Mặt hồ tĩnh lặng - Quyển 2
Thiền có hai loại: Thiền Chỉ và Thiền Quán (Thiền Định và Thiền Tuệ). Thiền Chỉ giúp cho hành giả được an tịnh. Thiền Quán, một mặt giúp phát triển tri giác về vô thường, khổ, vô ngã, một mặt là chiếc cầu để vượt qua ba con sông lớn này. Dù có quan niệm thế nào về cuộc sống này, chúng ta cũng không nên tìm cách thay đổi chúng theo chiều hướng của mình ưa thích mà chỉ cần nhìn chúng, để chúng diễn biến một cách tự nhiên. Nơi nào có đau khổ, nơi đó cũng có con đường để thoát khỏi khổ đau. Thấy rằng cái gì có sinh có diệt thì có khổ đau, Đức Phật biết rằng phải có cái gì đó không sinh không diệt và không khổ đau. Mọi phương pháp thiền đều có khả năng phát triển chánh niệm. Mục đích của chánh niệm là để thấy rõ chân lý tiềm tàng. Với chánh niệm, bạn quan sát mọi ước muốn khởi dậy trong tâm -- yêu và ghét, lạc thú và khổ đau. Khi nhận chân được đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng, bạn hãy để chúng tự nhiên. Bằng cách này, trí tuệ sẽ thay chỗ cho khổ đau, và hiểu biết sẽ thay thế cho hoài nghi. Mặc dù đề mục thiền nào cũng giúp phát triển trí tuệ, nhưng chính bạn phải lựa chọn đề mục thích hợp với mình. Chánh niệm là biết được những gì ngay trong hiện tại, ghi nhận và tỉnh thức. Hiểu biết thấu đáo rõ ràng phạm vi hoàn cảnh của đối tượng xuất hiện. Khi chánh niệm đi liền với giác tỉnh thì trí tuệ sẽ luôn luôn xuất hiện để giúp cho cặp "Chánh niệm-Giác tỉnh" này hoàn thành sứ mạng của chúng. Hãy quan sát tâm, theo dõi tiến trình kinh nghiệm về sinh diệt. Lúc đầu chuyển động có tính cách cố định. Ngay khi một sự vật diệt đi, một sự vật khác lại sinh ra, và bạn sẽ có cảm tưởng rằng sinh nhiều hơn diệt. Dần dần khi tâm quan sát nhạy bén và rõ ràng, bạn sẽ hiểu được tại sao sự vật sinh ra một cách mau lẹ như thế, cho đến một lúc nào đó bạn sẽ đạt đến một điểm, ở đấy sự vật sinh rồi diệt và...không bao giờ sinh ra nữa. Với chánh niệm bạn sẽ nhận diện được chủ nhân ông thực sự của mọi pháp. Bạn sẽ không còn có tư tưởng đây là thế giới của ta, đây là thân thể của ta mà là thế giới của thế giới, và thân thể của thân thể. Bạn có thể bảo thân thể bạn đừng già được không? Khi dạ dày bạn đau, nó có xin phép bạn không? Chúng ta chỉ là người thuê nhà. Tại sao chúng ta không tìm cho ra ai là chủ nhân thật sự của thân thể này? Bắt đầu thực tập bằng cách ngồi ngay thẳng và chú tâm. Bạn có thể ngồi trên sàn nhà hay trên ghế. Trước tiên bạn không cần phải quá cố gắng chú tâm. Chỉ cần để ý đến hơi thở ra vào. Nếu cảm thấy rằng niệm Phật có thể giúp cho sự chú tâm của bạn mạnh hơn, bạn có thể niệm "Phật," "Pháp," hay "Tăng" khi bạn quan sát hơi thở ra vào. (Điều quan trọng là phải chú tâm vào hơi thở, niệm Phật chỉ là phương tiện giúp định tâm.) Khi quan sát hơi thở, bạn phải quan sát một cách tự nhiên, không được điều khiển hơi thở. Cố gắng điều khiển hay kiểm soát hơi thở là một việc làm sai lầm, vì khi điều khiển hơi thở, bạn sẽ có cảm giác hơi thở hoặc quá ngắn, quá dài hay quá nhẹ, quá nặng. Bạn sẽ có cảm tưởng dường như mình thở không đúng cách, và sẽ cảm thấy chẳng thoải mái chút nào. Bạn hãy để hơi thở hoạt động một cách tự nhiên. Làm như vậy cuối cùng bạn sẽ nhận thấy hơi thở vào ra một cách nhẹ nhàng, điều hòa. Khi quan sát hơi thở ra vào mà bạn tỉnh giác và hoàn toàn ổn định tâm là bạn đã thở đúng cách. Khi bị phóng tâm, bạn hãy dừng lại, điều chỉnh sự chú tâm, trở về với đề mục chính của mình. Thoạt đầu, khi chú tâm vào hơi thở, tâm bạn có khuynh hướng muốn đưa hơi thở đi theo một chiều hướng nào đó. Hãy bình thản, đừng lo lắng hay tìm cách điều chỉnh nó. Bạn hãy quan sát nó, và để nó tự nhiên. Thiền sẽ tự nó phát triển. Khi bạn làm như thế, có lúc bạn sẽ thấy hơi thở ngưng hẳn, nhưng đừng sợ, bạn sẽ thở lại điều hòa sau đó. Sự ngưng thở chỉ là cảm giác phát sinh từ tri giác của bạn, thực ra hơi thở vẫn tự nhiên và nhẹ nhàng tiếp nối. Một lát sau bạn sẽ thấy hơi thở rõ ràng như trước. Nếu bạn tiếp tục giữ tâm an tịnh như thế thì bất kỳ bạn đang ở nơi nào -- đang ngồi trên ghế, đang ở trên xe, trên tàu, v. v., bạn đều có thể chú tâm vào đề mục và bước vào trạng thái an lạc một cách mau chóng dễ dàng. Bất kỳ bạn đang ở đâu, bất kỳ lúc nào, bạn đều có thể hành thiền được cả. Khi đạt đến sự tiến bộ này thì bạn đã hiểu Đạo phần nào rồi đấy. Nhưng bạn phải quan sát những đối tượng của giác quan nữa. Hãy hướng tâm an tịnh của bạn vào hình sắc, âm thanh, mùi vị, sự đụng chạm và suy nghĩ. Tất cả mọi đối tượng của thân và tâm đều là đề mục để bạn hướng đến. Bất kỳ cái gì phát sinh đều phải quan sát, ghi nhận; phải ghi nhận dù bạn thích hay không thích chúng. Hãy ghi nhận một cách khách quan, đừng để đối tượng yêu ghét ảnh hưởng đến tâm mình. Yêu, ghét chỉ là những phản ứng đối với thế giới bên ngoài. Bạn phải có cái nhìn sâu rộng hơn. Dần dần bạn sẽ thấy mọi cảm giác yêu ghét thực ra chỉ là sự vô thường, khổ và vô ngã. Hãy xếp mọi tốt xấu, hay dở vào ba loại vô thường, khổ và vô ngã. Dầu chúng thế nào đi nữa cũng để chúng yên, chỉ quan sát mà đừng can thiệp vào chúng. Đó là cách hành thiền minh sát. Làm như thế tất cả sẽ được bình an tĩnh lặng. Chẳng bao lâu, tuệ giác, vô thường, khổ, vô ngã sẽ xuất hiện. Đó là bước đầu của trí tuệ thật sự, cốt tủy của thiền, dẫn đến giải thoát. Hãy theo dõi kinh nghiệm của mình, nhìn nó và tiếp tục cố gắng để thấy chân lý. Hãy học cách khước từ, không vướng mắc để đạt đến bình an tĩnh lặng. Trong khi hành thiền, nhiều hiện tượng kỳ lạ sẽ đến với bạn -- bạn sẽ thấy ánh sáng, thấy chư thiên, thấy Phật, v. v. Khi thấy những điều đó bạn hãy quan sát mình trước để tìm xem tâm mình đang ở trạng thái nào. Chớ quên điểm căn bản này. Hãy chú tâm, chớ mong mỏi thấy gì, cũng chớ mong hình ảnh đừng đến với mình. Nếu bạn theo đuổi những hình ảnh này, bạn sẽ rơi vào tình trạng ngơ ngẩn vô vị, vì tâm đã đi ra ngoài tình trạng ổn cố. Vậy thì khi những hình ảnh ấy đến, bạn hãy quan sát chúng. Khi quan sát chúng, bạn phải tự chủ, đừng si mê theo chúng. Bạn hãy quán chiếu rằng chúng chỉ là vô thường, khổ và vô ngã. Khi chúng có đến gần bạn đi nữa, bạn cũng đừng lấy đó làm điều quan trọng, hãy nhìn chúng rồi để chúng tự ra đi. Nếu chúng không đi, cũng vẫn tự nhiên, bấy giờ hãy trở về với mục đích của bạn, đó là hơi thở. Bạn hãy thở ra vào ba hơi thật dài, mọi hình ảnh sẽ biến mất. Bất kỳ cái gì hiện ra cũng mặc, hãy tái lập sự chú tâm. Đừng nắm lấy cái gì và xem đó là của mình. Những gì bạn thấy chỉ là những hình ảnh hay những cấu trúc do tâm tạo ra. Đó là sự giả tạo, hư ảo, gây nên yêu thích, nắm giữ hay sợ hãi. Đừng đắm mình vào khi thấy những cấu trúc giả tạo này. Mọi kinh nghiệm bất thường đều đem đến lợi ích cho kẻ trí, nhưng là mối tai hoạ cho người thiếu khôn ngoan. Hãy tiếp tục hành thiền cho đến khi nào bạn không còn bị những hình ảnh quấy nhiễu nữa. Nếu bạn có thể phó mặc cho tâm như thế thì không còn gì khó khăn nữa. Nếu tâm muốn vui, bạn chỉ cần ý thức rằng niềm vui này không vững bền. Bạn có sợ những hình ảnh xuất hiện trong tâm bạn hay sợ những kinh nghiệm khác mà bạn gặp trong lúc hành thiền không? Hãy tự nhiên làm việc với chúng. Bằng cách này bạn có thể dùng phiền não để huấn luyện tâm mình, và bạn sẽ hiểu được bản chất tự nhiên của tâm, thoát khỏi mọi thái cực, rõ ràng và không dính mắc. Tâm chỉ là một điểm đơn giản, là trung tâm của vũ trụ, và tâm sở chẳng khác nào du khách đến ngụ trong một thời gian. Hãy tìm hiểu kỹ những du khách này. Hãy làm quen với những bức tranh sống động do họ vẽ và những câu chuyện hấp dẫn do họ kể, hãy ngoan ngoãn theo họ. Nhưng nhớ đừng rời khỏi chỗ ngồi của bạn, bởi vì ngoài chiếc ghế bạn đang sử dụng không còn chiếc ghế nào khác quanh đấy nữa. Nếu bạn tiếp tục giữ chỗ ngồi không rời, chào mừng từng vị khách mỗi khi họ đến, nghĩa là luôn luôn giữ chánh niệm, chuyển tâm đến những người hiểu biết, tỉnh thức, thì những người khách khác cuối cùng sẽ không đến nữa. Nếu bạn thực sự chú ý đến họ thì họ sẽ đến với bạn bao nhiêu lần nữa? Chuyện trò với họ, bạn sẽ hiểu rõ từng người một. Chắc chắn cuối cùng tâm bạn sẽ an tịnh. Mỗi ngày đều phải tập kinh hành. Thoạt tiên hãy đan tay vào nhau và dặt trước bụng. Bóp chặt một chút để giữ sự chú tâm. Bước những bước bình thường từ đầu đường kinh hành cho đến cuốn đường, phải biết mình trong suốt đoạn đường. Đến cuối đoạn đường, dừng lại rồi quay lui, tiếp tục đi. Nếu bị phóng tâm, hãy dừng lại để đưa tâm trở về. Nếu vẫn còn phóng tâm, hãy chú ý vào hơi thở, tiếp tục trở lại. Luôn luôn giữ tâm chánh niệm trong mọi lúc là một điều rất ích lợi. Khi cơ thể mỏi mệt hãy thay đổi tư thế, nhưng không phải cứ thấy muốn thay đổi là thay đổi ngay. Trước tiên phải biết tại sao muốn đổi tư thế -- cơ thể mệt mỏi, tâm dao động, bất an hay làm biếng? Ghi nhận sự đau khổ của cơ thể. Hãy quan sát một cách thoải mái và thận trọng. Tinh tấn thực hành là một yếu tố thuộc về tâm chứ không phải thuộc về thân. Điều này có nghĩa là hãy luôn luôn giác tỉnh trước mọi diễn biến của tâm, đừng để ý gì đến yếu tố yêu ghét. Dầu có ngồi hay đi kinh hành suốt đêm mà không giác tỉnh theo cách này thì cũng chẳng phải là tinh tấn chút nào. Khi đi từ một điểm này đến một điểm khác mà ta đã định trước, hãy nhìn xuống đất trước mặt bạn khoảng hai thước và chú tâm vào những cảm giác của cơ thể. Bạn cũng có thể niệm "Buddho" (Bút-thô - Phật đà) trong khi kinh hành. Đừng sợ hãi khi thấy những gì hiện khởi trong tâm mình. Hãy đặt câu hỏi với chúng và hiểu chúng. Chân lý là cái gì khác, nằm ngoài tư tưởng hay cảm giác. Vì vậy, đừng đặt lòng tin vào tư tưởng hay cảm giác và để chúng trói buộc mình. Hãy nhìn vào toàn thể tiến trình sinh và diệt. Có như thế trí tuệ mới phát triển. Khi điều gì hiện khởi trong tâm, phải kịp thời tỉnh giác ngay, giống như khi điện vào bóng đèn thì đèn cháy sáng ngay. Nếu bạn không để ý cảnh giác, phiền não sẽ chiếm tâm bạn. Chỉ có sự chú tâm mới đốn ngả được nó. Sự hiện diện của những tên trộm khiến ta cẩn thận giữ gìn của cải. Cũng vậy, nhớ đến những phiền não giúp chúng ta siêng năng hành thiền. Cuối mùa xuân năm 1979, Ngài Ajahn Chah đến thăm Trung Tâm Thiền Minh Sát ở Barre, Massachusetts. Ngài dạy một khóa thiền mười ngày ở đây. Mỗi buổi chiều Ngài thường đi dạo quanh trung tâm. Nhìn thấy các thiền sinh đang kinh hành chậm rãi, Ajahn Chah có nhận xét là trung tâm thiền này chẳng khác nào một bệnh viện tâm thần để chữa trị cho những tâm hồn thế tục. Mỗi lần gặp họ, Ajahn Chah thường chúc lành, "Mau khỏi bệnh. Chúc các bạn mau khỏi bệnh." Tùy theo đặc tính của từng người mà có một phương pháp hành thiền thích hợp. Niệm thân đặc biệt thích hợp với những người có nhiều tham ái hay những nhà sư trong rừng. Niệm thân là nhìn vào cơ thể, từng bộ phận của thân thể, nhìn sự kết hợp thực sự của chúng. Bắt đầu niệm về đầu: tóc, lông, móng, răng, da. Tách rời chúng ra khỏi những phần khác của cơ thể. Hãy dùng tâm lột lớp da này để nhìn vào tận bên trong. Bạn có thích nó chăng khi nhìn nó với từng phần riêng rẽ? Nhìn vào bản chất thực sự của thân có thể cắt được ba sự trói buộc. 1. Quan niệm làm chủ cái thân: Chúng ta sẽ nhận ra rằng chẳng có cái gì là Ta hay Của Ta. Trên thế gian này chẳng có cái gì là của ta. 2. Hoài nghi: Khi hiểu các pháp đúng theo thực tướng của chúng thì hoài nghi sẽ chấm dứt. 3. Chấp chặt vào hình thức lễ nghi: Trong khi còn bị nghi ngờ ngự trị, chúng ta thường chấp chặt vào các hình thức lễ nghi, cho rằng làm vậy là không đúng, làm thế kia mới đúng, v. v. Nhưng khi thấy rõ ràng rằng thân ta cũng như mọi vật khác đều vô thường, khổ và vô ngã, lúc ấy ta sẽ không còn nghi ngờ và không còn chấp vào các hình thức lễ nghi nữa. Khi niệm thân, chúng ta không cần niệm tất cả ba mươi hai thể trược. Nếu niệm một bộ phận mà thấy được vô thường, khô, vô ngã, bất tịnh thì cũng thấy được toàn thân ta và thân người khác cũng đều như thế cả. Giả sử bạn có ba mươi hai cục nước đá, bạn chỉ cần sờ vào một cục cũng biết được độ lạnh của tất cả. Khi bạn có tiến bộ trong pháp niệm thân ô trược thì bạn cũng sẽ tiến bộ với pháp niệm về sự chết. Thực vậy, khi chúng ta tiến bộ về một pháp nào đó thì sẽ có tiến bộ trong các pháp khác. Nếu chúng ta hiểu được các hiện tượng chết của cơ thể chúng ta, chúng ta cũng sẽ bén nhạy trước mọi cuộc sống thế gian này. Tự nhiên chúng ta sẽ tránh khỏi mọi hành động sai lầm và muốn sống một cuộc sống hiểu biết, hòa điệu và cởi mở với mọi người, mọi chúng sanh. Trong khi hành thiền bạn thường nghĩ rằng sự ồn ào, tiếng xe chạy, tiếng người nói, hình ảnh bên ngoài là những chướng ngại đến quấy nhiễu bạn khiến bạn phóng tâm, trong khi bạn đang cần sự yên tĩnh. Khoan đã! Ai quấy nhiễu ai đây? Thật ra bạn là người quấy nhiễu chúng. Xe cộ, âm thanh vẫn hoạt động theo đường lối tự nhiên của chúng. Bạn quấy nhiễu mọi vật bằng những ý tưởng sai lầm của mình, cho rằng chúng ở ngoài bạn. Bạn cũng bị dính chặt vào ý tưởng muốn duy trì sự yên tịnh, muốn không bị quấy nhiễu. Phải học cách để thấy rằng chẳng có cái gì quấy nhiễu ta cả mà chính ta đã ra ngoài để quấy nhiễu chúng. Hãy nhìn cuộc đời như một tấm gương phản chiếu chúng ta. Khi tập được cách này thì bạn tiến bộ trong từng thời khắc một, và mỗi kinh nghiệm của bạn đều làm hiển lộ chân lý và mang lại sự hiểu biết. Một cái tâm thiếu huấn luyện thường chứa đầy lo âu, phiền muộn. Bởi thế chỉ một chút yên tịnh do thiền đem lại cũng dễ khiến dính mắc vào. Đó là sự hiểu biết sai lầm về sự yên tịnh trong thiền. Đôi lúc có thể bạn nghĩ rằng mình đã tận diệt được tham lam, sân hận; nhưng sau đó bạn lại thấy bị tràn ngập bởi chúng. Thực vậy, tham đắm vào sự an tịnh còn tệ hại hơn là dính mắc vào sự dao động. Bởi vì khi dao động, ít ra bạn cũng còn muốn thoát khỏi chúng, trong khi đó bạn rất hài lòng lưu giữ sự an tịnh và mong muốn được ở mãi trong đó. Đó là lý do khiến bạn không thể tiến xa hơn nữa. Khi hỉ lạc phi thường -- một trạng thái thuần tịnh trong thiền minh sát -- đến với bạn, bạn hãy tự nhiên, đừng dính mắc vào chúng. Dù hương vị của sự an tịnh có ngọt ngào đi nữa cũng phải được nhìn dưới ánh sáng của vô thường, khổ, vô ngã. Hành thiền nhưng đừng mong cầu phải đạt được tâm định hay bất cứ mức tiến bộ nào. Chỉ cần biết tâm có an tịnh hay không an tịnh, và nếu có an tịnh thì mức độ của nó nhiều hay ít mà thôi. Làm như thế tâm sẽ tự động phát triển. Dầu sao thì cũng phải có sự chú tâm kiên cố để trí tuệ phát sinh. Chú tâm chẳng khác nào bật đèn và trí tuệ là ánh sáng phát sinh do sự bật đèn đó. Nếu không bật đèn thì đèn sẽ không sáng, nhưng không nên phí thì giờ với cái bật đèn. Cũng vậy, định tâm chỉ là cái bát trống, trí tuệ là thực phẩm đựng trong bát ấy. Đừng dính mắc vào đối tượng như dính mắc vào một loại chú thuật. Phải hiểu mục tiêu của nó. Nếu bạn thấy niệm "Phật" khiến bạn dễ chú tâm thì cứ tự nhiên; nhưng chớ có ý nghĩ sai lầm rằng ngưng niệm Phật là lười biếng. Chữ "Buddho" (Bút-thô - Phật đà) có nghĩa là người hiểu biết thì tại sao phải lập đi lập lại chữ này làm gì? Kham nhẫn và điều hòa là hai điều căn bản trong sự thực hành của chúng ta. Bắt đầu việc thực hành, chúng ta chỉ cần theo thời khóa đã được ta vạch sẵn hoặc thời khóa do thiền viện qui định. Muốn huấn luyện một con thú, ta phải câu thúc nó. Cũng vậy, muốn huấn luyện tâm, ta cũng phải kềm chế chính mình. Gặp con thú khó dạy, ta phải cho nó ăn ít đi. Ở đây những người hành thiền giữ hạnh đầu đà, hạn chế thức ăn, y phục, chỗ trú ngụ, chỉ giữ những nhu cầu căn bản để cắt đứt tham ái. Đây là những sự thực hành căn bản của thiền. Luôn luôn duy trì chánh niệm trong mọi tư thế, mọi hoạt động sẽ làm cho tâm an tịnh và trong sáng. Nhưng sự an tịnh này không phải là mục tiêu cuối cùng của thiền. Vắng lặng, an tịnh chỉ giúp cho tâm an nghỉ tạm thời cũng như ăn uống chỉ tạm thời giải quyết cơn đói, chớ đời sống của chúng ta không phải chỉ có chuyện ăn. Bạn phải dùng tâm tĩnh lặng của mình để nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới, ánh sáng trí tuệ. Khi tâm đã vững chắc trong trí tuệ, bạn không còn bị dính chặt vào những tiêu chuẩn tốt xấu của thế tục và không còn bị chi phối bởi những điều kiện bên ngoài. Với trí tuệ này thì phân trở thành chất bón -- tất cả kinh nghiệm của chúng ta trở thành nguồn trí tuệ sáng suốt. Bình thường, chúng ta muốn đưọc khen ngợi và ghét bị chỉ trích, nhưng khi nhìn với một tâm hồn sáng suốt, chúng ta sẽ thấy khen tặng và chỉ trích đều trống rỗng như nhau. Vậy chúng ta hãy để mọi sự trôi qua một cách tự nhiên để tìm thấy an bình, tĩnh lặng. Đừng băn khoăn thắc mắc là phải bao lâu mới đạt được kết quả mà hãy bắt tay vào việc thực hành. Kiên trì thực tập. Nếu đau chân, hãy tự nhủ, "Ta không có chân." Nếu nhức đầu, hãy tự nhủ, "Ta không có đầu." Lúc ngồi thiền ban đêm, nếu buồn ngủ, hãy nghĩ, "Đây là ban ngày." Suốt thời gian hành thiền phải tỉnh giác, chánh niệm vào hơi thở. Nếu bạn có cảm giác khó chịu ở ngực, hãy để ra vài phút thở thật sâu. Nếu bị phóng tâm chỉ cần giữ hơi thở và để cho tâm muốn đi đâu thì đi -- nó sẽ không đi quá xa đâu! Bạn có thể thay đổi tư thế sau một thời gian hành thiền, nhưng đừng để sự bất an hay khó chịu chi phối tâm mình. Nhiều lúc sự kiên trì chịu đựng đem lại kết quả tốt. Chẳng hạn, khi cảm thấy nóng, chân đau, không thể định tâm, hãy xem như tất cả đều chết, ngồi yên đừng nhúc nhích. Cảm giác đau đớn sẽ lên đến điểm cao nhất, sau đó sẽ tĩnh lặng và mát mẻ. Nhưng ngày kế tiếp bạn sẽ không muốn làm thế nữa. Tự luyện tập đòi hỏi phải có nhiều kiên trì, nỗ lực. Thực tập một thời gian, bạn sẽ biết lúc nào cần phải thúc đẩy, lúc nào cần phải nghỉ ngơi thoải mái, phân biệt được thế nào là mệt mỏi, thế nào là lười biếng. Đừng bận tâm về chuyện giải thoát. Khi trồng cây bạn chỉ cần trồng cây xuống, tưới nước, bón phân, bắt sâu. Nếu mọi chuyện này đều thực hiện đầy đủ, cây sẽ lớn lên tự nhiên. Bao lâu cây sẽ lên, đó là điều vượt ra khỏi tầm kiểm soát của bạn. Lúc đầu kham nhẫn kiên trì là hai yếu tố cần thiết, nhưng một thời gian sau đức tin và quyết tâm sẽ khởi sinh. Lúc bấy giờ bạn sẽ thấy giá trị của sự thực hành và bạn sẽ say mê hành thiền. Bạn không còn thích quần tụ mà chỉ muốn ở nơi yên tịnh một mình, bạn sẽ dành thêm thì giờ để thực tập, tự học hỏi. Hãy bắt đầu thực tập với những bước căn bản. Thành thật, trong sạch và tỉnh giác trong mọi việc bạn đang làm, bình an, tĩnh lặng sẽ theo sau. Ajahn Chah kể lại rằng Đức Phật đã khích lệ Chư Tăng khi Ngài xác quyết: Người nào kiên trì nỗ lực hành thiền thì sẽ đắc quả trong vòng bảy ngày. Nếu bảy ngày không thành thì sẽ thành đạo trong vòng bảy tháng hay bảy năm. Một nhà sư trẻ tuổi Hoa kỳ nghe vậy hỏi Ajahn Chah điều đó có thật hay không? Ajahn Chah nói chắc rằng nếu thầy chánh niệm liên tục trong vòng bảy ngày thì thầy sẽ thành đạo. Đầy hứng khởi, nhà sư trẻ bắt đầu bảy ngày của mình. Nhưng chỉ trong vòng mười phút sau thầy đã bị phóng tâm. Thầy bắt đầu bảy ngày trở lại, lần này cũng bị thất niệm vì suy nghĩ -- có lẽ là suy nghĩ đến chuyện phải làm gì sau khi đắc đạo! Thầy lại tiếp tục bắt đầu bảy ngày khác, nhưng chánh niệm lại bị gián đoạn nữa. Một tuần sau, mặc dầu chưa đắc đạo nhưng thầy đã có một mức tỉnh giác rất cao, đã chế ngự được phần nào con tâm quái dị có khuynh hướng hay phóng đi nơi khác này. Đây là một phương cách hiệu nghiệm để khởi đầu việc huấn luyện tâm mình trên đường đi đến giác ngộ. Đừng kỳ vọng phải đạt được kết quả thật nhanh. Thiền sinh với đức tin rắn chắc phải có ý chí cương quyết và lòng kiên trì cũng như người bán hàng phải luôn miệng rao hàng mà không làm biếng! Chủ yếu trong việc dạy thiền của Ajahn Chah là giúp thiền sinh làm mọi việc cần thiết để duy trì sự quân bình tâm trí hầu thoát khỏi mọi dính mắc. Một nhà tâm lý Tây phương, xuất gia làm một nhà sư đã học được bài học này. Nhà tâm lý học xin ở lại Wat Pah Pong trong ba tháng hạ với kỳ vọng được ở gần thiền sư đủ khả năng giúp mình hành thiền chóng đạt kết quả tốt. Vài hôm sau, Ajahn Chah thông báo cho tất cả chư tăng biết chương trình tụng kinh hàng ngày là từ 3 giờ 30 đến 4 giờ 40 sáng, và từ 5 giờ đến 6 giờ chiều. Đó là chương trình mà thiền sinh phải tuân theo trong kỳ hạ này. Nhà sư mới xuất gia giơ tay xin phát biểu ý kiến và bắt đầu tranh luận lớn tiếng rằng ông ta đến đây là để hành thiền, không phải để phí thì giờ tụng kinh. Việc tranh cãi với thầy giữa đám đông theo lối Tây phương này làm nhiều người bất bình. Ajahn Chah từ tốn giải thích rằng hành thiền thực sự là phải giác tỉnh trong mọi hoạt động của mình chớ không phải chỉ tìm sự bình an tĩnh lặng trong lúc ngồi tại sơn am. Ajahn Chah đi đến chỗ khẳng định nhà tâm lý học phải chấp hành đúng đắn tụng kinh hàng ngày nếu ông ta muốn ở lại Wat Pah Pong. Nhà tâm lý học đã ở lại và học tụng kinh tốt đẹp, đàng hoàng. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho việc hành thiền trở nên phức tạp và rối rắm. Chẳng hạn, khi ngồi xuống chúng ta quyết định, "Lần này phải thành công mới được." Đó không phải là một việc làm đúng, vì không gì có thể hoàn tất một cách vội vã được. Đó là một dính mắc mà các thiền sinh mới thường gặp phải. Nhiều đêm khi bắt đầu ngồi thiền ta thường có ý nghĩ, "Tối nay nhất định không ngủ trước một giờ sáng." Nhưng chẳng bao lâu sau đó, tâm ta bắt đầu phản kháng và dấy loạn cho đến lúc ta có cảm tưởng rằng mình sắp chết đến nơi. Khi ngồi thiền đúng thì không cần đo lường hay thúc buộc gì cả. Không có đích, không có mục tiêu để đạt tới. Dầu bạn có ngồi từ sáng sớm đến bảy tám giờ tối cũng không thành vấn đề. Chỉ cần ngồi mà không để ý đến thời gian. Đừng tự thúc bách mình. Đừng ép buộc mình. Đừng đòi hỏi tâm mình phải làm một điều gì có tính cách chắc chắn cố định. Hãy để tâm thoải mái, để hơi thở tự nhiên bình thường, đừng ép hơi thở dài hay ngắn theo ý mình. Hãy để cơ thể thoải mái. Thực tập đều đặn liên tục, lòng tham muốn sẽ hỏi bạn, "Ta sẽ ngồi đến lúc nào đây? Ta sẽ ngồi bao lâu đây?" Hãy quát lại nó (thầm thôi nhé!), "Này, đừng quấy rầy ta!" Phải đàn áp nó vì nó là phiền não đến quấy rầy bạn. Hãy nói, "Ta muốn ngồi bao lâu thì ta ngồi; ta muốn ngưng ngồi thiền lúc nào thì ngưng, chẳng có gì sai lầm cả. Nếu ta ngồi suốt đêm, ta làm hại ai đây? Tại sao ngươi đến quấy rầy ta?" Hãy cắt đứt lòng ham muốn và tiếp tục ngồi theo ý bạn. Để tâm thoải mái tự nhiên bạn sẽ đạt được bình an tĩnh lặng, thoát khỏi sức mạnh của tham ái. Có một thiền sinh ngồi trước lư hương và nguyện đến lúc cây nhang tàn mới đứng dậy. Thế là anh ta cứ nhấp nhỏm theo dõi xem hương đã tàn đến đâu. "Tàn hết chưa? Mới có nửa cây à?" anh ta nghĩ. Có khi anh ta nguyện sẽ ngồi cho đến lúc hương tàn dầu có chết cũng không đứng dậy. Anh ta sẽ cảm thấy tội lỗi khủng khiếp nếu phải đứng dậy khi chưa hết giờ qui định. Ngồi thiền như thế là đã bị tham ái kiểm soát. Đừng để ý đến thời gian. Hãy duy trì việc thực hành của mình một cách đều đặn và để sự tiến bộ đến dần với bạn. Khỏi cần phải nguyện hay thề gì cả, chỉ cần kiên trì cố gắng thực hành, để tâm tự nó bình an tĩnh lặng lấy. Cuối cùng bạn sẽ thấy mình có thể ngồi lâu một cách thoải mái, đó là bạn đã hành thiền đúng cách. Lúc đau nơi chân, bạn chỉ cần quan sát và biết sự đau. Bạn sẽ thấy cơn đau tự biến mất mà không cần đến sự giúp đỡ của bạn. Thực hành theo cách này, bạn sẽ thấy có nhiều thay đổi diễn ra trong bạn. Khi đi ngủ bạn có thể tập cho tâm mình tĩnh lặng trước khi ngủ. Nếu trước đây bạn hay ngáy, hay mơ, nghiến răng, trăn trở, v. v., một khi tâm được huấn luyện thì mọi tật xấu trên sẽ biến mất. Dầu cho bạn có ngủ say đến đâu, lúc thức giấc bạn cũng tỉnh táo, không bần thần uể oải. Cơ thể an nghỉ nhưng tâm tỉnh thức suốt ngày đêm, đó là Phật, là kẻ hiểu biết, tỉnh thức, hạnh phúc sáng suốt. Phật không bao giờ ngủ, nhưng không bao giờ cảm thấy uể oải, thẫn thờ. Nếu bạn làm cho tâm trí mình kiên định như thế trong lúc hành thiền, bạn có thể thức liền hai ba hôm, và khi buồn ngủ vẫn có thể nhập định trong vòng năm mười phút là tỉnh dậy một cách tươi tắn như người đã ngủ trọn đêm. Ở mức độ này, bạn không cần phải nghĩ đến thân thể mình nữa, mặc dầu với tình thương và sự hiểu biết, bạn vẫn còn thấy thân thể này cần thiết. Vài gợi ý trong việc hành thiền Trong khi thực hành có thể có nhiều hình ảnh và ảo tưởng sẽ hiện ra trong tâm bạn. Bạn sẽ thấy những hình ảnh hấp dẫn, sẽ nghe những âm thanh khuấy động -- những loại như thế đều phải quan sát. Loại hình ảnh trong thiền minh sát này có thể có nhiều năng lực hơn những hình ảnh trong thiền định đơn thuần. Những gì hiện lên đều phải quan sát và chỉ quan sát thôi. Gần đầy có một số người hỏi tôi, "Lúc tôi đang ngồi thiền có nhiều hình ảnh hiện ra trong tâm tôi, tôi phải điều tra nghiên cứu chúng hay chỉ ghi nhận sự đến đi của chúng?" Tôi đã trả lời, "Khi bạn thấy một vài người nào đó đi ngang qua, nếu họ là người lạ, bạn sẽ tự hỏi, 'Ai đấy? Họ đi đâu? Họ đang làm gì?' Nếu họ là người quen thì bạn chỉ cần ghi nhận rồi để họ đi qua." Tham muốn, ao ước trong thực hành có thể là bạn hay kẻ thù. Thoạt đầu, sự tham muốn, ao ước thúc đẩy hay khích lệ việc hành thiền. Chúng ta muốn thay đổi sự vật, muốn hiểu biết, muốn chấm dứt đau khổ. Nhưng nếu luôn luôn ao ước chuyện chưa xảy ra, muốn sự vật diễn ra hay có đặc tính mà chúng không thể có thì chỉ gây thêm đau khổ thôi. Một vài người hỏi, "Chúng tôi chỉ nên ăn khi đói, chỉ nghỉ mệt như các thiền sư Zen đề nghị hay chúng tôi nên thí nghiệm bằng cách làm ngược lại, nghĩa là ép mình trong khuôn khổ, giờ giấc định sẵn? Và nếu như vậy thì phải ấn định giờ giấc ngủ, nghỉ và số lượng thực phẩm như thế nào mới thích hợp?" Dĩ nhiên phải thí nghiệm, nhưng không thể nào ấn định số lượng nhiều ít được. Phải tự mình ấn định và tìm hiểu lấy. Lúc mới thực hành, chúng ta chẳng khác nào đứa trẻ mới học viết những chữ cái, chữ viết lên xuống, nghiêng ngửa. Dần dần ta sẽ viết ngay ngắn đàng hoàng. Cuộc sống của chúng ta cũng như vậy, nếu chúng ta không sống như thế, chúng ta phải sống thế nào đây? Thực hành tốt đẹp là tự hỏi mình một cách thành thật, "Tại sao ta sinh ra?" Tự hỏi mình như thế ngày ba lần -- sáng, trưa, tối. Ngày nào cũng tự hỏi như vậy. Đức Phật dạy Đại đức Ananda phải nhìn thấy sự vô thường và sự chết trong mỗi hơi thở. Chúng ta phải biết cái chết; chúng ta phải chết để sống. Điều này có nghĩa như thế nào? Chết là chấm dứt tất cả mọi hoài nghi, mọi câu hỏi, và chỉ sống với thực tế hiện tại. Không phải ngày mai bạn mới chết, bạn phải "chết" ngay trong hiện tại. Bạn có thể làm được điều đó không? A! Tĩnh lặng làm sao, sự bình an tĩnh lặng của chấm dứt hoài nghi. Tinh tấn thật sự là trạng thái của tâm chứ không phải của thân. Có nhiều phương pháp định tâm khác nhau cũng như có nhiều cách sống trên cõi đời này. Điều quan trọng là bạn phải tự ăn lấy, chứ không phải cách thức tìm kiếm thức ăn. Thực ra, khi tâm thoát khỏi tham ái, tâm định sẽ khởi lên một cách tự nhiên, chứ chẳng cần một điều kiện nào nữa. Ma túy có thể mang lại những cảm giác đáng lưu ý, nhưng người dùng ma túy không tạo ra nguyên nhân của hiệu quả này. Họ chỉ tạm thời biến đổi bản chất, chẳng khác nào tiêm cho khỉ một chất thuốc khiến chúng vọt lên cây dừa để hái trái. Những kinh nghiệm này có thể đúng nhưng không tốt, hoặc là tốt nhưng không đúng, trong khi đó Giáo Pháp luôn luôn mang hai đặc tính tốt và đúng. Đôi lúc chúng ta muốn ép tâm mình phải an tịnh, sự cố gắng như thế càng làm quấy nhiễu thêm. Trong trường hợp này, ta hãy ngưng ngay sự thúc ép, kết quả là tâm định sẽ xuất hiện. Nhưng trong trạng thái bình an tĩnh lặng này, chúng ta bắt đầu băn khoăn, "Sẽ có chuyện gì nữa đây? Điều gì đang xảy ra?" và chúng ta lại dao động trở lại. Một ngày trước kỳ kết tập tam tạng lần thứ nhất, một vị sư đến nói với Ngài Ananda, "Ngày mai là ngày kết tập tam tạng. Những vị tham dự đều hoàn toàn đắc đạo." Lúc bấy giờ Ananda chỉ mới đạt quả thánh đầu tiên, nên Ngài quyết định dốc toàn lực hành thiền suốt đêm để đạt thành quả cuối cùng. Nhưng sự cố gắng quá sức này đã làm Ananda mệt mỏi. Không đạt được chút tiến bộ nào do nỗ lực của mình, Ananda quyết định đi nghỉ một lát. Nhưng trong khi đặt mình xuống nghỉ, đầu chưa chạm gối, Ananda đã đắc đạo. Tóm lại, chúng ta phải học cách loại bỏ tham ái, dầu đó là ý muốn đắc đạo, mới giải thoát được. Khi bạn tiếp tục hành thiền, bạn phải quan sát cẩn thận mọi kinh nghiệm, mọi giác quan của mình. Chẳng hạn khi quan sát đối tượng giác quan như tiếng động, sự nghe. Sự nghe của bạn là một chuyện, và âm thanh là một chuyện khác. Bạn chỉ cần tỉnh thức là đủ. Ngoài ra chẳng có ai hay vật gì cả. Hãy học cách chú ý một cách thận trọng. Quan sát để tìm ra chân lý một cách tự nhiên như vậy, bạn sẽ thấy rõ cách thức sự vật phân ly. Khi tâm không bám víu hay nắm giữ sự vật một cách bất di bất dịch theo ý riêng của mình, không nhiễm một cái gì, sự vật sẽ trở nên trong sáng rõ ràng. Khi tai nghe, hãy quan sát tâm xem thử tâm đã bắt theo, đã nhận ra câu chuyện liên quan đến âm thanh mà tai nghe chưa? Bạn có thể ghi nhận, sống với nó và giác tỉnh trước nó. Có lúc bạn muốn thoát khỏi sự chi phối của âm thanh. Nhưng đó không phải là phương thức để tránh thoát. Bạn phải dùng sự tỉnh thức để thoát khỏi sự chi phối của âm thanh. Chúng ta không thể kỳ vọng đạt được bình an tĩnh lặng tức khắc ngay khi hành thiền. Hãy để cho tâm yên nghỉ, để tâm làm theo ý nó muốn, chỉ cần quan sát mà đừng phản ứng gì cả. Đến khi sự vật tiếp xúc với giác quan chúng ta hãy thực tập tâm xả. Hãy xem mọi cảm giác như nhau. Xem chúng đến và đi như thế nào. Giữ tâm ở yên trong hiện tại. Đừng nghĩ đến chuyện đã qua, đừng bao giờ nghĩ, "Ngày mai ta sẽ làm chuyện đó." Nếu lúc nào chúng ta cũng thấy những đặc tính thực sự của mọi vật trong giây phút hiện tại này, bất cứ cái gì tự nó cũng thể hiện Giáo Pháp cả. Huấn luyện tâm cho đến khi tâm ổn cố, từng trải, kinh nghiệm. Lúc bấy giờ, khi sự vật diễn biến bạn sẽ nhận chân được chúng một cách rõ ràng mà không bị dính mắc vào chúng. Bạn đừng ép buộc tâm tách rời khỏi đối tượng giác quan. Khi bạn thực hành, chúng sẽ tự tách rời lấy và hiện bày ra những yếu tố đơn giản là Thân, Tâm. Khi ý thức được hình sắc, âm thanh, mùi vị đúng theo chân lý, bạn sẽ thấy tất cả đều có một đặc tính chung -- vô thường, khổ và vô ngã. Mỗi khi nghe một âm thanh, âm thanh sẽ ghi vào tâm bạn đặc tính chung ấy. Nghe cũng như không nghe đều như nhau. Chánh niệm luôn luôn ở với bạn, bảo vệ cho sự nghe. Nếu lúc nào tâm bạn cũng đạt được trình độ này, sự hiểu biết sẽ nảy nở trong bạn. Đó là Trạch Pháp Giác Chi, một trong bảy yếu tố đưa đến giác ngộ. Yếu tố trạch pháp này suy đi xét lại, quay tròn, tự đảo lộn, tách rời khỏi cảm giác, tri giác, tư tưởng, ý thức. Không có gì có thể đến gần nó. Nó có công việc riêng để làm. Sự tỉnh giác này là một yếu tố tự động có sẵn của tâm, bạn có thể khám phá ra nó ở giai đoạn đầu tiên của sự thực hành. Bạn thấy gì, bạn làm gì đều phải ghi nhận. Đừng bao giờ rời khỏi thiền. Nhiều người nghĩ rằng họ có thể xả thiền vào cuối giờ ngồi thiền. Hết giờ hành thiền họ cũng chấm dứt luôn việc theo dõi, quan sát thân tâm. Không nên làm như thế. Thấy bất cứ cái gì, bạn cũng phải quan sát. Thấy người tốt kẻ xấu, người giàu kẻ nghèo, phải quan sát theo dõi. Thấy người già người trẻ, người lớn người nhỏ, đều phải quan sát. Đó là cốt tủy của việc hành thiền. Trong khi quan sát để tìm kiếm Giáo Pháp, bạn phải quan sát đặc tính, nhân quả và vai trò của các đối tượng giác quan, lớn nhỏ, trắng đen, tốt xấu. Nếu đó là sự suy nghĩ thì chỉ đơn thuần biết đó là sự suy nghĩ. Tất cả những đối tượng này đều là vô thường, khổ và vô ngã. Không nên dính mắc vào chúng. Tỉnh thức là nghĩa trang của chúng, hãy vất tất cả chúng vào đấy. Làm được như thế bạn sẽ thấy được đặc tính vô thường rỗng không của mọi vật và chấm dứt khổ đau. Hãy tiếp tục quan sát, thẩm nguyện cuộc sống này. Khi gặp một điều tốt đẹp, hãy ghi nhận xem tâm bạn lúc ấy thế nào? Bạn vui chăng? Nên quan sát sự vui này. Dùng vật gì độ một thời gian bạn bắt đầu thấy chán, muốn cho hay bán đi. Nếu không ai mua bạn sẽ vất bỏ. Tại sao vậy? Cuộc sống của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng. Bạn hãy nhìn vào chân lý này. Một khi bạn đã hiểu cặn kẽ một trong những biến cố này, bạn sẽ hiểu tất cả. Tất cả đều có cùng một bản chất. Có thể bạn không thích một loại hình ảnh hay âm thanh nào đó. Hãy ghi nhận điều này. Về sau có thể bạn lại thích điều mà trước đây bạn từng ghét bỏ. Nhiều chuyện tương tự như thế xảy ra. Khi bạn nhận chân ra rằng mọi chuyện trên thế gian đều vô thường, khổ và vô ngã, bạn sẽ vất bỏ tất cả, và mọi luyến ái sẽ không còn khởi dậy nữa. Khi bạn thấy mọi vật, mọi chuyện đến với bạn đều như nhau, lúc bấy giờ bạn sẽ thản nhiên trước mọi sự, và mọi chuyện chỉ là các pháp khởi sinh mà chẳng có gì đặc biệt khiến bạn phải bận lòng. Khi đó Giáo Pháp sẽ xuất hiện. Một khi bạn đã bước vào dòng suối này và nếm được hương vị giải thoát, bạn sẽ không còn phải trở lại nữa, không còn nhận thức và hành động sai lầm nữa. Tâm trí bạn sẽ biến đổi, chuyển hướng nhập lưu. Bạn không còn rơi vào đau khổ nữa. Lúc bấy giờ bạn sẽ vứt bỏ mọi tác động sai lầm, bởi vì bạn thấy rõ mọi hiểm nguy trong các tác động sai lầm này. Bạn không nói hay làm những điều lầm lạc nữa. Bạn sẽ hoàn toàn đi vào Đạo. Bạn sẽ hiểu rõ bổn phận, sự vận hành, lối đi, và bản chất tự nhiên của con đường này. Bạn sẽ buông xả mọi chuyện cần buông xả và tiếp tục buông xả mọi chuyện, không chút ưu tư thắc mắc. Những điều tôi nói nãy giờ chỉ đơn thuần là những lời nói. Ai đến gặp tôi, tôi sẽ có chuyện để nói với họ. Nhưng tốt nhất là chẳng nên nói nhiều về những điều này. Việc thực hành quan trọng hơn. Hãy bắt tay vào việc thực hành. Đừng chần chờ gì nữa. Tôi chẳng khác nào một người bạn tốt mời bạn đi đến một nơi nào đó. Đừng do dự nữa, hãy lên đường. Bạn sẽ không bao giờ ân hận đâu. Vào mùa lá rụng, cứ vài hôm chư tăng trong thiền viện lại chia nhau quét lá ở lối đi và sân chùa. Trên những khoảng sân rộng, một hai vị sư quét không xuể, phải nhiều sư hợp lại, dùng những cây chổi cán dài, cùng nhau quét. Những cây chổi dài chuyển động chẳng khác nào những trận cuồng phong thổi đám là vàng tung bay như đàn bướm. Nhưng một lát sau, rừng cây lại tiếp tục dạy ta bài học mới. Lá lại rụng, các nhà sư lại tiếp tục quét. Quét xong đàng này, đàng kia lá đã tràn ngập; quét đến cuối lối mòn, đầu lối mòn đã vàng rực màu lá. Cuộc sống của chúng ta khác nào hơi thở ra vào, giống như lá sinh ra rồi rụng xuống. Khi hiểu được bài học lá rụng, chúng ta có thể quét sạch lối đi hàng ngày và gặt hái hạnh phúc lớn lao trong cuộc sống phù du biến đổi này. Một nhà sư trẻ sẽ sống an lạc hạnh phúc trong rừng sâu khi biết chiêm nghiệm bản chất thiên nhiên của sự vật. Khi nhìn quanh thầy ý thức được sự biến hoại của tất cả mọi hình thái và tất cả đều đi đến nơi hủy diệt. Chẳng có gì trường cửu trên thế gian. Ý thức được điều này, nhà sư bắt đầu an nhiên tĩnh lặng. Nhà sư tập bằng lòng với sự thiếu thốn: chỉ ăn những gì thấy cần, chỉ ngủ khi cần thiết, thỏa thích với tất cả những gì mình có. Đó là căn bản của thiền Phật Giáo. Nhà sư Phật Giáo không hành thiền với lý do vị kỷ. Trái lại, các thầy hành thiền để tự hiểu biết chính mình, đồng thời để có thể chỉ dạy kẻ khác sống trong bình an hiểu biết. Thiền không phải chỉ là sống an lành trong cuộc đời này. Ngược lại, phải đương đầu với chính mình chẳng khác nào dấn thân vào phong ba bão táp. Lúc bắt đầu hành thiền tích cực, chúng ta thường cảm thấy chán nản, thất vọng đến nỗi muốn tự sát nữa là khác. Một số người nghĩ rằng đời sống của sư sãi thật rảnh rỗi và dễ dàng. Cứ để họ thử đi và xem họ chịu đựng được bao lâu. Nghiệp vụ của các nhà sư thật khó khăn. Các vị phải tích cực trong công tác tự giải toả tâm mình để lòng từ ái bao trùm mọi vật. Trong khi nhìn thấy sự sinh diệt của đời sống, nhà sư ý thức được rằng chẳng có gì tùy thuộc vào thầy cả, nhờ thế thầy dồn đau khổ đến đường cùng. Nếu hành thiền một cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ gặt hái được thành quả ngay. Bạn cứ thử đi sẽ thấy, tôi chẳng cần quảng cáo làm chi. Lối sống thế tục có tính cách hướng ngoại, buông lung. Lối sống của nhà tu bình dị và tiết chế. Nhà sư có lối sống khác hẳn kẻ thế tục, từ bỏ thói quen, ăn ngủ và nói ít lại. Nếu làm biếng, phải tinh tấn thêm; nếu cảm thấy khó chịu đựng, phải kiên nhẫn thêm; nếu cảm thấy yêu chuộng và dính mắc vào thân xác, phải nhìn những khía cạnh bất tịnh của cơ thể mình. Nhiều người cho rằng, "Đối kháng lại dục vọng, tham ái, là một điều khó khăn, chúng ta hãy nương theo nó và bỏ dần, đây là một phương pháp chậm chạp nhưng có hiệu quả." Tôi không đồng ý như thế, vì dung túng cho tham ái, dục vọng bạn sẽ không bao giờ đến đích được. Giới luật và thiền định hỗ trợ tích cực cho việc luyện tâm, giúp cho tâm an định và thu thúc. Nhưng bề ngoài thu thúc chỉ là một sự chế định, một dụng cụ giúp tâm an tịnh. Bởi vì dù bạn có cuí đầu nhìn xuống đất đi nữa, tâm bạn vẫn có thể bị chi phối bởi những vật ở trong tầm mắt bạn. Có thể bạn cảm thấy cuộc sống khó khăn và bạn không thể làm gì được. Nhưng càng hiểu rõ chân lý của sự vật, bạn càng được khích lệ hơn. Giả sử trên đường về nhà, bạn dẫm phải gai. Gai đâm sâu vào chân bạn. Quá đau đớn bạn cảm thấy không thể nào đi nổi. Thế rồi, thình lình một con cọp xuất hiện. Bạn quên hết cái đau, nhỏm dậy chạy về nhà. Phải luôn luôn tự hỏi, "Tại sao ta xuất gia?" Hãy xem câu này như một khích lệ giúp ta tiến bước. Không phải xuất gia để được thoải mái và hoan lạc. Sống ở đời còn dễ dàng hơn nhiều. Trong lúc đi khất thực, phải luôn luôn tự hỏi, "Tại sao ta phải làm như vầy? Ta không nên bỏ thói quen này." Khi nghe pháp, bạn nghe lời dạy hay chỉ nghe âm thanh? Có thể lời nói đi vào tai, nhưng bạn đang suy nghĩ, "Khoai lang điểm tâm sáng nay thật tuyệt." Phải giữ tâm chánh niệm thật sắc bén. Trong khi làm các công việc trong tu viện phải làm với sự chú ý. Phải biết mình đang làm gì, đang có cảm giác gì trong khi làm. Phải biết rằng khi tâm quá dính mắc vào ý niệm thiện ác của nghiệp là tự mang vào mình gánh nặng nghi ngờ và bất an vì luôn luôn e sợ không biết hành động của mình có sai lầm, có tạo nên nghiệp ác không. Đó là một sự dính mắc cần tránh. Quá dính mắc vào điều này làm bạn trở nên e dè sợ hãi mỗi khi làm công việc gì. Chẳng hạn lúc quét nhà, bạn lo sợ sẽ làm kiến chết. Trong khi đi, bạn lo sợ sẽ làm hại cây cỏ. Càng giữ giới trong sạch, những nghi ngờ lo sợ càng đến với bạn nếu bạn dính mắc vào giới. Nếu tiếp tục băn khoăn lo lắng, bạn chỉ đạt được sự bình an tạm thời. Bạn phải hiểu rõ tiến trình của hoài nghi để chấm dứt nó. Trong lúc tụng kinh chúng ta thường nói rằng chúng ta là những kẻ phụng sự Đức Phật. Phụng sự có nghĩa là hoàn toàn đặt mình dưới quyền điều khiển và sử dụng của ông chủ, và ông chủ sẽ ban cho ta mọi nhu cầu: thức ăn, quần áo, chỗ ở, lời hướng dẫn, v. v. Chúng ta, những kẻ mặc áo thừa kế của Đức Phật, phải hiểu rằng mọi nhu yếu chúng ta nhận được từ thiện tín nhờ đức hạnh của Đức Phật chớ không phải ở phước báu riêng của chúng ta. Chúng ta phải biết tri túc trong vật dụng (thức ăn, y phục, chỗ ở, thuốc men). Chẳng cần phải mặc y thật tốt; y chỉ cốt đủ che thân. Chẳng cần phải có thức ăn ngon; thực phẩm chỉ để nuôi mạng sống. Đi trên đường Đạo là đối kháng lại mọi phiền não và ham muốn thông thường. Một nhà sư lúc đi khất thực, nếu thấy lòng tham muốn nói, "Cho tôi nhiều", ngài sẽ nói, "Cho tôi ít". Nếu phiền não nói, "Cho tôi mau mau", hạnh thu thúc sẽ nói, "Cho tôi chậm chậm". Nếu tham ái muốn thức ăn nóng và mềm, hạnh thu thúc sẽ yêu cầu nó lạnh và cứng. Trong mọi hành động của chúng ta -- mặc y, đi bát, đều phải làm trong chánh niệm. Giáo pháp và giới luật Đức Phật ban cho ta chẳng khác nào một vườn cây trái ngon ngọt. Chúng ta khỏi bận tâm về việc gieo trồng và săn sóc. Chúng ta cũng khỏi phải lo sợ gặp phải trái cây độc hay không thích hợp. Tất cả đều có lợi ích và tốt đẹp cho ta. Một khi đạt được sự mát mẻ bên trong, bạn không nên vất bỏ nếp sống tu viện này. Bạn hãy làm khuôn mẫu cho những kẻ đến sau, đó là thái độ của những nhà sư giác ngộ. Nhiều người sợ mình hành động sai lầm, tội lỗi, lo lắng quá đáng đến độ mất ngủ. Lúc còn dính mắc vào giới luật thì giới luật là gánh nặng, dần dần bạn sẽ giữ giới một cách nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Nhưng thoạt đầu bạn phải trải qua thời kỳ nặng nề cũng như trước khi vượt qua đau khổ, bạn phải đau khổ trước. Một người tận tâm, chu đáo trong việc tu hành, trước tiên phải chịu nhiều khó khăn, chẳng khác nào cá nước ngọt phải sống trong nước mặn. Cố gắng giữ giới luật khiến mắt bạn nóng bỏng, xốn xang. Một người thờ ơ và cẩu thả trong việc giừ gìn giới luật thì sẽ chẳng cảm thấy bị phiền lụy chút nào, nhưng họ cũng chẳng bao giờ có dịp học hỏi để thấy chân lý. Giữ hai trăm hai muơi bảy (227) giới là điều thiết yếu mà một nhà sư phải hành trì. Chúng ta phải giữ gìn giới luật trong sạch. Nhưng không phải chỉ giữ giới là đủ. Hãy nhớ rằng giới chỉ là sự chế định hay dụng cụ mà thôi. Không cần phải nghiên cứu hết mọi ý nghĩa lý của giáo pháp hay thông hiểu hết tất cả luật lệ. Cũng như khi làm một con đường băng qua rừng, bạn chẳng cần phải đốn hết cây rừng. Mọi phương pháp thực hành đều dẫn đến giải thoát, trở thành người thấy rõ ánh sáng trong mọi thời gian. Con đường duy nhất giúp giới tịnh là làm cho tâm trong sạch. Một nhà sư Tây phương lưu ngụ ở Wat Pah Pong đã lấy làm thất vọng vì phải thực hành khó khăn và phải giữ nhiều giới luật phức tạp và có vẻ phi lý. Thầy bắt đầu chỉ trích những vị sư khác là hành thiền tùy tiện không đến nơi đến chốn. Thầy nghi ngờ những lời dạy của Ajahn Chah. Một dịp nọ thầy đến gặp ngài Ajahn Chah than phiền, cho rằng ngay chính ngài Ajahn Chah cũng mâu thuẫn và dường như nhiều lúc đi ngược lại đường lối giải thoát. Ajahn Chah cười và cho biết nhiều nhà sư đã tự gánh lấy đau khổ khi chú ý phán đoán những người chung quanh. Sau đó Ajahn Chah giải thích cho nhà sư Tây phương rõ đường lối giảng dạy đơn giản của ngài: Cũng giống như trường hợp tôi thấy một người đang đi trên con đường mà tôi quen thuộc. Tôi theo dõi và biết người ấy sắp rơi vào hố bên phải của con đường. Tôi bèn gọi người ấy, "Hãy đi sang trái, sang trái". Cũng thế, khi thấy một người sắp rơi vào hố bên trái, tôi lại lớn tiếng, "Sang phải, sang phải". Đó là phạm vi chỉ dẫn của tôi. Bất kỳ thầy dính mắc vào cực đoan nào, dính mắc vào cái gì tôi đều bảo, "Hãy buông bỏ chúng đi. Hãy đi sang phải, hãy đi sang trái, rồi trở về trung tâm". Làm như thế thầy sẽ đến gặp Chân pháp. Đây là phương pháp đối trị bất an và phóng tâm: -- Ăn thật ít. Đừng nói chuyện với ai. Sau bữa cơm, trở về liêu cốc của mình, đóng cửa lớn và cửa sổ, mặc nhiều áo vào, ngồi xuống, cảm thấy thế nào cũng mặc kệ. Bằng cách này bạn sẽ trực tiếp đối diện với bất an. Khi cảm giác khởi dậy, hãy đặt câu hỏi với chúng. Bạn sẽ thấy chúng chỉ là cảm giác mà thôi. Khi bạn cần đi sâu vào việc thực hành, sẽ có lúc những căng thẳng lớn lao trong tâm hồn bạn trôi theo những giọt mồ hôi và nước mắt. Nếu bạn chưa trải qua vài lần như thế, bạn chưa hành thiền thật sự. Ý nghĩa sâu xa của việc tụng kinh Mỗi buổi sáng, sau khi đi khất thực về, các nhà sư vào trai phòng ngồi thành hai dãy dài. Họ chắp tay cung kíng đọc kinh trước khi vào bữa ăn. Đây là những bài kinh chúc lành bằng tiếng Pali, nhắc lại những lời dạy của Đức Phật, trở về với thời kỳ Phật còn hiện tiền. Thiện nam tín nữ thuần thành đem thực phẩm đến dâng cúng cho chư tăng ngồi yên lặng thành khẩn khi các nhà sư tụng kinh. Sau đó chư tăng dùng cơm trong yên lặng chánh niệm. Một vị khách Tây phương, còn mới mẻ với nếp sống và truyền thống trong tu viện, hỏi Ngài Ajahn Chah ý nghĩa việc tụng kinh: -- Phải chăng những nghi lễ này có một ý nghĩa sâu xa bên trong? Ajahn Chah trả lời: -- Vâng, rất có ý nghĩa. Đặc biệt là đối với những nhà sư đang đói bụng mà phải tụng kinh như thế này trước khi được ăn bữa cơm độc nhất trong ngày. Bài kinh bằng tiếng Pali có nghĩa là "Cám ơn." Họ nói, "Rất cám ơn!" Chân lý nằm trong những công việc hèn mọn Việc hành thiền ở đây thật ra chẳng có gì khó khăn, thế nhưng vẫn có nhiều người không muốn làm. Chùa Wat Pah Pong trong những ngày đầu tiên rất thiếu thốn, không có điện, không có giảng đường hay phòng ăn lớn. Bây giờ chúng ta đã đầy đủ và chúng ta phải chăm nom săn sóc chúng. Tiện nghi luôn luôn phát sinh ra những phức tạp, rắc rối. Chúng ta, mọi người đều có nhiều bổn phận với ngôi tu viện này. Chăm sóc cốc liêu và nhà vệ sinh là môt việc làm quan trọng. Những việc đơn giản khác cũng quan trọng không kém, chẳng hạn như lau quét giảng đường, rửa bát cho các vị sư lớn tuổi, giữ sạch sẽ cốc liêu và nhà vệ sinh. Những cái dơ dáy nhất -- chúng ta phải thừa nhận trước tiên là cơ thể chúng ta, chúng ta cũng phải giữ sạch sẽ. Đây không phải là việc làm khiếm nhã hay hèn mọn. Chúng ta phải hiểu biết một cách xa hơn, đây là việc làm tinh sạch nhất. Mọi công việc đều làm trọn vẹn, chánh niệm thì vừa đem lại lợi ích cho ta, vừa thể hiện việc hành thiền có kết quả tốt đẹp. Sống hòa thuận, hài hòa với người khác Một trong những mục đích luân lý và đạo đức là sống hòa thuận, hài hòa với những người bạn tinh thần. Mục đích của chúng ta là vậy chứ không phải chỉ nhằm thỏa mãn những ham muốn ích kỷ của mình. Hiểu biết vị thế và tôn trọng các bậc truởng thượng là một phần quan trọng của giới luật mà chúng ta hành trì. Muốn sống hài hòa với mọi người, chúng ta phải loại bỏ tính kiêu căng tự phụ, cho mình là quan trọng hơn cả, đồng thời cũng không dính mắc vào những lạc thú phù du. Nếu không vất bỏ yêu ghét, thực ra bạn chưa có được chút nỗ lực tinh tấn nào. Không vứt bỏ có nghĩa là đi tìm an bình nơi không bình an. Hãy tự khám phá chân lý này. Chẳng cần phải lệ thuộc vào một đạo sư bên ngoài -- thân và tâm không ngừng dạy ta. Hãy lắng nghe bài thuyết giảng của chúng để không còn hoài nghi nữa. Con người luôn luôn bị dính mắc vào ý nghĩ cho mình là lãnh tụ, người lãnh đạo. Cũng có kẻ dính mắc vào chuyện mình là một học trò, một môn đệ. Có ai tự hào rằng mình không phải là học trò khi mình có thể học hỏi ở tất cả mọi vật? Ai có thể dạy dỗ tất cả mọi điều mà không phải là thầy? Hãy lấy việc vái lạy làm phương cách bảo vệ thế giới quanh bạn. Hãy vái lạy một cách tôn kính và đầy tình thương. Khi trở về cốc liêu một mình, hãy để mọi thứ xuống và việc trước tiên là nằm dài ra lạy. Muốn đi ra ngoài để quét dọn, hãy nằm dài ra lạy trước. Lúc quét dọn xong trở vào, lại tiếp tục lạy nữa. Vào nhà vệ sinh, phải vái lạy trước. Và vái lạy trước khi trở về phòng. Hãy nhủ thầm, "Mọi lỗi lầm do thân, khẩu, ý tôi gây ra, cầu mong đuợc tha thứ." Luôn luôn giữ mình chánh niệm. Tu sĩ chúng ta là những kẻ đại may mắn. Chúng ta có chỗ ở, có bạn lành, có cư sĩ hỗ trợ và có Giáo Pháp. Chỉ còn việc thực hành nữa thôi. Muốn nói ít thì chỉ nói khi có ai hỏi, chỉ nói khi cần. Khi có ai hỏi, "Sư đi đâu?" chỉ cần trả lời, "Đi lấy gỗ mít." Nếu họ hỏi tiếp, "Lấy gỗ mít để làm gì?" chỉ trả lời, "Để nhuộm y." Thay vì trả lời dài dòng, "Tôi vừa từ Bangkok đến. Tôi nghe nói quanh đây có nhiều gỗ mít tốt. Vì vậy tôi đến kiếm một ít đem về nhuộm y. Tồi vừa mới may xong chiếc y tuần rồi. Còn anh thì sao, tuần này thế nào?" Kẻ xuất gia không nên nói nhiều và thích quần tụ. Điều này không có nghĩa là phải hoàn toàn tịnh khẩu. Nhưng nhà sư chỉ nói khi cần thiết và hữu ích. Trong tu viện của ngài Ajahn Chah, buổi chiều sau khi các nhà sư đã kéo nước, quét dọn, tắm rửa, không còn nghe một âm thanh nào ngoài tiếng dép đi kinh hành của các nhà sư. Thường thì mỗi tuần một lần, các nhà sư vào giảng đường để nghe chỉ dẫn hoặc học hỏi giáo lý. Xong xuôi, các vị lại trở về cốc liêu để ngồi thiền hay đi kinh hành. Các đường đi lại trong thiền viện đã khá mòn trước đây, nhưng ngày nay vì các nhà sư ít đi lại nên người ta chỉ thấy dấu chân những con chó trong làng. Càng ngày càng khó tìm ra những thiền viện tốt đẹp. Bởi thế một số nhà sư cho rằng Phật Giáo chỉ chú trọng vào việc nghiên cứu học hỏi giáo lý mà không thật sự thực hành. Khắp nơi người ta chỉ lo đốn cây khai rừng để tạo nên những ngôi chùa mới mà chẳng lưu tâm gì đến việc luyện tâm. Ngày xưa trái lại, các thiền sư chỉ sống với thiên nhiên mà không kiến tạo gì cả. Ngày nay các tín đồ xem việc xây dựng chùa chiền là hoạt động chính của tôn giáo và đó là lãnh vực mà nhiều người ưa thích. Như vậy cũng đúng. Nhưng chúng ta phải hiểu mục đích của việc xây dựng chùa chiền. Việc thực hành giáo pháp của nhà sư chiếm khoảng 80 đến 90% thì giờ, thời gian còn lại dành để giúp đỡ mọi người. Lại nữa, muốn dạy người khác, tự mình phải kiểm soát được mình; có kiểm soát được chính mình mới có đủ khả năng giúp đỡ người. Đừng mang gánh nặng của kẻ khác. Những buổi nghe Pháp là cơ hội để kiểm điểm lại tâm mình, kiểm điểm lại sự thực hành của mình. Điều quan yếu là phải thực hành những điều đã học hỏi. Bạn có thể tìm thấy những lời dạy dỗ này trong chính bản thân bạn không? Bạn đã thực hành đúng hay gặp một vài khuyết điểm? Bạn có tầm nhìn đúng không? Không ai có thể thay bạn làm những điều này. Bạn không thể diệt hoài nghi nhờ nghe người khác. Bạn có thể tạm thời xoa dịu mọi nghi nan của bạn, nhưng chuyện rồi đâu lại vào đấy, và nhiều câu hỏi lại phát sinh ra. Cách duy nhất để chấm dứt hoài nghi là chính bạn phải tự mình diệt chúng. Chúng ta phải dùng phương pháp độc cư trong rừng để thanh lọc tâm chứ không phải để tách rời với mọi người hay để đào thoát. Làm thế nào có thể đào thoát khỏi tâm chúng ta; làm thế nào có thể trốn khỏi vô thường, khổ và vô ngã, khi chúng nó có mặt khắp nơi? Chúng chẳng khác nào mùi hôi thối của phân. Dầu dính ít hay nhiều vẫn hôi như nhau. Nếu đời sống thế tục thuận lợi cho việc hành thiền, Đức Phật đâu có khuyến khích chúng ta đi tu làm gì. Thân và Tâm chúng ta là những băng đảng cướp của giết người luôn luôn lôi kéo chúng ta đến hầm lửa tham lam, sân hận, si mê. Đời sống thế tục có rất nhiều khó khăn trở ngại, ngũ dục luôn luôn lôi cuốn. Chúng mời gọi chúng ta đến căn nhà ái dục với một giọng nói ngọt ngào thân thiện, "Đến đây! Hãy đến đây!" Và khi bạn đến gần, cửa mở, súng nổ. Bạn có thể đối trị tham ái bằng cách hành phép đầu đà -- chỉ dùng các vật dụng cũ kỹ, không hấp dẫn, hoặc hành thiền quán sát tử thi. Xem mọi người, kể cả chính bạn, chỉ là những xác chết, những bộ xương. Hành thiền cách này thực ra không phải dễ, bởi vì khi chợt thấy hình ảnh một cô gái đẹp, bạn sẽ không còn thấy xác chết nữa. Niệm thân là cách tập luyện để đối kháng lại những quan niệm sai trái của mình. Chúng ta thường xem thân này tốt đẹp. Trong khi đó Đạo giải thoát bảo ta nhìn cơ thể này chỉ là những tập hợp của vô thường và bất toại nguyện. Khi chúng ta còn trẻ trung, khoẻ mạnh, chưa nhuốm bệnh ngặt nghèo, chúng ta dễ có những hành động và ý nghĩ sai lầm -- cái chết đối với chúng ta thật xa vời, chẳng phải sợ hãi gì cả. Những người không hành thiền thì mãi đến lúc mang bệnh nặng hay tuổi già đến, họ mới thay đổi quan niệm. Tại sao phải đợi đến lúc ấy? Hãy làm như người đã chết, mặc dầu lòng tham ái của bạn không bao giờ chết; đúng vậy, nhưng xem chúng như đã chết. Đôi khi cần phải đi đến một thái cực, chẳng hạn sống gần với thú dữ, thấy nguy hiểm đe doạ tánh mạng mình, bạn không còn thì giờ để nghĩ đến tình dục nữa. Bạn cũng có thể bớt ăn hay nhịn ăn để giảm sự kích thích. Một số nhà sư sống trong nghĩa địa, lấy tử thi làm đề mục hành thiền. Đây là đề mục có hiệu quả chế ngự tình dục. Lúc còn trẻ tôi thích sống với những người già, hỏi họ thử xem cái già đến với họ như thế nào? Khi nhìn họ, tôi nhận thức được rằng chúng ta ai cũng phải đi con đường này. Tâm luôn luôn nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt; không còn chút quyến luyến hay kỳ vọng gì vào cuộc đời này sẽ khiến chúng ta cảm thấy hoan hỉ và định tâm. Khi thấy sự vật như nó đang hiện hữu, nghĩa là thấy sự vật theo chân tướng của nó, ta sẽ không bị nó ràng buộc. Sau đó, khi đã có tâm định kiên cố, chúng ta sẽ không còn gặp khó khăn nữa. Chúng ta còn bị ái dục lôi kéo vì thiền tâm chưa kiên cố. Khi trở thành những nhà sư sống trong rừng, chúng ta không còn để cho phiền não tự do hòanh hành nữa, vì chúng ta đã nếm mùi những cú đá khá đau của chúng. Chỉ có kiên nhẫn và chịu đựng mới là phương thuốc thích hợp. Thực vậy, trong lúc hành thiền, chẳng có gì cả ngoài sức chịu đựng. Thế mà nhờ sự chịu đựng, tất cả đều sẽ thay đổi. Có nhiều người cho rằng chúng ta điên khi thấy chúng ta ngồi trong rừng bất động như những tượng đá. Nhưng họ đã sống ra sao? Họ cười, họ khóc, họ dính mắc vào sự vui buồn. Có khi họ giết nhau hay tự sát vì tham lam sân hận. Vậy thì ai điên đây? Hãy luôn luôn nhớ kỹ trong tâm: Tại sao ta xuất gia? Người nào đến hành thiền như chúng ta mà không hưởng được hương vị giải thoát thì đã phí thì giờ vô ích. Những cư sĩ, với gia đình, nghề nghiệp, trách nhiệm, mà còn nếm được hương vị giải thoát, huống hồ một người xuất gia. Một tu sĩ nếu chịu hành thiền chắc chắn sẽ thành công. Hoàn cảnh có thể thay đổi, nhưng tâm vẫn thế Người ta thường nghĩ rằng từ bỏ hết đời sống thế tục, mặc y, mang bát, làm một vị sơn tăng là vất bỏ lại sau lưng tất cả những gì thuộc tư hữu của mình. Không còn làm chủ xe cộ, máy móc, sách vở, áo quần, nhà sư hoàn toàn tự do. Nhưng tâm luyến ái, như một cái bánh trớn, không thể đứng lại ngay mà phải dừng lại từ từ. Bởi thế, một số nhà sư Tây phương vừa mới vất bỏ của cải trần thế đã sớm dính mắc vào y, bát. Họ nhuộm y thật đúng màu, xoay sở đủ cách để làm chủ một chiếc bát mới, nhẹ, làm bằng sắt không gỉ. Bận tâm, lo săn sóc hay dính mắc vào vài ba vật sở hữu có thể làm mất nhiều thì giờ, trong khi đó công việc của nhà sư là chỉ hành thiền mà thôi. Một vài nhà sư Tây phương đã từng du lịch nhiều nơi trên thế giới trước khi đi tu. Họ đã tự do ăn mặc và sống theo sở thích trước đây; chẳng bao lâu họ sẽ cảm thấy đời sống an phận, khuất phục trong thiền viện rất tù túng, áp chế và khó khăn. Râu tóc cạo như nhau, y áo cùng kiểu, cách vái chào các sư cao hạ, cách ôm bình bát,v. v., đều cùng một lối giống nhau cả. Dù cho có chủ tâm tốt, người Tây phương cũng khó có thể cảm thấy thoải mái trong lối sống khuôn mẫu, thu thúc này. Một vị sư đặc biệt trước đây không những là khách du lịch thường xuyên mà còn tự xem mình là một tín đồ của "đợt sóng mới," đội những chiếc nón thêu hoa đủ màu, trên gắn những cái chuông nhỏ, tóc dài để bím, v. v. Sau một vài tuần sống thúc bó trong qui củ thiền viện, một đêm nọ nhà sư thức giấc vào lúc nửa đêm vì một cơn ác mộng. Trong mộng nhà sư thấy mình mặc bộ y nhuộm đủ màu xanh đỏ; chiếc bát cũng được vẽ hoa lá và những đường ngoằn ngoèo theo lối hoa văn Tây Tạng. Ajahn Chah cười khi nghe thuật chuyện sáng hôm sau, và ngài hỏi thăm nhà sư về sự tự do ở Mỹ. Phải chăng tự do thể hiện qua kiểu để tóc hay lối ăn mặc? Có lẽ sau đó Ajahn Chah nhắc nhở nhà sư và đưa nhà sư trở về với việc hành thiền, đó là ý nghĩa sâu xa của tự do. Việc làm chính của nhà sư là khám phá ra rằng: tự do vượt ra khỏi mọi hoàn cảnh và thời gian. Người nào gặt hái được kinh nghiệm về sự tham luyến trong khi khoác áo nhà tu và trong khi sống đơn giản, người ấy đã học được một bài học sáng ngời quí giá, hơn hẳn tất cả những bài học từ trước. Tư hữu và tham luyến hoàn toàn tách rời khỏi mọi hoàn cảnh bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ trong tim và thể hiện trong mọi hoàn cảnh. Chỉ với một vật nhỏ bé, tư hữu và tham luyến cũng khởi dậy được. Cho đến khi nào chúng ta hiểu và học được bài học sâu xa về sự dứt bỏ, lúc bấy giờ những cấu hợp bên ngoài chỉ là đấu trường khác, nơi đấy những tập nhiễm tham ái đóng vai tuồng của chúng mà chẳng liên hệ gì đến chúng ta cả. Ajahn Chah biết rõ sức mạnh của đời sống an cư trong rừng. Đấy là một sức mạnh lớn lao và sáng chói, rất hữu hiệu để đối trị những phiền toái trầm trọng mọc gốc rễ từ trong tâm trí chúng ta. Ưu thế của Ngài là dùng giới luật nghiêm khắc giúp các nhà sư trực tiếp đương đầu với những vấn đề của chính họ, bao gồm trong tham lam, phán đoán, sân hận và si mê. Những lời dạy của Ajahn Chah thường nhằm mục đính đưa chư tăng trở về đối diện với chính tâm mình, nguồn gốc và cội rễ của mọi phiền toái trên cõi đời này. Nhiều người đến đây để xuất gia. Nhưng sau khi trở thành nhà sư, họ đối diện với chính mình và cảm thấy rằng chẳng an lạc chút nào. Thế rồi họ nghĩ đến việc hoàn tục, chạy trốn. Nhưng đi tìm an lạc ở đâu bây giờ? Biết được cái gì tốt, cái gì xấu mới là điều quan trọng, dù đi nhiều nơi hay ở một chỗ cũng thế thôi. Bạn không thể tìm được an lạc trên đỉnh nuí cao vời hay trong hang động sâu thẳm. Dầu có thể tới tận nơi Đức Phật thành đạo nhưng không phải nhờ thế mà bạn có thể đến gần chân lý hơn. Điều đương nhiên đến với bạn trước tiên là hoài nghi: Tại sao chúng ta phải tụng kinh? Tại sao chúng ta ngủ ít thế? Tại sao phải nhắm mắt lúc ngồi thiền? Những câu hỏi tương tự như vậy sẽ nảy sinh trong tâm bạn khi bạn bắt đầu hành thiền. Chúng ta phải thấy tất cả mọi nguyên nhân của đau khổ -- đó là Chân Pháp, Tứ Diệu Đế, chứ chẳng phải một phương pháp luyện tâm đặc biệt nào. Chúng ta phải quan sát cái gì đang xảy ra. Nếu quan sát sự vật chúng ta sẽ thấy chúng đều là vô thường và trống rỗng, từ đó một ít trí tuệ sẽ nảy sinh. Khi chưa thật sự hiểu thực tại, chưa thấy rõ thực tại, chúng ta chưa hết hoài nghi và sự chán nản sẽ trở lại với chúng ta nhiều lần. Đó không phải là dấu hiệu xấu. Đó là một phần của những gì mà chúng ta phải đối đầu; đó là những sở hữu của chính tâm ta, đó chính là Tâm và Trí của ta. Ngài Ajahn Chah thường tỏ ra dễ dãi và cảm thông với những đệ tử xuất gia Tây phương thích đến rồi đi. Theo truyền thống, một thầy tỳ khưu mới tu phải ở với vị thầy đầu tiên ít nhất năm hạ rồi mới được ra đi làm một du tăng khất sĩ. Ajahn Chah thường nhắn nhủ đệ tử phải giữ gìn giới luật trong sạch. Giới luật là phần tối thiết yếu trong việc tu trì của một nhà sư. Phải nghiêm trì giới luật, ép mình trong khuôn khổ kỷ luật của thiền viện và của tăng đoàn. Nhưng một số nhà sư Tây phương, giống như trẻ được nuông chiều, đã được Ajahn Chah cho phép ra đi trước thời hạn để đến học với những vị thầy khác. Thông thường một vị sư ra đi là chuyện đương nhiên, chẳng có gì phải luyến lưu, nhung nhớ hay gây chút xáo trộn nào trong thiền viện. Đời sống trong giáo pháp trực tiếp, đầy đủ và trọn vẹn. Mỗi lần ngồi ở đâu Ajahn Chah đều nói, "Chẳng có ai đến và chẳng có ai đi." Sau một năm rưỡi tu tập tại chùa Wat Pah Pong, một nhà sư Mỹ xin phép đến tu học với các thầy người Thái và Miến Điện khác. Một hai năm sau, nhà sư Mỹ trở về với nhiều mẩu chuyện về cuộc hành trình của mình gồm nhiều tháng hành thiền tích cực và một số kinh nghiệm đáng ghi nhớ. Sau buổi tụng kinh lễ Phật chấm dứt, nhà sư Mỹ được đối xử bình thường như chẳng hề có chuyện ra đi. Sau buổi thảo luận Phật Pháp và hoàn tất mọi công việc thường nhật với các nhà sư và khách đến viếng thăm, Ajahn Chah hỏi nhà sư Mỹ xem thử nhà sư có tìm thấy giáo pháp gì mới lạ và hay ho không? -- Không, mặc dù tôi đã học được nhiều điều mới trong khi hành thiền, nhưng thật ra, tất cả những điều đó đều tìm thấy ở Wat Pah Pong này. Giáo pháp luôn luôn ở ngay đây để mọi người thấy và thực hành. Ajahn Chah cười nói: -- A! Đúng vậy. Tôi đã từng nói với sư điều này trước khi sư đi, nhưng sư không hiểu đó thôi. Nhà sư Mỹ sau đó đến cốc của Ajahn Sumedho, vị học trò đầu đàn người Tây phương của Ajahn Chah, và kể lại tất cả hành trình của mình, những điều hiểu biết mới và những thành quả lớn lao trong việc hành thiền. Sumedho yên lặng lắng nghe và chuẩn bị bình trà buổi chiều được pha bằng một vài loại cây rừng. Sau khi câu chuyện chấm dứt, Sumedho mỉm cười nói, "Vâng, thật kỳ diệu. Hãy để cho chúng trôi qua." Cứ thế, những người Tây phương tiếp tục đến rồi đi, tất cả đều tự mình học những bài học này. Đôi lúc, trước khi họ lên đường, Ajahn Chah chúc họ đi thành công, nhưng thường thì nói vài câu trêu chọc họ. Một nhà sư người Anh băn khoăn trong việc tìm kiếm một cuộc sống hoàn hảo, một vị thầy hoàn hảo, đến rồi đi, xuất gia rồi hoàn tục nhiều lần. Thấy thế, Ajahn Chah quở trách, "Nhà sư này đang tìm kiếm gì đây?" Ajahn Chah tuyên bố với toàn thể tăng chúng, "Con rùa có râu không? Quí vị nghĩ xem ông ta phải đi bao xa mới tìm thấy nó?" Tệ hơn nữa, một vị sư Tây phương đến xin phép Ajahn Chah để đi, vì nhà sư thấy rằng việc thực tập với đời sống bó buộc của tu viện quá khó khăn, thấy quanh mình thật nhiều tệ hại, "Một số sư nói chuyện nhiều quá! Tại sao chúng tôi phải tụng kinh mới được chứ? Tôi cần nhiều thì giờ ngồi thiền một mình. Những vị sư cao hạ hơn, và ngay cả thầy nữa, chẳng chỉ vẽ gì cho người mới cả." Nhà sư nói trong nỗi thất vọng, "Ngay cả thầy cũng chẳng có vẻ gì là người giác ngộ cả. Thầy luôn luôn thay đổi. Lúc thì thật khó khăn, lúc thì như bất cần. Làm sao tôi biết thầy đã đắc đạo chưa?" Ajahn Chah cười cởi mở khi nghe nhà sư người Anh nói thế. Vừa vui đùa, vừa chọc tức nhà sư trẻ, Ajahn Chah nói: -- Cái hay là ở chỗ tôi không tỏ ra đã đắc đạo đối với sư. Bởi vì nếu như tôi giống khuôn mẫu người giác ngộ của sư, người giác ngộ lý tưởng phải làm những hành động như sư nghĩ thì sư vẫn dính mắc mãi vào việc tìm kiếm ông Phật ở bên ngoài. Ông Phật không ở ngoài, Phật ở ngay trong chính tâm của sư." Nhà sư trẻ cúi đầu lạy Ajahn Chah, rồi trở về cốc để tìm ông Phật thật. Hãy nương tựa vào chính mình Ngồi xếp bằng trên nền đá cứng là chuyện tự nhiên và dễ dàng đối với những người sinh trưởng trong hoàn cảnh thiếu tiện nghi vật chất. Nhưng đó là việc hết sức khó khăn đối với một sa di trẻ tuổi Tây phương vừa mới đến thiền viện, một vị sa di còn vụng về và kém uyển chuyển. Không có gì khổ sở, khó chịu cho bằng phải ngồi trên sàn nhà cứng ngắc và lạnh lẽo. Vị sa di tìm ra được một cách thích nghi để làm giảm bớt sự căng thẳng này. Đó là mỗi buổi sáng sa di vào thiền đường thật sớm, lựa một chỗ ngồi gần với cột nhà, và khi mọi người đều nhắm mắt hành thiền thì sa di có thể nhẹ nhàng tựa lưng vào cột đá hành thiền một cách thoải mái theo kiểu Tây phương. Sau một tuần lễ thực tập, vào một buổi tối, Ajahn Chah rung chuông báo hiệu giờ ngồi thiền chấm dứt và bắt đầu giảng pháp. Nhìn thẳng vào nhà sư mới, Ajahn Chah nói: - Hôm nay tôi sẽ nói về đề tài: "Khi thực hành giáo pháp ta nên tự hỗ trợ cho mình, tự nương tựa nơi chính mình, đừng nương tựa vào nơi nào khác bên ngoài mình." Mọi người trong thiền đường đều cười. Riêng chú sa di Tây phương, hơi bối rối một chút, ngồi thẳng thắn khác thường ngày, từ lúc bắt đầu buổi giảng cho đến khi bài pháp chấm dứt. Từ đấy trở đi, với quyết tâm mạnh mẽ, chú sa di đã học được cách ngồi thẳng lưng trên mọi sàn nhà, dưới bất kỳ hoàn cảnh hay điều kiện nào. Hôm nay là lễ Makkha Puja, ngày rằm tháng giêng. Đây là một ngày quan trọng trong Phật giáo, kỷ niệm ngày 1250 vị A la hán, những vị học trò giác ngộ của Đức Phật, hội họp. Trong cuộc họp mặt đó, Đức Phật đã dạy chư tăng đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp, đem lại sự tốt đẹp, sự hạnh phúc và giác ngộ cho chúng sanh. Trong dịp lễ này, Ajahn Cha và hàng trăm đệ tử của Ngài đã thức trọn đêm để hành thiền với thiện nam tín nữ. Cả ngàn người tham dự ngồi kín chánh điện rộng lớn. Họ ngồi một giờ đồng hồ, sau đó Ajahn Chah hay một trong những học trò lớn của Ngài sẽ thuyết pháp. Liên tục suốt đêm, cứ một giờ ngồi thiền lại một giờ thuyết pháp. Một trong những vị học trò lớn người Tây phương của Ngài Ajahn Chah ngồi chung với những vị sư mới. Họ cảm thấy phấn khởi, thích thú lẫn khó khăn khi trải qua một đêm thực tập như vầy. Vào khoảng giữa đêm, sau khi dứt một giờ ngồi thiền, Ajahn Chah tuyên bố cho mọi người biết để đón nghe một nhà sư Tây phương thuyết pháp bằng tiếng Lào. Cả nhà sư đó và thiện tín hiện diện đều lấy làm ngạc nhiên trước sự đột ngột đó. Nhưng không còn dịp chuẩn bị hay băn khoăn, nhà sư phải cố gắng ngồi trước mặt mọi người, kể lại lý do tại sao thầy xuất gia và những hiểu biết mới mẻ về Phật pháp mà thầy đã gặt hái được qua thực hành. Sau lần nói chuyện này, thầy không còn bối rối khi phải thuyết pháp trước đám đông bằng ngôn ngữ mà mình mới lõm bõm. Sau này Ajahn Chah giải thích rằng lúc thuyết pháp, hãy để cho pháp trôi chảy một cách tự nhiên từ con tim và từ kinh nghiệm nội tại của mình mà không cần sửa soạn trước, "Cứ ngồi, nhắm mắt lại và để Phật pháp tự thuyết lấy." Một dịp khác, Ajahn Chah bảo Ajahn Sumedho, vị học trò Tây phương kỳ cựu của Ngài thuyết pháp. Sumedho thuyết trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Ajahn Chah bảo, "Thuyết thêm nửa tiếng nữa." Sau nửa tiếng, Ajahn Chah lại bảo, "Thuyết thêm nữa." Sumedho tiếp tục và bắt đầu chán. Nhiều thiện tín bắt đầu ngủ gục. Ajahn Chah khuyến khích, bắt thêm nữa. Sau khi chiến đấu suốt mấy tiếng đồng hồ, Sumedho đã hoàn toàn làm mọi người chán nản. Cũng từ đó về sau, Sumedho chẳng bao giờ lo sợ khi phải thuyết pháp trước đám đông, không còn sợ người ta phê bình, đánh giá mình trong khi thuyết pháp nữa. Ajahn Chah hỏi một nhà sư sắp từ giã tu viện để về xứ rằng thầy có dự định dạy dỗ gì khi về Âu Châu không. Nhà sư trả lời rằng thầy không có dự tính dạy Phật pháp, tuy nhiên nếu có ai hỏi, thầy sẽ cố gắng giải thích cho họ biết cách hành thiền. Ajahn Chah nghe nói thế bèn nói, "Tốt lắm. Dạy Phật Pháp cho người muốn học thì còn gì tốt bằng?" Ajahn Chah lại nói thêm, "Và khi thầy giảng dạy Phật giáo, tại sao không gọi đó là Thiên Chúa giáo. Ở Tây phương mà thầy nói đến Phật giáo thì họ không hiểu gì cả. Tôi nói về Thượng Đế với người Thiên Chúa, mặc dù tôi chưa đọc sách của họ. Tôi tìm thấy Thượng Đế trong tâm. Thầy có nghĩ rằng Thượng Đế là ông già Nô-en hàng năm thường đem quà đến cho trẻ em không?" Thượng Đế là giáo pháp, là chân lý. Ai ý thức được điều này thì sẽ hiểu biết tất cả mọi sự. Và Thượng Đế chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ có vậy thôi. Những điều chúng ta thực sự cần dạy là làm thế nào để thoát khỏi đau khổ, làm thế nào để có được tình thương, có trí tuệ và tràn đầy từ ái. Những lời dạy về tình thương và trí tuệ là Phật pháp. Bất kỳ ở nơi đâu và dùng bất kỳ ngôn ngữ gì cũng có thể dạy về tình thương và trí tuệ. Hãy gọi đó là Thiên Chúa giáo. Dạy như thế giúp nhiều người hiểu hơn. Ajahn Chah đã dạy những điều sau đây cho một vị có ý muốn dạy Giáo pháp: "Đừng làm cho họ ngại ngùng, lo sợ khi gặp thầy. Hãy vững vàng và trực tiếp. Hãy thành thật trước những khuyết điểm của mình. Hãy thừa nhận khả năng giới hạn của thầy. Hãy làm việc với tình thương và lòng quảng đại. Khi gặp người mà thầy không đủ khả năng hay nhân duyên để giúp, hãy phát triển tâm xả. Đôi khi việc dạy dỗ rất khó khăn, phải kiên nhẫn. Thầy dạy Đạo là cái thùng rác để mọi người vất vào đó mọi nỗi bực dọc và mọi vấn đề rắc rối. Thầy càng dạy nhiều người, thùng rác của thầy càng đầy. Nhưng đừng lo lắng. Dạy dỗ người khác là phương cách tuyệt diệu để thực hành Phật pháp. Phật pháp sẽ hỗ trợ cho kẻ nào thành thật áp dụng Phật pháp vào trong đời sống của họ. Người nào dạy dỗ kẻ khác thì Đức Kiên Nhẫn và Tri Hiểu Biết sẽ phát triển." Ajahn Chah khuyến khích học trò của Ngài hãy chia xẻ với người khác những gì mình đã học hỏi được. "Khi thầy học được chân lý, thầy có thể giúp người khác, đôi khi bằng lời dạy của thầy, nhưng phần lớn thì bằng lối sống của thầy. Ai muốn hiểu tôi thì phải sống với tôi. Nếu thầy sống ở đây lâu thầy sẽ biết. Tôi đã làm một vị du tăng sống trong rừng nhiều năm. Tôi không dạy. Tôi thực hành và lắng nghe lời thầy tôi dạy. Và đây là lời nhắn nhủ quan trọng: Khi nghe hãy thực sự nghe. Tôi không biết phải nói gì nữa." Một khu rừng lớn gần làng mạc được dâng cho Ngài Ajahn Chah để làm tu viện. Một vị thiện nam giàu có nghe thế bèn hoan hỉ dâng cúng tài chánh để xây dựng một giảng đường và chùa lớn trên đỉnh đồi cao của khu rừng. Một số thiện tín khác hội họp cùng nhau vẽ nên một pháp đường và những kiến trúc phụ thuộc. Cốc của chư tăng được cất trong những hang động quanh nuí. Một con đường xuyên qua khu rừng rậm được khai phá. Phần kiến trúc phải làm trước tiên là pháp đường: đổ móng, đúc những cây cột lớn, làm nền để thiết trí một tượng Phật khổng lồ. Khi công trình đang tiến hành, nhiều kiến trúc phụ được bổ sung. Thí chủ ủng hộ và nhóm kiến trúc sư bàn cãi mãi vì ý kiến bất đồng. Mái phải làm thế nào cho hợp? Có nên sửa đổi đồ án lại theo cách nào cho sáng suả hơn? Mọi người đều có ý kiến hay, nhưng ý kiến nào cũng tốn tiền cả. Cuối cùng mọi người đem ra bàn thảo trong một buổi họp nhiều giờ với ngài Ajahn Chah. Tất cả mọi ý kiến đều được đem ra bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng vị thiện nam thí chủ xin ngài Ajahn Chah cho biết ý kiến. Ajahn Chah cười và trả lời đơn giản: -- Khi quí vị làm tốt thì có kết quả tốt. Chẳng bao lâu pháp đường lộng lẫy hoàn thành. Hầu như suốt ngày Ajahn Chah phải bận rộn tiếp khách -- sinh viên, nông dân, chính trị gia, tướng tá, khách hành hương, thiện nam tín nữ. Họ đến xin ngài chúc phúc, để thỉnh ý, hỏi đạo, vấn an, bắt bí, thử thách, phân trần, chỉ trích, khiếu nại...; họ đem đến hàng ngàn vấn đề để giải quyết. Ajahn Chah không ngừng dạy dỗ họ. Có người hỏi ngài về chuyện này, Ajahn Chah trả lời: -- Tôi đã học hỏi được nhiều giáo pháp khi tiếp xúc với họ, nhiều hơn tất cả các cách hành thiền khác. Một số sinh viên hỏi tại sao Ajahn Chah rất ít khi nói về Niết Bàn mà chỉ dạy về Trí Tuệ trong đời sống thường nhật. Nhiều thiền sư khác thường giảng dạy về sự chứng ngộ và nguồn an lạc vô biên của Niết Bàn. Ajahn Chah trả lời: -- Một số người thưởng thức một bữa cơm ngon và sau đó kể lại sự tuyệt vời của bữa cơm cho bất kỳ ai mà họ gặp. Một số khác cũng ăn và thưởng thức một bữa cơm tương tự, nhưng họ cảm thấy không cần phải đi kể cho mọi người nghe về bữa cơm mà mình đã ăn rồi. Xem tiếp: [Quyển 1][Quyển 3][Giới thiệu] |
[Main Index] |
Last updated: 21-12-1999 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |