BuddhaSasana
Home Page |
Vietnamese,
with Unicode Times font |
Tìm hiểu
Kinh SALEYYAKA
(Trung Bộ, Kinh số 41)
Nguyên
Bình
TRÍCH KINH (1): Như
vầy tôi nghe. Một
thời Thế Tôn đang du hành trong nước Kosala (Kiều tất la) cùng với Ðại chúng
Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Sala. Các
gia chủ Bà-la-môn ở Sala nghe rằng: "Người ta nói Sa-môn Gotama, là
Thích Tử, xuất gia từ gia tộc Sakya, đang du hành trong nước Kosala với Ðại
chúng Tỷ-kheo, và đã đến Sa-la. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng
với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
các
loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài
còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn
nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay nếu được yết kiến một
A-la-hán như vậy!" SUY TƯ: 2. Ðầy đủ 10 danh hiệu này là Ðức Phật. 3. Các vị Ðôc Giác Phật sau khi tự chứng ngộ không
thuyết giảng điều đã tự chứng ngộ. 4. Ðức Phật Thích Ca là vị chuyển pháp luân nên đã
giảng rộng rãi giáo pháp cho những chúng sanh hữu duyên. 5. Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghiã là giáo
pháp không lời nào là không giúp người thực hành tăng thiện pháp, giáo pháp
không có phần nào mâu thuẫn với phần nào về vấn đề này. 6. Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ trong sạch là chỉ cho Thánh Ðạo Tám Ngành của bậc
Thánh. Tại gia khó lòng giữ gìn Thánh Ðạo Tám Ngành hoàn toàn trắng bạch như
vỏ ốc được. Vì vậy, nếu không đoạn trừ hết kiết sử tại gia, không thể chứng
đắc đạo qủa Alahán diệt tận khổ đau do sanh tử luân hồi gây nên. 7. Các gia chủ ở Sala, theo truyền thống rất tôn trọng
vị nào được họ coi là Alahán. TRÍCH KINH (2): Rồi
các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; SUY TƯ: TRÍCH KINH (3): Một
số nói lên những lời chào đón, thân hữu xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên; một số chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên
tên họ của mình trước mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im lặng
rồi ngồi xuống một bên. SUY TƯ: Tuy vậy Thế Tôn đối với tất cả đều xem như bình đẳng và
Ngài chỉ an nhiên quan sát họ với từ tâm giải thoát. TRÍCH KINH (4): Sau
khi ngồi xuống một bên, các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn: --
Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu tình sau khi thân
hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả
Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên
giới, đời này? SUY TƯ: TRÍCH KINH (5): --
Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số
loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng
chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp,
hành đúng chánh đạo, này các gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số
loài hữu tình sau
khi thân hoại mạng chung được sanh thiện thú, Thiên giới, đời này. --
Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn
tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết
pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama
thuyết một cách vắn tắt! --
Như vậy, này các Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng. --
Thưa vâng, Tôn giả. Các
vị gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la vâng đáp Thế Tôn. SUY TƯ: 2. Ðức Phật luôn luôn nhắc nhở các vị muốn nghe pháp
một điều: lắng nghe và khéo tác ý khi nghe pháp. Cư sĩ chúng ta nên
ghi nhớ để thực hiện bất cứ khi nào nghe pháp. TRÍCH KINH (6): --
Này các gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo, có bốn loại
khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo.
Này
các gia chủ, thế nào là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở
đây, này các Gia chủ, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên
sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các
loài hữu tình. Người
này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại
thôn làng hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy
trộm tài vật ấy. Người
ấy sống tà hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che
chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà
con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ
nhân được trang sức bằng
vòng hoa. Như
vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo. SUY TƯ: Việc ân ái giữa vợ chồng hợp pháp không được liệt vào
phi pháp, phi chánh đạo đối với cư sĩ. Tuy thế để đi đến giải thoát khỏi tái
sanh thì việc này là một chướng đạo pháp. 3. Về các hành, Ðức Phật minh định rõ đối với cư sĩ có
3 thân hành phi pháp, phi chánh đạo, 4 khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, 3 ý
hành phi pháp, phi chánh đạo. Tổng cộng là 10 hành động phi pháp, phi chánh
đạo. Các hành động phi pháp, phi chánh đạo thâu tóm lại chỉ
nằm trong 10 hành động này. TRÍCH KINH (7): Này
các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở
đây, này các Gia chủ, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng
hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương
tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói
những gì ngươi biết"; dầu cho người ấy không biết, người ấy nói: "Tôi
biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy nói: "Tôi không biết";
hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy nói: "Tôi thấy"; hay dầu
cho người ấy thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy". Như vậy, lời nói
của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì
nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Và
người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia, nói
để
sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người
này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ
hòa hợp hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa
thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến
phá hoại. Và
người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì
thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ,
khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy
nói những lời như vậy. Và
người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói
những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói
những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý,
không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này các Gia chủ, có
bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo. SUY TƯ: 2. Ðịnh
nghĩa của từng
loại tà ngữ nêu trên đã được trình bày cặn kẽ trong đoạn kinh này. Người cư
sĩ cần học thuộc lòng để suy gẫm mà tránh né trừ diệt. 3. Không phải chỉ lời chửi rủa mới là lời thô ác. Dù
chỉ nói nhẹ nhàng mà làm thương tổn người khác vẫn nên tránh xử dụng. TRÍCH KINH (8): Và
này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở
đây, này các Gia chủ, có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ
rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của
mình!" Lại
có người có tâm sân, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những
loài hữu tình này
bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng
không còn tồn tại!" Lại
có người có tà kiến, có tưởng điên đảo như: "Không có bố thí, không có kết quả của bố thí, không có tế lễ, không có cúng
dường, các hành vi thiện ác, không có kết quả dị thục, không có đời này,
không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh,
trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh
thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời
sau". Như
vậy, này các Gia chủ, là ba ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Như
vậy do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số
loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. SUY TƯ: - Tham lam khiến suy nghĩ thèm muốn của người làm của
mình. 2. Những kiến chấp có một linh hồn khác thể xác, nằm
trong thể xác, không thể giải thích được cái linh hồn đó có mẹ, có cha hay
không. 3. Quả dị thục là quả do nhân đã gieo gặp duyên thay đổi khác dần đi (dị),
khi thuần thục thì kết thành quả (thục). TRÍCH KINH (9): Này
các Gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có bốn loại khẩu
hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này
các Gia chủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở
đây, này các Gia chủ, có người -từ
bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có
lòng từ, sống thương
xót đến hạnh
phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình; -từ
bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người
khác, hoặc tại
thôn làng, hoặc tại
rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy; -từ
bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ nhân có
mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che
chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến
những nữ nhân được trang sức bằng
vòng hoa. Như
vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo. SUY TƯ: Ở đây cần lưu ý rằng trong ý
nghĩa của chữ "không sát sanh"bao gồm cả việc tu
tập tàm quí và từ tâm; trong ý
nghĩa của chữ
"không tà dâm", hành dâm với người khác phái đều là tà dâm, ngoại
trừ trường hợp người đó là vợ hay chồng hợp pháp của mình. TRÍCH KINH (10): Và
này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở
đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập
hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ
hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này
người kia, hãy nói những gì
Ông biết", nếu
biết người ấy nói "Tôi biết"; nếu không biết, người ấy nói:
"Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không
thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy, lời nói
của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc
vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói
hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia
nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói
với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người ấy sống
hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng
những kẻ
hòa hợp, ưa thích
hòa hợp, vui thích
hòa hợp,
thích thú
hòa hợp, nói những
lời đưa đến
hòa hợp. Từ bỏ lời
nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác,
nói những lời nói nhu
hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp
lòng nhiều người, vui
lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù phiếm,
tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật,
nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng
được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có
ích lợi. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh
đạo. SUY TƯ: 1. Về phần lời nói vọng ngữ, trong đoạn kinh này chỉ đề
cập đến việc làm chứng gian và nêu rõ rằng việc không làm chứng gian là một
việc đúng pháp. Ðiều này có vẻ sai khác với giới nói láo như sau: "Từ
bỏ nói láo (vọng ngữ), tránh xa nói láo, chỉ nói những lới chân thật, y chỉ
trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại lời
hứa đối với đời". Tuy nhiên, nếu suy gẫm sâu xa thì ta thấy ý
nghĩa của giới nói láo bao trùm khẩu hành "không làm
chứng gian dối" ở đây. Cũng cần lưu ý là một người nói láo, do nói láo quen
miệng hoặc do bị gạn hỏi, sợ bị mất mặt, hay sợ bị thiệt hại quyền lợi, rất
dễ dàng trở thành người làm chứng gian dối. Vì vậy, để đề phòng tận gốc,
trong kinh Giáo Giới Rahula, Ðức Phật đã dạy "chớ có nói láo, dầu chỉ để
nói chơi". 2. Ðối với lời nói hai lưỡi, cần lưu ý là chẳng những
phải từ bỏ mà còn phải tu tập tâm "ưa thích hòa hợp, vui thích hòa
hợp, thích thú hòa hợp, tập nói những lời đưa đến hòa hợp". Do đó sự
chỉ trích, nếu không khéo xử dụng đúng pháp, rất là nguy hại vì đưa đến sự
chia rẽ một khi người bị chỉ trích hoặc người nghe chỉ trích chưa bỏ được
thân kiến. 3. Lời nói độc ác phải từ bỏ mà lời thô ngữ cũng cần
phải từ bỏ, bởi vì đối với lời nói nào "không nhu hoà, không đẹp tai,
không dễ thương, không đẹp lòng nhiều người, không vui lòng nhiều người"
thì đều cần phải tránh né, phải từ bỏ. Nhiều khi vì cố chấp, vì tà kiến rằng "nói khéo là
siểm nịnh hoặc man trá, chỉ cần thật tâm" nên không thể tu tập loại khẩu
hành từ hoà mà Ðức Phật chỉ ra ở đây. Do đó đã bỏ mất một phương tiện nhắc
nhớ tu tập tâm từ hoà. Lời nói thô ác, phũ phàng, dù tâm người nói ra thế nào
đi nữa, nghe vẫn
chói tai, vẫn làm đau
lòng
người nghe. Cổ
ngữ có câu: "Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời". Lời nói thô ác đâm thẳng vào tâm người nghe, cắm chặt
vào đó như mũi tên có ngạnh, thật khó mà rút ra cho được và cứ thế, sự đau
đớn âm
ỉ , dù có mòn dần
theo thời gian cũng khó đi đến đoạn tận được. Chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng: "Phàm con người đã sanh 4. Lời nói phù phiếm, tức là những lời nói vô bổ, không
đưa đến lợi ích gì cho người nói cũng như người nghe ngoại trừ sự thích thú
nhất thời làm gia tăng lòng dục nơi tâm. Ngược lại, lời nói: đúng thời, chân thật, có ý
nghiã, chánh pháp, giới luật, đáng được gìn giữ (thí dụ như một số danh
nhân tư tưởng) là những lời nói không phù phiếm. Nói nhảm nhí (nói đùa, nói giỡn chơi) nhiều khi khi đem
lại hậu quả không thể lường được, có thể rất tai hại nếu nói không
đúng chỗ, không đúng thời. Nghiệp tánh của người nữ khác người nam, vì thế số giới
của các vị tỉ kheo ni nhiều hơn các giới của các vị tỉ kheo gần cả trăm giới,
có thể vì người nữ hay
dễ duôi với các lỗi
nhỏ nhặt, hay buông thả theo ý thích của mình, không biết rằng cảm tính khi
còn vô minh là còn si ám, chỉ là mặt trái của ái dục, nên dễ bị hệ lụy vì
tình cảm, vốn chính là ái dục trá hình, khi vô minh chưa đoạn tận được. Cũng
vì tâm
dễ duôi, nhẹ dạ này,
người nữ thường hay "ba điều bốn chuyện" hết chuyện nhà ra chuyện
người. Vì thế đối với giới nói phù phiếm cần hết sức đề cao cảnh giác mới có
thể dẹp bỏ được tâm lang thang và phi như lý tác ý. Người nam thì lại hay rơi vào các câu chuyện "đại
sự quốc gia" không phải bổn phận của mình, nói lung tung, phiến diện mà
nhìn kỹ ra, cũng chẳng bổ ích gì cho cả người nói lẫn người nghe. TRÍCH KINH (11): Và
này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây,
này các Gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ
khác,
"không có" nghĩ rằng:
"Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!" Lại
có người không có tâm sân, không có khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ
rằng: "Mong rằng những
loài hữu tình này sống không thù hận, không
oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự
thân!" Người ấy có chánh kiến, không có tưởng điên đảo: "Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng
dường, các hành vi thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có
mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn chân
chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố
cho đời này và đời sau". Như vậy, này các Gia chủ, có ba loại ý hành
đúng pháp, đúng chánh đạo. Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh
đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số
loài hữu tình
sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này. SUY TƯ: a. Không tham dục muốn của người làm của mình. b. Không sân hận muốn người bị hại mà lại có tâm từ.
Có
chánh kiến, nhận thức đúng đắn về nhân quả luân hồi, có sự tin tưởng vững chắc
vào lý thuyết này và có sự tin tưởng rằng ngay trong thế gian này vẫn có
những bậc tu hành đắc đạo, giảng dạy về các sự thật vi diệu 2. Kết qủa của việc hành đúng pháp, đúng chánh đạo là
tái sanh vào cõi lành. Như vậy danh từ chánh đạo này có
nghĩa là đưa đến cõi lành, chưa phải đưa đến giải thoát sanh
tử luân hồi. Tuy nhiên ở cõi lành, chỉ ở cõi lành mới có thể gặp được chánh
pháp mà tu tập tiếp đến giải thoát tối hậu, nhập vào Niết bàn giới vô sanh
bất diệt. Danh hiệu Ðức Phật là Thiên Nhân Sư,
nghĩa là bậc
thầy loài trời
và loài người, cũng có
nghĩa là chánh pháp giác ngộ giải thoát được
truyền dạy ở cõi này, còn gọi là cõi lành. Các chúng sanh ở đọa xứ do qúa nặng nghiệp nên không
thể tu tập được ở các xứ đó, trừ khi nghiệp ác được đoạn tận, cảm thọ đọa xứ
tận trừ, tái sanh lên cõi lành do nhờ một nhân lành đã tạo ở qúa khứ xa xôi,
mới có thể tu hành chứng quả được. Vì thế, việc hành dâm giữa vợ chồng, tuy là chánh đạo,
nhưng nếu còn xảy ra, thì chưa thể đoạn tận sanh tử luân hồi được. TRÍCH KINH (12): Này
các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi,
mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia vương
tộc Sát-đế-lị!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lị. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị
hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này
các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi,
mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia
Bà-la-môn!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh vào đại phú gia Bà-la-môn. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp,
đúng chánh đạo. Này
các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi,
mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia gia
chủ!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
vào đại phú gia gia chủ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng
chánh đạo. Này
các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo mong ước: "Ôi,
mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh thân hữu với chư thiên
Tứ thiên vương... với chư thiên cõi trời Ba mươi ba... với chư thiên Dạ ma
với chư thiên Ðâu-suất-đà... với chư thiên
Hóa lạc... với chư thiên Tha hóa tự tại... với chư thiên Phạm chúng... với
chư thiên Quang thiên... với chư thiên Thiểu Quang thiên... với chư thiên Vô
lượng quang thiên... với chư thiên Quang âm thiên... với chư thiên Tịnh
thiên... với chư thiên Thiểu tịnh thiên... với chư thiên Vô lượng tịnh
thiên... với chư thiên Biến tịnh thiên... với chư thiên Quảng quả thiên...
với chư thiên Vô phiền thiên... với chư thiên Vô nhiệt thiên... với chư thiên
Thiện hiện thiên... với chư thiên Thiện kiến thiên... với chư thiên Sắc cứu
kính thiên... với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên... với chư thiên Thức
Vô biên xứ thiên... với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên... với chư thiên Phi
tưởng Phi phi tưởng xứ thiên"! Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân
hoại mạng chung được sanh thân hữu với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ
thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này
các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi,
mong rằng, với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng
đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải
thoát, tuệ giải
thoát vô lậu!" Sự
kiện này xảy ra, vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải
thoát , tuệ giải
thoát vô lậu. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành
đúng pháp, đúng chánh đạo. SUY TƯ: Qủa dị thục ở đây thật khó nghĩ bàn được, vì thế ta
không nên lý giải về nhân quả tương ứng trong đoạn kinh này. TRÍCH KINH (13): Khi
nghe nói vậy, các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn: --
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn
sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con
xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng, mong Tôn
giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng
con trọn đời quy ngưỡng! SUY TƯ: -ooOoo- |
Chân thành cám ơn anh Trương Văn Hiếu đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson,
11-2002)
[Trích giảng Trung Bộ][Trở về
trang Thư Mục]
updated:
10-03-2005