Tìm hiểu ngôn ngữ kinh tạng Phật Giáo I.2 Phân loại thể tài của ngôn ngữ kinh điểnTrước khi đi vào khảo sát các đặc trưng của ngôn ngữ kinh điển Phật giáo, cần thiết thảo luận về vấn đề "thể loại văn học" trong kinh điển. Như đã trình bày, cách phân loại thể tài trong kinh điển chỉ mang tính cách ước lệ, nghĩa là sự phân loại được tựa vào một số nét đặc trưng trên cơ sở "nhân duyên thuyết pháp", cách trình bày khi thuyết pháp, cách ghi nhận của thời thuyết pháp và nội dung của giáo pháp. Thông qua bốn cơ sở này mà có sự phân loại khác nhau về thể tài ngôn ngữ của kinh điển. Và, sự phân loại thể tài này cũng được Ðức Phật xác định trong kinh "Ví dụ con rắn" như sau (4): "Kinh, ứng tụng, giải thuyết, kệ tụng, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng". Từ đó, trên cơ sở này, chúng ta có thể phân loại 9 thể tài trên theo bốn nhóm như sau:
Trong bốn nhóm này, thực tế chỉ có 8 loại, vì kinh là tên gọi chung cho tất cả, như trình bày trong biểu đồ. Trong 8 loại và được chia thành bốn nhóm trên, chỉ có nhóm 1, bao gồm Ứng tụng là kệ tụng, là thể tài chung của kinh điển. Ba nhóm còn lại (2, 3 và 4) được phân chia theo đặc tính của từng thể loại. I.3- Ý nghĩa của các thể tài1)- Kinh (Sùtra): Những điều Ðức Phật dạy cho hàng đệ tử tu tập để đi đến giác ngộ, giải thoát. 2)- Ứng tụng (Gaya): Sự (truyền tụng) ghi lại lời Ðức Phật dạy theo thể tản văn. 3)- Kệ tụng (Gàthà): Sự (truyền tụng) ghi lại lời Ðức Phật dạy theo thể thơ, kệ. 4)- Như thị ngữ (Itivuttaka): Sự ghi chép lại những điều được nghe từ Ðức Phật nói, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong Tiểu Bộ kinh, tập IV, HT Thích Minh Châu đã ghi chú về ý nghĩa của "Như thị ngữ" như sau:
5)- Bổn sanh (Jàtaka): Sự ghi chép lại chuyện tiền thân của Ðức Phật theo lời Ðức Phật kể. 6)- Vị tằng hữu (Adbhutahdarma): Sự ghi chép lại những sự việc hy hữu (hiếm có) trong đời, như chuyện các Ðức Phật quá khứ v.v... do Ðức Phật kể lại. 7)- Cảm hứng ngữ (Udana) - còn gọi là kinh Phật tự thuyết hay Vô vấn tự thuyết: Sự ghi chép lại những điều do Ðức Phật tự nói ra trong những nhân duyên (trường hợp) đặc biệt. 8)- Phương quảng (Vaipulya): Sự ghi chép lại những cuộc thảo luận của các vị Thánh đệ tử được Ðức Phật xác nhận là phù hợp với Phật ý, chánh pháp. 9)- Giải thuyết (Upadisa): Sự ghi chép lại những điều luận giải về chánh pháp của Ðức Phật và các bậc A La Hán. I.4- Ðặc Trưng Của Các Thể Tài1- Nguyên tắc chung: Mặc dầu được phân chia thành nhiều thể loại, nhưng sự ghi chép của các thể loại luôn luôn đi theo một nguyên tắc chung, gọi là nguyên tắc kết tập kinh điển. Theo lịch sử, kinh điển được kết tập (ghi chép lại) sau khi Ðức Phật qua đời (5). Lần thứ nhất xảy ra sau Phật diệt độ khoảng một tuần, lần thứ hai cách 100 năm sau, lần thứ ba cách 218 năm, tức năm 325 trước Tây lịch. Trong những lần kết tập kinh điển, đại hội dùng phương pháp trùng tụng và ghi chép lại toàn bộ lời dạy của Ðức Phật. Do đó, mở đầu các văn bản kinh điển bao giờ cũng bắt đầu bằng bốn chữ "Tôi Nghe Như Vầy " (Như thị ngã văn - Evam me suttam). Ðiều này nhằm ám chỉ rằng những điều ghi chép lại là được nghe từ miệng của Ðức Phật. Từ đó, kinh (Sùtra) được hiểu là những gì do chính Ðức Phật nói ra, hoặc được sự chứng nhận của Phật. Ngược lại, những gì không phải do Ðức Phật nói, hoặc không được sự xác chứng của Phật thì không thể gọi là kinh. Vì thế, nguyên tắc chung của các thể tài kinh điển là sự ghi chép lại những điều Ðức Phật dạy hoặc những điều đã được Ðức Phật xác nhận bằng cách ngôn "Tôi nghe như vầy" (6) ở đầu tất cả các bản kinh. 2- Cách trình bày văn bản kinh điển: Ðây cũng là một nguyên tắc chung thứ hai dành cho tất cả các thể tài kinh điển. Ðó là sử dụng thể loại tường thuật trong khi ghi chép lại nội dung của kinh. Và, trong thể loại tường thuật này phải ghi rõ các nội dung như sau:
Về cách trình bày một bản kinh, gồm có 3 phần:
3- Cấu trúc tiêu biểu của một bản kinh:
|
[Main Index] | Last updated: 14-10-2004 |
Web master: binh_anson@yahoo.com |