[Phụ
Bản 6]
Kinh Niệm Xứ
(Satipatthana Sutta)
[1]
Lời Mở Đầu
Kinh
Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan
trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành
thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và
trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
Danh từ Satipatthana gồm có hai phần: "sati" và
"patthana", hoặc "sati" và "upatthana".
Sati là sự chú niệm, sự hay biết hoặc sự chú tâm.
Patthana là sự thiết lập, nền tảng, căn bản, đề tài
hay sự chuyên chú. Như vậy, Satipatthana có nghĩa "Nền
Tảng của sự Chú Niệm" hay "Những Đề Mục Chánh
Yếu của sự Chú Niệm".
Satipatthana cũng có thể được hiểu là sự kết hợp
của hai phần: sati và upatthana. Upatthana là sự phát sanh, hay
sự áp đặt, gắn vào. Như vậy, Satipatthana có nghĩa là
"Áp Đặt tâm Chú Niệm Lên", hoặc sự "Phát
Sanh của tâm Niệm".
Một cách đơn giản, có thể hiểu Satipatthana là
"Nền Tảng của tâm Niệm", hay "những Đề
Mục Chánh Yếu để Áp Đặt tâm Niệm vào". Ta thường
gọi Satipatthana Sutta là Kinh Tứ Niệm Xứ, tức là bài kinh
đề cập đến bốn "xứ", hay bốn nơi chốn, bốn
điểm, hoặc bốn đề mục để ta đặt sự chú niệm vào.
Trong bài kinh này có bốn đề mục quán niệm (anupassana)
để thích ứng với những tâm tánh và những cá nhân khác
nhau.
I. Đầu tiên là Kayanupassana, Thân Quán Niệm Xứ,
hay Niệm Thân, nhằm gội bỏ ý niệm sai lầm về cái thường
được xem là sắc đẹp hay tánh cách đáng được ưa thích
của thân. Quán niệm về mục này giúp hành giả hiểu
biết chân chánh rằng không có một "người" làm
chuyện này hay chuyện kia, mà chỉ có "sự làm"
chuyện này hay chuyện kia; không có "người" hành động
mà chỉ có "hành động". Chừng đó hành giả nhận
thức rằng không có cái gì gọi là "Ta".
Pháp Niệm Thân biết bằng sự chú niệm vào hơi thở vào
và thở ra (anapanasati) nhằm đạt đến trạng thái tâm
nhất điểm (ekaggata, tâm gom vào một điểm). Tâm nhất điểm
đưa đến các tầng Thiền (Jhana) và cuối cùng đến Đạo
Quả A La Hán.
Thật khó mà kiểm soát được cái tâm vô hình, thành
phần tối quan trọng trong guồng máy phức tạp của con người.
Nó luôn luôn di động, không ngừng phóng nhảy đó đây.
Chuyên chú giữ tâm nhất điểm vào một đề mục riêng
biệt, dầu trong khoảnh khắc, cũng khó như đặt một hột
cải trên đầu mũi kim và giữ cho nó đừng rơi. Tuy là khó,
nhưng đây là một việc có thể làm được bằng cách thường
xuyên thực tập, bởi vì Tâm Nhất Điểm là một loại tâm
sở luôn luôn ngủ ngầm bên trong mọi người. Khi tâm nhất
điểm này nằm trong một loại tâm bất thiện (akusala citta)
thì nó là bất thiện. Khi nó phát hiện trong một loại tâm
thiện (kusala citta) thì nó là thiện. Tâm ở nhất điểm này
có thể được phát triển để trở thành một chi Thiền. Cũng
tâm nhất điểm này, nếu được trau giồi đúng mức, có
thể được nâng cao đến mức độ có thể trở thành
một, trong bảy yếu tố đưa đến giác ngộ (Bojjhanga,
Thất Giác Chi, hay Thất Bồ Đề Phần, hay Bảy Pháp Trợ Đạo),
một trong tám chi của Bát Chánh Đạo. Đó là lý do tại sao
Phật Giáo dạy rằng bên trong mỗi người đều có tiềm tàng
những mầm mống mà nếu vun quén đắp bồi đúng mức, có
thể làm cho mình trở nên toàn thiện, một bậc vĩ nhân.
Đã đắc được các tầng Thiền (Jhana) bằng cách vững
chắc trụ tâm vào một điểm, hành giả gia công tiến đến
Đạo Quả A La Hán. Hành giả xuất ra khỏi Thiền và chú tâm
"định" vào ba đặc tướng của đời sống: vô thường
(anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Sau khi đã tận lực
tinh tấn và thành đạt Quả A La Hán, hành giả đã hoàn toàn
thoát ra khỏi mọi hình thức ái dục (tanha) và vô minh
(avijja) và tuyệt nhiên không còn luyến ái hay bám níu vào
bất luận gì trong thế gian.
Phần đề cập đến những oai nghi - đi, đứng, nằm,
ngồi - cũng đưa đến tâm định và tâm tự hay biết mình.
Như thế, giữ tâm chú niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi
cũng đưa đến tình trạng thái hiểu biết thấu đáo và
tận tường rằng không có một "người" mà chỉ có
"những cử động" sanh khởi do nhân duyên tạo điều
kiện.
Đoạn kinh đề cập đến tánh cách ô trược của ba mươi
hai bộ phận trong cơ thể, bốn nguyên tố chánh yếu (Tứ
Đại) hợp thành cái gọi là thân, và cuối cùng, mười hình
thể của xác chết (Mười Đề Mục về Tử Thi) - tức là:
1. Tử thi sình (udhumataka), 2. Tử thi đã đổi màu sắc
(vinilaka), 3. Tử thi đang lở loét, chảy nước (vipubbaka), 4.
Tử thi bị đứt đoạn (vicchiddaka), 5. Tử thi bị đục khoét,
rời ra từng mảnh (vikkhayika), 6. Từng mảnh nhỏ của tử
thi văng tách rời ra (vikkhittaka), 7. Tử thi rã rời từng
mảnh (hatavikkhittaka), 8. Tử thi bị đẩm máu (lohitaka), 9.
Tử thi bị lằn, giòi loi nhoi đục khoét rã rời (pulavaka),
10. Tử thi chỉ còn bộ xương (atthika) - nhằm diệt trừ lòng
tham ái ích kỷ, bám níu vào cái thân tạm bợ phù du này.
II. Pháp thứ nhì, Thọ Quán Niệm Xứ, hay
Niệm Thọ, Vedananupassana, liên quan đến bất cứ loại cảm
giác (thọ) nào - vật chất hay tinh thần - có thể phát sanh
đến ta. Pháp này nhằm giúp hành giả phá tan ý niệm lầm
lạc (sukhavipallasa), xem hạnh phúc ảo huyền của thế gian là
chính thực và vững bền.
Trong cuộc sống, ta chứng nghiệm những cảm giác vui sướng,
khổ đau và không vui không khổ. Tất cả những cảm giác
ấy đều tạm bợ nhất thời. Do đó không thể có hạnh phúc
thật sự vững bền trong những cảm giác ấy. Niết Bàn là
hạnh phúc tối thượng. Đó là hạnh phúc giải thoát,
hạnh phúc đã vượt thoát ra khỏi mọi khổ đau phiền
lụy.
III. Pháp thứ ba, Tâm Quán Niệm Xứ, hay Niệm
Tâm, Cittanupassana, liên quan đến các trạng thái tâm khác
nhau. Pháp này có khuynh hướng loại trừ ý niệm sai lạc,
xem những gì tạm bợ vô thường là trường tồn vĩnh cửu
(niccavipallasa).
Tâm hay thức, phát sanh và hoại diệt trong từng khoảnh
khắc, mau như chớp nhoáng, còn nhanh chóng hơn sự đổi thay
của những đơn vị căn bản vật chất. Trong từng khoảnh
khắc, chúng ta có những chập tư tưởng thiện hoặc bất
thiện.
Trong phần này của bài kinh, các loại tâm được kể ra
theo từng cặp.
IV. Pháp thứ tư là Pháp Quán Niệm Xứ, hay
Niệm Pháp, Dhammanupassana. Phạn ngữ "dhamma", được
phiên dịch ở đây là "pháp", là một danh từ rất
khó chuyển ngữ một cách chính xác bởi vì theo từng đoạn
văn, danh từ này hàm xúc ý nghĩa khác nhau.
Ở đây, Dhamma (Pháp) bao gồm năm pháp Triền Cái
(Nivarana, năm chướng ngại tinh thần), Thất Giác Chi
(Bojjhanga, tức bảy yếu tố đưa hành giả đến giác
ngộ), Ngũ Uẩn Thủ (Upadanakkhandha, năm nhóm làm đối tượng
cho sự bám níu), Lục Căn (Salayatana), và Tứ Diệu Đế
(Ariyasacca). Do đó, ta được khuyên nên giữ nguyên vẹn danh
từ Pali.
Pháp quán niệm này nhằm loại trừ ý niệm sai lạc
(Attabhavavipallasa), khư khư chấp có một linh hồn vĩnh cửu,
trường tồn bất biến.
-oOo-
Ta có thể chọn bất luận đề mục (xứ) nào trong bốn
đề mục kể trên - tức thân, thọ, tâm hay pháp - và gia công
trau dồi, phát triển tâm cho đến khi thành đạt Đạo Quả
A La Hán; hoặc nữa, để thuận tiện thực hành, có thể
thay đổi và hành xen kẻ nhau cũng được, thí dụ như lúc
này niệm thân, lúc khác niệm thọ, lúc khác nữa niệm tâm
v.v... không phải theo một thứ tự nào.
Để thành đạt các tầng Thiền (Jhana), tốt hơn nên
chọn một đề mục thích ứng với tâm tánh mình. Chẳng
hạn như người có khuynh hướng tham dục sẽ chọn đề
mục quán niệm về tánh cách ô trược của thân, hoặc quán
niệm về bốn nguyên tố chánh yếu (Tứ Đại) cấu thành cơ
thể này, hoặc những đề mục về tử thi. Tuy nhiên, không
có định luật nhất định hoặc cứng rắn hay nhanh chóng nào
để chọn một đề mục quán niệm thích hợp.
Chính ta là người quán xét tâm tánh của ta dễ dàng
nhất.
Một nơi yên tịnh vắng vẻ sẽ thích nghi cho công trình
hành thiền. Một cụm rừng xa xóm làng quả thật vô cùng
thích hợp, nhưng không phải là một điều kiện tốt phải
có. Ta có thể hành thiền trong căn phòng của mình nếu ở
đó không bị ngoại cảnh phiền nhiễu. Cảnh vắng lặng
ở ngay trong tâm mỗi ngày. Nếu tâm không an, dù ở giữa
rừng sâu tịch mịch cũng không thích hợp. Nhưng nếu tâm
không giao động thì ở ngay trung tâm thành phố rộn rịp cũng
được. Khung cảnh chung quanh tác động một cách gián tiếp
để giúp tâm an trụ.
Điều kế đó mà hành giả phải quyết định là giờ
giấc, lúc mà chính hành giả và khung cảnh chung quanh có
nhiều điều kiện thuận tiện nhất để hành thiền. Sáng
sớm, tâm trí còn tươi tỉnh hoặc tối, trước khi đi
ngủ, nếu không quá mệt, thường là lúc thích hợp nhất
để hành thiền. Tuy nhiên, dù thì giờ nào mà ta đã chọn,
nên cố giữ đúng giờ ấy mỗi ngày để tập cho tâm được
quen, có ảnh hưởng tốt đẹp đến pháp hành.
Cách ngồi cũng có thể giúp nhiều cho việc gom tâm. Người
phương Đông thường ngồi tréo chân, chân mặt đặt trên
vế trái và chân trái đặt trên vế mặt, thân mình ngay
thẳng. Đó là lối ngồi Kiết Già, nếu không quen ắt
thấy khó ngồi như thế. Nhiều người ngồi Bán Già dễ
ngồi hơn, chỉ để chân mặt trên vế trái, còn chân trái
thì để luôn phái dưới, khỏi phải tréo lên. Khi ngồi
theo điệu tam giác ấy thì thân mình vững vàng.
Tay mặt đặt lên tay trái, cổ ngay, giữ mũi nằm trên
đường thẳng góc với rún, quần áo ngay ngắn và lưng
quần không nên thắt chặt lắm. Vài người chịu nhắm kín
mắt lại để không còn thấy gì nữa. Nhắm kín mắt cũng
có lợi nhưng thường làm buồn ngủ. Đến lúc muốn ngủ
rồi thì hành giả không còn kiểm soát tâm được nữa.
Những tư tưởng định phát sanh, không còn ngồi ngay ngắn,
vô tình mở miệng, chảy nước vãi và gục đầu.
Chư Phật thường ngồi Kiết Già, hình đóa sen búp, mắt
nhắm phân nửa, nhìn theo chót mũi đến chí đất, không xa
hơn lối một thước hai.
Người nào thấy lối ngồi ngồi kiết già khó khăn có
thể thuận tiện ngồi trên ghế hay ngồi chỗ nào khác,
vừa đủ cao để hai bàn chân gác trên mặt đất. Thế
ngồi không quan trọng lắm. Hành giả tùy thích, ngồi thế
nào miễn nghe thoải mái và dễ dàng.
Hành giả phải kiên trì cố gắng trong pháp hành để
chế ngự những khát vọng tham ái và sân hận, không nên trông
đợi kết quả nhanh chóng. Ta có thể thâu hoạch thành quả
trong nhiều tháng, nhiều năm, hay chỉ trong một ngày. Nhưng
dù sao, chớ nên nản lòng. Điều thiết yếu là phải thực
hành đều đặn.
Tình trạng cố gắng phải được phối hợp với sự
hiểu biết rõ ràng và thấu đáo thực tướng của vạn pháp.
Trí tuệ, đỉnh cao cùng tột của Phật Giáo, quả thật
tuyệt đối cần thiết để thanh lọc tâm. Học vấn cổ
truyền trong thế gian là một điểm lợi nhưng để giải
thoát, điều tối quan trọng là hiểu biết chân chánh thực
tướng của chính mình, là thấu triệt tường tận chính mình,
đúng như thật sự mình là vậy. Để đạt đến sự giải
thoát ra khỏi mọi khổ đau, van vái nguyện cầu không có
một vai trò nào trong Phật Giáo. Chuyên cần chú niệm cũng
thiết yếu như tinh tấn và trí tuệ.
Đã có được ba yếu tố thiết yếu tối quan trọng ấy
- chuyên cần chú niệm, nỗ lực tinh tấn và trí tuệ - hành
giả phải gia công tạm thời chế ngự năm Pháp Triền Cái,
vốn ngăn trở tiến bộ tinh thần của mình.
Hành giả phải nỗ lực khắc phục mọi luyến ái bám víu
vào dục vọng. Điều này không có nghĩa là phải hoàn toàn
từ bỏ mọi thú vui vật chất. Nhưng không nên làm nô lệ
cho các lạc thú trần tục ấy.
Sân hận, hay oán ghét, cũng có năng lực phá hoại hùng
mạnh, không kém gì tham ái. Cả hai, tham ái và sân hận, là
hai ngọn lửa vô cùng nguy hại thiêu đốt chính ta và
những người khác.
Đúng thật rằng chí đến khi chứng đắc Đạo Quả A Na
Hàm (Anagami, Bất Lai), tầng thứ ba trong bốn tầng Thánh, hành
giả mới tận diệt được tham và sân. Nhưng ta phải luôn
luôn tận lực gắng để khắc phục dần hai loại tâm bất
thiện ấy.
Luôn luôn cảnh giác, không lo âu sợ sệt vô ích, giữ tâm
bình luận, và tin chắc vào mục tiêu mong mỏi, tất cả
những yếu tố ấy đều cần thiết để thành công trong công
trình quán niệm tối quan trọng này.
Đối tượng tối hậu của những phương pháp quán niệm
trên là hoàn toàn giải thoát ra khỏi vô minh (avijja) và ái
dục (tanha) bằng cách đắc Quả A La Hán. Sau đó, hành giả
không còn ham muốn hay đeo níu vào bất luận cái gì trên
thế gian.
Để kết luận bài Pháp cao siêu này, Đức Phật dạy
rằng hành giả nhất định có thể thành công trong cố
gắng cao quý của mình không phải trong bảy năm, mà chỉ
trong bảy ngày.
-oOo-
Kinh Niệm Xứ
(Satipatthana Sutta)
[1]
Lúc
ấy tôi có nghe như thế này:
Đức Phật tuyên ngôn như sau:
Này chư Tỳ Khưu, có con đường duy nhất [2] để chúng
sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ [3], để thành
đạt trí tuệ, và để chứng ngộ Niết Bàn - đó là Tứ
Niệm Xứ. Bốn đó là gì?
Nơi đây, người đệ tử [4] sống :
I. Quán niệm thân (Kayanupassana) trong thân [5], nhiệt tâm
(atapi), hiểu biết rõ ràng (sampajano), giữ chánh niệm
(satima), dứt bỏ [6] tham ái (abhijjha) và sầu khổ
(domanassa) [7] trong thế gian (loke) này.
II. Quán niệm thọ (vedananupassana);
III. Quán niệm tâm (cittanupassana);
IV. Quán niệm pháp (dhammanupassana).
I. Niệm Thân (Kayanupassana)
Người đệ tử quán niệm thân như thế nào?
1. Niệm Hơi Thở (anapana sati).
Vị đệ tử rút ẩn dật vào rừng [8] hay dưới một
cội cây, hoặc một nơi vắng vẻ, ngồi kiết già [9], thân
người ngay thẳng, chuyên chú an trú trong chánh niệm. Chú tâm
hay biết (sato), vị ấy thở vô; hay biết, vị ấy thở ra.
Thở vô một hơi dài, vị ấy hay biết: "Tôi đang thở
vô một hơi dài". Thở ra một hơi dài, vị ấy hay
biết: "Tôi đang thở ra một hơi dài". Thở vô một
hơi ngắn, vị ấy hay biết: "Tôi đang thở vô một hơi
ngắn". Thở ra một hơi ngắn, vị ấy hay biết: "Tôi
đang thở ra một hơi ngắn".
Chứng nghiệm trọn vẹn tiến trình [10] (của hơi thở),
(sabakayapatisamvedi): "Tôi sẽ thở vô", vị ấy
luyện tập như vậy.
Chứng nghiệm trọn vẹn tiến trình (của hơi thở):
"Tôi sẽ thở ra", vị ấy luyện tập như vậy.
Làm lắng dịu tiến trình của hơi thở (passambhayam
kayasamkharam): "Tôi sẽ thở vô", vị ấy luyện tập
như vậy.
Làm lắng dịu tiến trình của hơi thở: "Tôi sẽ
thở ra", vị ấy luyện tập như vậy.
Cũng như người thợ tiện chuyên nghiệp, hay người đang
học nghề làm thợ tiện, khi kéo sợi dây của bàn tiện
một đoạn dài thì biết: "Tôi đang kéo một đoạn dài",
khi kéo một đoạn ngắn, biết: "Tôi đang kéo một đoạn
ngắn", cùng thế ấy, vị đệ tử thở vô dài thì
biết: "Tôi đang thở vô một hơi dài", thở vô
ngắn, biết: "Tôi đang thở vô một hơi ngắn".
Chứng nghiệm trọn vẹn tiến trình... (lặp lại như trên)...
vị ấy luyện tập như vậy.
Như thế ấy, vị đệ tử niệm thân trong thân, hay niệm
thân ngoài thân, hoặc cả hai, niệm thân trong thân và niệm
thân ngoài thân [11]. Vị ấy sống quán niệm bản chất sanh
khởi [12] (samudayadhamma) của tiến trình hơi thở, bản
chất hoại diệt [13] (vayadhamma), bản chất khởi sanh và
hoại diệt của tiến trình hơi thở.
Lúc bấy giờ phát sanh đến vị ấy sự hay biết,
"chỉ có một cơ thể" [14], trong mức độ cần
thiết để phát triển trí tuệ, để phát triển chánh
niệm. Vị ấy sống độc lập [15], không bám níu vào bất
luận gì trong thế gian [16] này.
Như thế ấy, vị đệ tử sống niệm thân.
2. Quán Niệm Những Oai Nghi Của Thân (Iriyapatha).
Trong khi đi [17], vị đệ tử hiểu biết: "Tôi đang
đi"; khi đứng, hiểu biết: "Tôi đang đứng";
khi ngồi, hiểu biết: "Tôi đang ngồi"; khi nằm,
hiểu biết: "Tôi đang nằm". Vị ấy hiểu biết
mọi oai nghi (thế cử động) của thân mình.
Như thế ấy, vị đệ tử niệm thân trong thân, thân ngoài
thân, hoặc quán niệm cả hai, trong thân và ngoài thân.
Vị ấy quán niệm bản chất sanh khởi của thân, hay
bản chất hoại diệt của thân. Lúc bấy phát sanh đến hành
giả sự hay biết, "chỉ có một cơ thể", trong
mức độ... (như trên)... vị ấy sống không bám níu vào
bất luận gì trong thế gian này.
3. Quán Niệm Sự Hay Biết (Catusampajanna).
Vị đệ tử hoàn toàn hay biết khi đi tới, đi lui, khi nhìn
về phía trước hay nhìn quanh, khi co tay, co chân vào hay
duỗi ra, khi đắp y, mang bát, khi ăn, uống, nhai, nếm, khi đi
đại tiện hay tiểu tiện, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi
nằm, khi ngủ, khi thức, khi nói và khi giữ im lặng.
Như thế ấy vị đệ tử quán niệm thân... (như trên)...
vị ấy sống không bám níu vào bất luận gì trong thế gian
này.
4. Quán Tưởng Tánh Cách Ô Trược Của Thân
(Patikkulamanasikara). [18]
Vị đệ tử quán tưởng đến cơ thể của chính mình,
từ bàn chân trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, bao
bọc trong một lớp da và chứa đầy các loại uế trược
khác nhau.
Trong thân này có: tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, da,
thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách,
phổi, bao tử, ruột, ruột non, phẩn, mật, đờm, mủ, máu,
mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu, nước miếng, nước mũi, nước
nhớt ở các khớp xương và nước tiểu.
Cũng giống như có một cái bao trống hai đầu, chứa đựng
đầy những loại mể cốc như gạo, lúa, đậu xanh, đậu váng,
mè và trấu; người kia dở miệng bao lấy ra từng món và
quán tưởng: đây là gạo, đây là lúa, đây là đậu xanh,
đây là đậu váng, đây là mè, đây là trấu, cùng thế
ấy, vị đệ tử quán tưởng đến tánh chất ô trược khác
nhau của từng bộ phận trong thân mình.
Như thế ấy, vị đệ tử niệm thân trong thân... (như trên)...
vị ấy sống không bám níu vào bất luận gì trong thế gian
này.
5. Quán Tưởng Về Tứ Đại (Dhatumanasikara). [19]
Vị đệ tử quán tưởng đến các nguyên tố cấu thành
thân này của chính mình. Trong thân này có thành phần đất
(địa đại, nguyên tố có đặc tánh cứng hay mềm, chiếm
không gian, nới rộng, duỗi ra), thành phần nước (thủy đại,
nguyên tố có đặc tánh lỏng, làm dính liền lại), thành
phần lửa (hỏa đại, nguyên tố có đặc tánh nóng hay
lạnh) và thành phần gió (phong đại, nguyên tố có đặc tánh
di động).
Cũng như người đồ tể thiện xão, hay người đang học
nghề làm đồ tể, khi hạ một con bò và cắt ra thành
từng phần rồi ngồi tại ngã ba đường, bày các phần
thịt ấy ra (hiểu biết đây là đùi, đây là vai, đây là
sườn v.v...), cùng thế ấy, vị đệ tử quán tưởng đến
các thành phần cấu thành cơ thể mình.
Như thế ấy, vị đệ tử niệm thân trong thân... (như trên)...
vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế gian này.
6. Quán Tưởng Chín Loại Tử Thi (Navasivathikapabba)
a. Vị đệ tử nhìn thấy một tử thi bỏ ngoài bãi tha
ma, của người chết được một ngày, hai ngày, hay đã
chết ba ngày, sình lên, bầm tím và chảy nước hôi thúi. Lúc
bấy giờ vị đệ tử liên tưởng đến thân của chính mình
như thế này: "Thật vậy, thân này cũng cùng thế ấy,
cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy
và sẽ không thể tránh khỏi trạng thái ấy."
Như thế ấy, vị đệ tử niệm thân trong thân... (như trên)...
vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế gian này.
b. Vị đệ tử nhìn thấy một tử thi bỏ ngoài bãi tha
ma bị quạ, diều, kên kên, chó nhà hoặc chó rừng cấu xé
để ăn thịt, hay các loại giòi tửa hoặc côn trùng đục
khoét. Vị ấy liên tưởng đến thân mình như thế này:
"Thật vậy, thân này cũng cùng thế ấy, cũng cùng một
bản chất như vậy và sẽ không thể tránh khỏi trạng thái
ấy."
Như thế ấy vị đệ tử niệm thân trong thân... (như trên)...
vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế gian này.
c. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn bộ xương dính liền nhau nhờ mấy sợi gân, còn chút
ít thịt và máu...
d. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn bộ xương dính liền nhau nhờ mấy sợi gân, còn lem
luốc máu, mà thịt đã hết...
e. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn bộ xương trơ trọi, dính liền nhau nhờ mấy sợi gân,
thịt và máu đã hết ...
f. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn là những khúc xương rời rạc nằm ngổn ngang: xương bàn
tay, xương bàn chân, xương ống quyển, xương đùi, xương mông,
xương sống, sọ...
g. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn những khúc xương trắng phao như vỏ sò, vỏ ốc (bỏ lâu
ngày ngoài mưa nắng)...
h. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma của
người đã chết hơn một năm, chỉ còn một đống xương...
i. Vị đệ tử nhìn một tử thi bỏ ngoài bãi tha ma chỉ
còn những lóng xương thâm đen, đang dần dần tan rã thành
cát bụi. Vị đệ tử liên tưởng đến thân mình như thế
này: "Thật vậy, thân này cũng cùng thế ấy, cũng cùng
một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy, và sẽ
không thể tránh khỏi trạng thái ấy."
Như thế ấy vị đệ tử niệm thân trong thân... (như trên)...
vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế gian này.
II. Niệm Thọ (Vedananupassana)
Khi chứng nghiệm thọ lạc, vị đệ tử hiểu biết:
"Tôi đang chứng nghiệm thọ lạc".
Khi chứng nghiệm thọ khổ, vị đệ tử hiểu biết:
"Tôi đang chứng nghiệm thọ khổ".
Khi chứng nghiệm thọ vô ký (không lạc, không khổ), vị
đệ tử hiểu biết: "Tôi đang chứng nghiệm thọ vô ký".
Khi chứng nghiệm thọ trần tục (samisa, thuộc về thế
gian), vị đệ tử hiểu biết: "Tôi đang chứng nghiệm
thọ lạc trần tục".
Khi chứng nghiệm thọ lạc phi trần tục (niramisa, không
thuộc về thế gian), vị đệ tử hiểu biết: "Tôi đang
chứng nghiệm thọ lạc phi trần tục".
Khi chứng nghiệm thọ khổ phi trần tục, vị đệ tử
hiểu biết: "Tôi đang chứng nghiệm thọ khổ phi trần
tục".
Khi chứng nghiệm thọ vô ký phi trần tục, vị đệ tử
hiểu biết: "Tôi đang chứng nghiệm thọ vô ký phi
trần tục".
Như thế ấy, vị đệ tử sống niệm thọ trong thọ, hay
thọ ngoài thọ, hoặc cả hai, bên trong và bên ngoài.
Vịấy sống quán niệm bản chất sanh khởi, bản chất
hoại diệt, bản chất sanh khởi và hoại diệt của những
thọ cảm.
Lúc bấy giờ phát sanh đến vị ấy sự hay biết:
"chỉ có những thọ cảm" trong mức độ cần
thiết... (như trên)... vị ấy sống không bám níu vào bất
luận gì trong thế gian này.
III. Niệm Tâm (Cittanupassana)
Khi tâm có tham (raga), vị đệ tử hay biết rằng tâm có
tham. Khi tâm không có tham, hay biết không có tham.
Khi tâm có sân (dosa), vị ấy hay biết rằng tâm có tham.
Khi tâm không có sân, hay biết rằng không có sân.
Khi tâm có si (moha), vị ấy hay biết rằng tâm có si. Khi
tâm không có si, hay biết rằng không có si.
Khi tâm uể oải (samkhitta, tức liên hệ đến dã dượi hôn
trầm), hay biết tâm uể oải.
Khi tâm loạn động (vikkhitta, tức liên hệ đến uddhaca,
danh từ gọi chung các loài tâm thuộc Sắc Giới hay Vô Sắc
Giới), vị ấy hay biết rằng có tâm phát triển cao thượng.
Khi có tâm không phát triển cao thượng (amahaggata, tức các
loại tâm thuộc Dục Giới, kamavacara), hay biết có tâm không
phát triển cao thượng.
Khi có tâm hữu hạn [20] (sanuttara, còn có thể hơn được,
tức là các loại tâm thuộc Dục Giới hay Sắc Giới, vì các
loại tâm nầy còn có thể được phát triển cao hơn, đến
tâm Vô Sắc Giới), vị ấy hay biết rằng có tâm hữu
hạn.
Khi có tâm vô thượng (anuttara, không thể hơn được
nữa), vị ấy hay biết có tâm vô thượng.
Khi có tâm tâm định (samahita, an trụ vững vàng), vị
ấy hay biết có tâm định.
Khi có tâm tâm không định (asamahita,), vị ấy hay biết có
tâm không định.
Khi có tâm giải thoát (vimutta, tự do), vị ấy hay biết có
tâm (tạm thời) giải thoát.
Khi có tâm tâm không giải thoát (avimutta), vị ấy hay
biết có tâm không giải thoát.
Như thế ấy, vị đệ tử sống quán niệm tâm trong tâm,
hay quán niệm tâm ngoài tâm, hay quán niệm tâm trong và tâm
ngoài.
Vị ấy sống quán niệm bản chất sanh khởi của các
trạng thái tâm, bản chất hoại diệt của các trạng thái
tâm, bản chất khởi sanh và hoại diệt của các trạng thái
tâm. Lúc bấy giờ phát sanh đến vị ấy sự hiểu biết,
"chỉ có những trạng thái tâm" trong mức độ cần
thiết ... (như trên) ... vị ấy không bám níu vào bất
luận gì trong thế gian nầy.
IV. Niệm Pháp (Dhammanupassana)
[21]
1. Năm Pháp Triền Cái (Ninarana)
Vị đệ tử quán niệm về các pháp có liên quan đến Năm
Chướng Ngại Tinh Thần.
Khi có tham dục (kamacchanda) hiện diện trong tâm, vị đệ
tử nhận thức rõ ràng: "Tôi có tham dục", hoặc
khi không có tham dục trong tâm, vị ấy nhận thức rõ ràng:
"Tôi không có tham dục". Vị ấy hiểu biết tận tường
cái tâm mà trước kia không có tham dục, nay khởi sanh như
thế nào; vị ấy hiểu biết tận tường thế nào là sự
dứt bỏ tham dục đã phát sanh, vị ấy hiểu biết tận tường
thế nào là sự không khởi sanh trở lại, trong tương lai,
của tâm tham dục đã dứt bỏ.
Khi oán ghét (vyapada) hiện diện trong tâm, vị đệ tử
nhận thức rõ ràng: "Tôi có oán ghét", hoặc khi không
có oán ghét, vị ấy nhận thức rõ ràng: "Tôi không có
oán ghét". Vị ấy hiểu biết rõ ràng cái tâm mà trước
kia không có oán ghét nay khởi sanh như thế nào; vị ấy hay
biết tận tường thế nào là sự dứt bỏ oán ghét đã phát
sanh; vị ấy hiểu biết tận tường thế nào là sự không
khởi sanh trở lại trong tương lai, của tâm oán ghét đã
dứt bỏ.
Khi có hôn trầm dã dượi (thina-middha) hiện diện trong tâm,
vị đệ tử nhận thức rõ ràng: "Tôi có hôn trầm dã
dượi" hoặc khi không có hôn trầm dã dượi, vị ấy
nhận thức rõ ràng "Tôi không có hôn trầm dã dượi".
Vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà trước kia không
có hôn trầm dã dượi nay khởi sanh như thế nào, vị ấy
hiểu biết tận tường thế nào là sự dứt bỏ hôn trầm
dã dượi đã phát sanh; vị ấy hiểu biết tận tường
thế nào là sự không khởi sanh trở lại trong tương lai,
của tâm hồn hôn trầm dã dượi đã dứt bỏ.
Khi có phóng dật lo âu (uddhacca kukkucca) hiện diện trong tâm,
vị đệ tử nhận thức rõ ràng: "Tôi có phóng dật lo
âu", hoặc khi không có phóng dật lo âu, vị ấy nhận
thức rõ ràng: "Tôi không có phóng dật lo âu". Vị
ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà trước kia không có
phóng dật lo âu nay khởi sanh như thế nào; vị ấy hiểu
biết tận tường thế nào là sự không khởi sanh trở lại
trong tương lai, của tâm phóng dật lo âu đã dứt bỏ.
Khi có hoài nghi (vicikiccha, tâm bất định, không nhất
quyết) hiện diện trong tâm, vị đệ tử nhận thức rằng:
"Tôi có hoài nghi", hoặc khi không có hoài nghi, vị
ấy nhận thức rõ ràng:"Tôi không có hoài nghi".
Vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà trước kia không
có hoài nghi nay sanh khởi như thế nào; vị ấy hiểu biết
tận tường thế nào là sự dứt bỏ hoài nghi đã phát
sanh; vị ấy hiểu biết tận tường thế nào là sự không
khởi sanh trở lại trong tương lai, của tâm hoài nghi đã
dứt bỏ.
Như thế ấy, vị đệ tử quán niệm các pháp liên quan
đến Năm Chướng ngại Tinh thần.
2. Ngũ Uẩn Thủ (Upadanakkhandha)
Vị đệ tử suy tư: "Như thế nầy là sắc (rupa, hình
thể vật chất), như thế nầy là sự khởi sanh của sắc,
như thế nầy là là sự hoại diệt của sắc. Như thế
nầy là thọ (vedana, cảm giác), như thế nầy là sự khởi
sanh của thọ, như thế nầy là sự hoại diệt của thọ.
Như thế nầy là tưởng (sanna, tri giác), như thế nầy là
sự khởi sanh của tưởng, như thế nầy là sự hoại diệt
của tưởng. Như thế nầy là hành (sankhara, hoạt động
của các tâm sở, trừ hai tâm sở thọ và tưởng), như
thế nầy là sự khởi sanh của hành, như thế nầy là sự
hoại diệt của hành. Như thế nầy là thức (vinnana), như
thế nầy là sự khởi sanh của thức, như thế nầy là sự
hoại diệt của thức.
Như thế ấy, vị đệ tử sống quán niệm các pháp
(dhamma) có liên quan đến Ngũ Uẩn Thủ (sự bám níu chặt
chẽ vào năm uẩn).
3. Sáu Nội và Ngoại Xứ (Salayatana)
Vị đệ tử nhận thức rõ ràng mắt (nhãn), hình thế
vật chất (sắc), và dây trói buộc phát sanh do nhãn và
sắc tạo duyên. Vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà
trước kia không bị thằng thúc trói buộc, nay khởi sanh như
thế nào; vị ấy hiểu biết tận tường thế nào là sự
dứt bỏ những thằng thúc đã khởi sanh; vi ấy hiểu biết
tận tường thế nào là sự không khởi sanh trở lại trong
tương lai, của các thằng thúc đã dứt bỏ. Cùng một thế
ấy, vị đệ tử nhận thức rõ ràng tai (nhĩ) và tiếng động
(thinh), mũi (tỷ) và mùi (hương), lưỡi (thiệt) và vị, thân
và sự xúc chạm (xúc), tâm (ý) và các đối tượng của tâm
(pháp), và các thằng thúc phát sanh do các căn và các trần
ấy tạo duyên. Vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà
trước kia không bị thằng thúc trói buộc nay khởi sanh như
thế nào, và sự không khởi sanh trở lại trong tương lai,
của các thằng thúc đã dứt bỏ như thế nào.
Như thế ấy, vị đệ tử sống quán niệm các pháp có
liên quan đến sáu căn và sáu trần (nội và ngoại xứ).
4. Thất Giác Chi (Bojjhanga)
Khi có "niệm giác chi" (sati, chi niệm của sự giác
ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận thức rõ ràng:
"Tôi có niệm giác chi", hoặc khi không có, vị ấy
hiểu biết rõ ràng rằng mình không có; vị ấy hiểu biết
tận tường cái tâm mà trước kia không có giác chi
"niệm" nay khởi sanh như thế nào và, bằng cách viên
mãn hành thiền, làm khởi sanh "niệm giác chi" như
thế nào .
Khi có "trạch pháp giác chi" (dhammavicaya, chi
trạch pháp của sự giác ngộ) hiện diện trong tâm, vị
ấy nhận thức rõ ràng: "Tôi có trạch pháp giác
chi", hoặc khi không có, vị ấy hiểu biết rõ ràng
rằng mình không có; vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm
mà trước kia không có giác tri "trạch pháp", nay
khởi sanh như thế nào và, bằng cách viên mãn hành thiền,
làm khởi sanh "trạch pháp giác chi" như thế nào.
Khi có "tinh tấn giác chi" (viriya, chi tinh tấn
của sự giác ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận
thức rõ ràng: "Tôi có tinh tấn giác chi", hoặc khi
không có, vị ấy hiểu biết tận tường rằng mình không có,
vị ấy hiểu biết tận tường cái tâm mà trước kia không
có giác chi "tinh tấn", nay khởi sanh như thế nào và,
bằng cách viên mãn hành thiền, làm khởi sanh "tinh tấn
giác chi" như thế nào.
Khi có "phỉ giác chi" (piti, chi phỉ của sự giác
ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận thức rõ ràng:
"Tôi có phỉ giác chi", hoặc khi không có, vị ấy
hiểu biết rõ ràng rằng mình không có; vị ấy hiểu biết
tận tường cái tâm mà trước kia không có giác chi
"phỉ" nay khởi sanh như thế nào và, bằng cách viên
mãn hành thiền, làm khởi sanh "phỉ giác chi" như
thế nào.
Khi có "an giác chi" (passadhi, chi an của sự giác
ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận thức rõ ràng:
"Tôi có an giác chi", hoặc khi không có, vị ấy
hiểu biết tận tường rằng mình không có; vị ấy hiểu
biết tận tườnhg cái tâm mà trước kia không có giác chi
"an" nay khởi sanh như thế nào và, bằng cách viên mãn
hành thiền, làm khởi sanh "an giác chi" như thế nào.
Khi có "định giác chi" (samadhi, chi định của
sự giác ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận thức rõ
ràng : "Tôi có định giác chi", hoặc khi không có,
vị ấy hiểu biết rõ ràng rằng mình không có; vị ấy
hiểu biết tận tường cái tâm mà trước kia không có giác
chi "định" nay khởi sanh như thế nào và, bằng cách
viên mãn hành thiền, làm khởi sanh "định giác chi"
như thế nào.
Khi có "xả giác chi" (upekkha, chi xả của ,sự giác
ngộ) hiện diện trong tâm, vị ấy nhận thức rõ ràng:
"Tôi có xả giác chi", hoặc khi không có , vị ấy
hiểu biết tận tường rằng mình không có; vị ấy hiểu
biết tận tường cái tâm mà trước kia không có giác chi
"xả" nay khởi sanh như thế nào và, bằng cách viên
mãn hành thiền, làm khởi sanh "xả giác chi" như
thế nào.
Như thế ấy, vị đệ tử sống quán niệm pháp trong pháp
... (như trên) ... vị ấy không bám níu vào bất luận gì
trong thế gian nầy. Như thế ấy, vị đệ tử sống quán
niệm pháp có liênn quan đến Thất Giác chi (bảy yếu tố
của sự giác ngộ).
5. Tứ Diệu Đế (Ariyasacca)
Vị đệ tử hay biết trọn vẹn, đúng như thật sự
vậy, "đây là đau khổ", "đây là nguyên nhân
của đau khổ", "đây là sự chấm dứt đau
khổ", "đây là con đường dẫn đến chấm dứt đau
khổ".
Như thế ấy, vị đệ tử sống quán niệm pháp trong pháp,
quán niệm pháp ngoàipháp, hoặc cả hai, quán niệm pháp
trong pháp và pháp ngoài pháp. Vị ấy quán niệm bản chất
khởi sanh của các pháp, hoặc bản chất hoại diệt của các
pháp, hoặc cả hai, bản chất khởi sanh và hoại diệt của
các pháp.
Lúc bấy giờ phát sanh đến vị ấy sự hay biết,
"chỉ có các pháp", trong mức độ cần thiết để
phát triển trí tuệ, để phát triển chánh niệm. Độc
lập, vị ấy sống không bám níu vào bất luận gì trong
thế gian nầy. Như thế ấy, vị đệ tử quán niệm các pháp
có liên quan đến bốn Chân Lý Thâm Diệu.
Đúng thật vậy, người trau giồi Tứ Niệm Xứ đúng
theo đường lối nầy trong bảy năm sẽ thành Đạo Quả A
La Hán tại đây, và trong kiếp sống hiện tiền, hoặc Đạo
Quả A Na Hàm (Anagami, Bất Lai), nếu còn chút luyến ái nào.
Cũng không phải vậy, người trau giồi đúng mực trong sáu
năm ... năm năm ,,,bốn năm ... ba năm ... hai năm .. một năm
... bảy tháng ... sáu tháng ... năm tháng ... bốn tháng ... ba
tháng ... hai tháng ... một tháng ... nữa tháng ... một tuần
.. người ấy sẽ thành Đạo Quả A La Hán, hoặc Quả Bất
Lai (Anagami), nếu còn chút luyến ái nào, chính trong kiếp
sống hiện tiền.
Vì lẽ ấy Như Lai tuyên ngôn:
Có con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để
diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ, và để
chứng ngộ Niết Bàn.
Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị đệ tử
lấy làm hoan hỷ thỏa thích.
-oOo-
Chú Giải Kinh Niệm Xứ:
[1]
a. (Sati = niệm) + (patthana = sự thiết lập, nền tảng,
căn bản, đối tượng, hay đề mục hành thiền, chuyên chú
gom tâm vào).
b. (Sati = niệm) + ( upatthana = sự phát sanh, chuyên chú
gom tâm).
Satipatthana sutta là bài kinh đề cập đến những đề
mục chánh yếu để chuyên chú gom tâm vào.
[2] Ekayana = con đường duy nhất, chỉ có một con đường
v.v...
[3] Đau khổ. Bản văn ghi: Sầu muộn, than thở, đau đớn
và bất mãn. Đau khổ bao gồm tất cả bốn sắc tố ấy.
[4] Người đệ tử. Bất luận ai - dầu là hàng xuất gia
hay tại gia cư sĩ - có nguyện vọng thóat ra khỏi mọi khổ
đau đều có thể thực hành các đề mục hành thiền nầy.
[5] Kaye kayanupassana, theo sát nghĩa từng chữ, là
"niệm thân trong thân", tức hạn chế chú niệm
của mình chỉ trong thân mà thôi. Không quán niệm thọ,
niệm tâm hay niệm pháp. Các niệm xứ kia cũng phải được
hiểu cùng một thế ấy.
[6] Tạm thời dứt bỏ tham ái và sầu muộn trong thời
gian hành thiền. Một cách chính xác, hành giả tạm thời
khắc phục tâm tham ái khi đắc thiền (Jhana) và hoàn toàn
tận diệt khi đắc Quả A La Hán.
[7] Sầu khổ (domanassa), bao hàm ý nghĩa bất toại
nguyện, thuộc tâm sân. Tham ái và sầu khổ là hai trong năm
chướng ngại tinh thần (triền cái).
Nơi đây hai chướng ngại chánh nầy hàm xúc cả năm pháp
Triền Cái (Nivarana).
[8] Vào rừng, hàm ý bất cứ nơi nào vắng vẽ yên tĩnh,
ở nhà cũng được.
[9] Ngồi kiết già. Đây là thế ngồi lý tưởng để
thực hành. Nếu thấy không thuận tiện, hành giả có thể
ngồi lại cho thoải mái. Cũng có thể ngồi trên ghế.
[10] Tiến trình hơi thở, sabbakayapatisamveda. Nơi đây danh
từ "kaya" có nghĩa là "toàn thân", tức
trọn vẹn tiến trình. Hành giả thở vào, thở ra, nhận
thức rõ ràng hơi thở từ lúc khởi đầu, đoạn giữa và
đến lúc chấm dứt toàn thể tiến trình hơi thở.
[11] Thông thường, hành giả niệm thân trong thân.
[12] Bản chất khởi sanh. Vì có thân, có mũi, và có
thức nên có hơi thở khởi sanh.
[13] Bản chất hoại diệt. Hơi thở hoại diệt (tức
chấm dứt) khi thân, mũi và thức chấm dứt.
[14] Chỉ có một cơ thể. Hàm ý không có một chúng sanh,
một cá nhân hay một người nam hay người nữ, không có
linh hồn, không có "Tôi" hay "Của Tôi".
[15] Vị ấy sống độc lập. Anissito, độc lập, tức không
có sự hỗ trợ của ái dục (tanha) và tà kiến (dittha).
[16] Vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế
gian. Khi gia công quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra, đến một
giai đoạn nào hành giả có thể tạm thời khắc phục năm
chướng ngại tinh thần (năm pháp Triền Cái) và đắc Sơ
Thiền (Jhana), trọn vẹn hoàn tất các chi thiền: tầm
(vitakka), sát (vicara), phỉ (piti), lạc (sukha) và nhất điểm
tâm (ekaggata).
Thiền, Jhana, theo đúng ngữ nguyên của danh từ Pali nầy,
là quán niệm bám sát vào đề mục, hoặc có nghĩa là thiêu
đốt các chướng ngại làm ngăn trở sự tiến bộ tinh
thần. Đây không phải là trạng thái tâm mê sảng mà là tâm
trạng trong sạch, một chứng nghiệm có tánh cách đạo đức.
Hành giả xuất Thiền và chú tâm quán niệm ba đặc tướng
- vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anatta) - và thành
đạt các Thành Quả. Kể từ đó hành giả hoàn toàn
"giải thoát" (anissito) vì đã thoát ra khỏi mọi hình
thức ái dục và tà kiến, và không còn bám níu vào bất
luận gì trong thế gian, vì không còn những tư tưởng lầm
lạc liên quan đến cái "Ta" và "Của Ta".
Đối tượng cùng tột của pháp niệm hơi thở, anapana
sati, trước tiên là chứng đắc các tầng Thiền (Jhana) và
từ đó, phát triển bốn Thánh Đạo và Thánh Quả. Đó là
lý do tại sao bài kinh khởi đầu bằng đoạn " ...để
chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành
đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn."
[17] Hiểu biết mọi oai nghi của mình. Loài thú cũng hay
biết mọi oai nghi của nó. Nơi đây, đối tượng được hàm
xúc không phải chỉ là sự hay biết suông. Trong khi đi, hành
giả hiểu biết chân chánh rằng, "chỉ có sự đi"
một cách chính xác, không có "một người" hay một
"cá nhân chủ thể" đang đi. Nói cách khác, chỉ có
hành động, không có "người" hành động, có
"việc làm" mà không có "người" làm việc
đó. Khi hiểu biết tận tường như vậy, không thể có quan
niệm lầm lạc về một linh hồn trường cửu.
[18] Quán tưởng tánh cách ô trược của thân. Hầu hết
các vị tỳ khưu đều thực hành đề mục nầy, và đây là
đề mục hành thiền được Ngài Ananda ưa thích nhất.
Đề mục nầy thích hợp với người có tâm tham ái vì
chính đề mục nầy giúp hành giả dứt bỏ, không luyến ái
cái được gọi là tấm thân đẹp đẽ nầy. Vài người có
thể thích quán tưởng các khả năng tiềm tàng ngủ ngầm
của con người hơn.
[19] Tứ Đại. Bốn nguyến tố chánh yếu cấu thành vật
thể con người. Bốn nguyên tố ấy là: Pathavi, Apo, Tejo và
Vaja, thường được gọi là Đất, Nước, Lửa, Gió. Không
nên hiểu rằng đây là đất, nước, lửa và gió như ta thường
hiểu.
Đất, Pathavi, là thành phần vật chất có đặc tánh nở
ra, duỗi ra, là thể chất của sắc. Không có thành phần
nầy, vật chất không thể chiếm không gian. Tánh chất
cứng hay mềm - thuần túy tương đối - là hai thể khác
nhau của nguyên tố nầy.
Nước, Apo, là nguyên tố có đặc tánh làm dính liền
lại. Không giống như thành phần Đất mà ta có thể tiếp
xúc bằng giác quan như sờ đụng, hửi mùi v.v... ta không
thể tiếp xúc với thành phần nước bằng ngũ quan. Chính
nguyên tố Nước (Apo) nầy làm cho các phần tử rời rạc
của vật chất dính liền lại và cho ta một ý niệm về
một cơ thể. Khi một cơ thể đặc - tức trong ấy thành
phần Đất trội hơn - chảy ra, thành phần nước trở thành
trội hơn trong thể lỏng. Hai nguyên tố Đất và Nước
nầy tương quan với nhau mật thiết đến độ khi thành
phần nầy chấm dứt, thành phần kia cũng tan biến.
Lửa, Tejo, là nguyên tố có đặc tánh nóng. Lạnh cũng là
một hình thức nóng. Cả hai, lạnh và nóng, đều được
bao gồm trong Tejo, bởi vì cả hai đều có năng lực bảo
tồn và tiêu diệt sự sống. Không giống như ba nguyên tố
kia, thành phần Lửa (Tejo) có khả năng làm cho vật chất
tự tạo trở lại.
Luôn luôn dính liền với Tejo (Lửa) là Vajo (Gió), thành
phần của vật chất có đặc tánh di động. Có cử động,
hay di chuyển, là do nguyên tố nầy. Sự di động được xem
là năng lực, hay động cơ, phát nhiệt. Di động và nhiệt,
thành phần Gió và Lửa, trong phạm vi vật chất, cũng
giống như Tâm và Nghiệp trong lãnh vực tinh thần đạo đức.
Bốn nguyên tố Đất, Nước, Lửa và Gió, luôn luôn đi
chung với nhau trong vật chất, nhưng trong một loại vật
chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần kia. Thí
dụ như trong đất thì thành phần Đất (Pathavi) trội hơn,
trong nước thì thành phần Nước (Apo) trội hơn, v.v...
[20] Tâm vô thượng, anuttara =(an +uttara) là không có gì
cao hơn nữa, cao hơn hết, không còn thua ai. Sanuttara là còn
có thể trội hơn, hữu hạn. Các loại tâm thuộc Dục
Giới và Vô Sắc Giới là anuttara, vô thượng, không thể
trội hơn được nữa. Ở đây không đề cập đến các
loại tâm siêu thế.
[21] Niệm Pháp (Dhammanupassana). Ở đây, chữ Dhamma không có
nghĩa là Giáo Pháp, tức những lời dạy của Đức Phật. Nơi
đây, danh từ nầy được dùng trong ý nghĩa tổng quát, bao
gồm tất cả những gì tại thế và siêu thế. Riêng trong bài
kinh nầy Dhamma - Pháp bao gồm: năm Pháp Triền Cái, bảy Giác
Chi, năm Uẩn Thủ, sáu Nội và Ngoại Xứ, và Tứ Diệu Đế.
|