì cầu người hỏi thêm các thầy Sa-Môn cùng Bà-La-Môn khác cho nhiều người xem thử. -ooOoo- [16]
NIDHIKAṆḌAGĀTHĀ Nidhiṃ nidheti puriso. Người hằng chôn của để dành. Gambhīre udakantike. Trong nơi sâu thẳm, cuối cùng gần chí nước.
Atthe kicce samuppanne, Do nghĩ rằng: Khi hữu sự cần dùng, của ấy sẽ có điều lợi ích đến ta. Rājato vā duruttassa. Hoặc khi bị đức vua gia hình. Corato pīḷitassa vā. Hay kẻ cướp làm hại, ta có của ấy để chuộc tội mình. Iṇassa vā pamokkhāya. Hoặc để trả nợ. Dubbhikkhe āpadāsu vā. Hoặc để ngăn ngừa trong cơn đói kém.
Etadatthāya lokasmiṃ, Gọi là của chôn để dành có điều lợi ích trong thế gian, như vậy.
Tāvassu nihito santo, Dẫu thế, của chôn chắc chắn trong nơi sâu thẳm cuối cùng gần chí nước.
Na sabbo sabbadāyeva, Tất cả của chôn đó không sao thành tựu luôn khi đến người. Nidhi vā ṭhānā cavati. Của chôn lìa khỏi chỗ cũng có. Saññā vāssa vimuyhati. Tài chủ quên hẳn cũng có. Nāgā vā apanāmenti. Các loại rồng dời đem giấu cũng có. Yakkhā vāpi haranti naṃ. Lại, các Dạ-Xoa mang của chôn ấy đi cũng có.
Appiyā vāpi dāyādā, Kẻ thọ di sãn không thương mến, đào lấy trộm của chôn ấy cũng có. Yadā puññakkhayo hoti. Ta hết phước trong khi nào. Sabbametaṃ vinassati. Những của chôn đó tiêu mất cũng có.
Yassa dānena sīlena, Của chôn, tức người nữ hay nam nào được chôn giấu chân chánh, do sự bố thí, trì giới, chế ngự hoặc tự hóa.
Cetiyamhi ca saṅghe vā, Trong Bảo Tháp hay trong Tăng Lữ, trong người hoặc trong khách khứa, hoặc trong mẹ cha. Atho jeṭṭhamhi bhātari. Hoặc trong anh em trưởng tử. Eso nidhi sunihito. Của chôn ấy gọi là của chôn chân chánh. Ajeyyo anugāmiyo. Ai ai không thể thắng đoạt được, là của chôn dính theo mình. Pahāya gamanīyesu. Khi ta phải bỏ tất cả của cải rồi đi. Etaṃ ādāye gacchati. Ta hằng cầm lấy của chôn tức là phước ấy theo.
Asādhāraṇamaññesaṃ, Của chôn tức là phước, không phổ thông đến mọi người, là cái mà kẻ cướp đoạt không được.
Kayirātha dhīro puññāni, Của chôn tức là phước nào dính theo mình được, bậc Trí tuệ nên tạo các phước, tức là của chôn dính theo mình đó.
Esa devamanussānaṃ, Của chôn tức là phước ấy, hằng cho thành tựu như mong muốn đến Chư Thiên và nhơn loại.
Yaṃ yaṃ devābhipatthenti, Chư Thiên và nhơn loại mong quả báo nào họ sẽ được quả đó, do của chôn tức là việc phước.
Suvaṇṇatā susaratā, Trạng-thái người có màu da mịn màng, trạng thái người có tiếng nói du dương, trạng thái người có tướng mạo đoan trang, trạng thái người có sắc đẹp. Ādhipaccaṃ parivāro. Địa vị bậc thủ lãnh, có thuộc hạ. Sabbametena labbhati. Chư Thiên và nhơn loại hằng được tất cả của ấy, do của chôn tức là việc phước. Padesarajjaṃ issariyaṃ. Địa
vị tước Vương trong nước, Cakkavattisukhaṃ piyaṃ. Sự yên vui của đức Chuyển-Luân Vương là nơi yêu quý. Devarajjampi dibbesu. Địa vị Thiên Vương trong các Thiên bộ. Sabbametena labbhati. Chư Thiên cùng nhơn loại hằng được tất cả quả ấy, do của chôn tức là việc phước. Manussikā ca sampatti. Hạnh phúc nhơn loại. Devaloke ca yā rati. Sự vui sướng trong cõi Trời. Yā ca nibbānasampatti. Sự đắc quả Niết-bàn. Sabbametena labbhati. Chư Thiên và nhơn loại hằng được thành tựu tất cả quả đó, do của chôn tức là việc phước.
Mittasampadamāgamma- Trạng thái thuần thục trong sự Giác ngộ và sự giải thoát của hành giả, dù là bầu bạn có sự nương tựa đầy đủ và có phương tiện chân chánh. Sabbametena labbhati. Chư Thiên và nhơn loại được hưởng tất cả quả hài lòng đó, do của chôn tức là việc phước.
Paṭisambhidā vimokkhā ca, Bốn tuệ phân tích và sự giải thoát, sự giác ngộ hoàn toàn của hàng Thinh-Văn, bậc Độc-Giác, và đấng Toàn-Giác. Sabbametena labbhati. Chư Thiên và nhơn loại hằng được tất cả quả hài lòng ấy, do của chôn tức là việc phước.
Evaṃ mahatthikā esā, Quả phúc viên mãn tức là đạo đức đầy đủ; Quả phúc viên mãn ấy, có lợi ích to lớn như thế.
Tasmā dhīrā pasaṃsanti, Cho nên bậc có Trí tuệ mới ca tụng trạng thái người đã tạo phước để dành rồi, như vậy. -ooOoo- [17]
KEṆIYĀNUMODANAGĀTHĀ Aggihuttaṃ mukhā yaññā. Các sự cúng dường, nhứt là cúng thần lửa, là gốc của đạo Bà-La-Môn. Sāvitti chandaso mukhaṃ. Kinh SĀVITTISATTHA là gốc của các Kinh CHANDASATTHA. Rāja mukhaṃ manussānaṃ. Vua là gốc của tất cả con người. Nadīnaṃ sāgaro mukhaṃ. Biển là gốc của tất cả sông và rạch. Nakkhattānaṃ mukhaṃ cando. Thái âm là gốc của tất cả Tinh tú. Ādicco tapataṃ mukhaṃ. Thái dương là gốc của tất cả sự nóng nực.
Puññamākaṅkhamānānaṃ, Chư Tăng là gốc của tất cả chúng sanh; Chúng sanh là những người mong mỏi hạnh phúc nên hằng dâng cúng, bố thí (cũng do lẽ ấy). -ooOoo- [18]
SIDDHIYĀCANAGĀTHĀ
Siddhamatthu siddhamatthu, Cầu
xin cho quả của tâm tín thành Tam-Bảo, Dứt kệ tụng (cho thí chủ) hoan hỷ. -ooOoo- [19]
ANUMODANĀVIDHI Nếu có dịp quí như thọ lãnh CA SA trong đền Vua hoặc nơi người thường, bố thí đến Chư Tăng, theo lệ trong năm (như trong mỗi năm 3 kỳ) thì phải tụng bài: KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ và ĀYU VAṆṆO SUKHAṂ BALAṂ. Nếu trong đền Vua có dâng cúng nhiều tài vật, thì thọ lãnh bằng bài: MAṄGALACAKKAVĀḶA cùng BHAVATU SABBAMAṄGALAṂ để phúc chúc cho đức Vua. Nếu dâng cúng Y VASSAVĀSIKA thì phải tụng KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ, như thọ lãnh Ca-Sa theo lệ trong năm. Nếu người dâng cúng KAṬHINA thì phải tụng SABBĪTIYO, KEṆIYĀNUMODANAGĀTHĀ, rồi đồng cùng nhau tụng KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ và tụng dứt bằng BHAVATU SABBAMAṄGALAṂ. Khi người dâng cúng VASSIKASĀṬIKĀ (y tắm mưa) thì phải tụng phúc chúc như trong lễ KAṬHINA. Khi người dâng cúng thất, thì phải tụng VIHĀRADĀNAGĀTHĀ, thêm ĀYU VAṆṆO SUKHAṂ BALAṂ. Ngày mà người làm lễ chúc thọ thì phải tụng: DEVATODISSADAKKHIṆĀNUMODANAGĀTHĀ. Nếu ngày lễ khánh thành đức kim thân (Tượng Phật), Tháp Bảo thì phải cầu chúc bằng bài AGGAPPASĀDASUTTAGĀTHĀ và SAṄGAHAVATTHUGĀTHĀ. Nếu người thỉnh đi thọ thực hoặc đi dâng cơm thì phải tụng bài: BHOJANĀNUMODANAGĀTHĀ và ĀDIYASUTTA GĀTHĀ, tụng phúc chúc theo lễ trong năm, như trong ngày Xuân nhựt, nhập Hạ và xuất Hạ.v.v… JĪVABHATTĀNUMODANAGĀTHĀ chỉ dùng trong lễ đền ơn đến các bậc ân nhân, nhứt là đến cha mẹ, Thầy Tổ còn tại tiền, gọi là lễ chúc thọ (ngoài ra thì không nên dùng đến). Nếu người làm lễ hồi hướng cho những kẻ đã quá vãng, thì phải tụng:
PUBBAPETABALIDĀNĀNUMODANAGĀTHĀ; Dứt kinh kệ bố cáo (cho thí chủ) hoan hỷ. -ooOoo- [1] Từ bài 1 đến bài 19 thuộc về kệ tụng (cho thí chủ) hoan hỷ. [2] Tàu dịch: Trì-Quốc Thiên. [3] Tăng-Trưởng Thiên. [4] Quảng Mục Thiên. [5] Đa Văn Thiên. [6] DAKKHIṆĀDĀNA là: Bố-thí đến người có giới hạnh. [7] Hiệp theo duyên cớ là: Ngạ quỉ đói khát, ngạ quỉ nhờ người mà sống. [8] BHĀSITA: Là lời nói. [9] Chư Tăng. [10] Ngạ Quỉ. [11] Sự bố-thí đúng theo phép, thí chủ có ba tác ý: Khi tính, khi làm, khi đã làm xong đều có tâm hoan-hỷ. Người thọ thí có ba chi là: Đã hết Tham, Sân, Si hoặc cố hành để diệt Tham, Sân, Si. [12] Chỗ nói: “KĀLADĀNAPPADĪPIKĀ”. Nếu bố-cáo “VIHĀRADĀNA” thì phải đổi nói: “VIHĀRADĀNAPPADĪPIKĀ”. [13] Bố-thí đến: Thầy Tỳ khưu ở xa đến, đi đường xa, thầy mang bịnh, (cho vật thực) người nuôi bịnh, thì thuốc gọi là: KĀLADĀNAPPADĪPIKĀ (tùy thời bố-thí). [14] Kẻ ấy là: Kẻ mà mình bố-thí đến được nhiều phước báu. [15] Ví: là thanh gỗ xõ vào 2 trục của bánh xe. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn đạo hữu Huyền Thanh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2006)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 12-05-2006