[Phụ
Bản 1]
Hạnh Phúc Kinh
(Mangala Sutta)
[1]
Tôi
có nghe như vầy:
Vào một thời nọ Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ
Viên) của Trưởng Giả Anathapindika [2] (Cấp Cô Độc), gần
thành Savatthi (Xá Vệ) [3].
Lúc bấy giờ, đêm về khuya, có một vị Trời hào quang
chiếu diệu sáng tỏa toàn khu Kỳ Viên, đến hầu Phật,
lại gần nơi Phật ngự, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng
sang một bên. Khi đã đứng yên, vị Trời cung kính bạch
với Đức Thế Tôn bằng lời kệ [4]:
1. Chư Thiên và nhân loại đều cầu mong được an lành,
và ai cũng suy tìm hạnh phúc. Kính Bạch Đức Thế Tôn, xin
Ngài hoan hỷ chỉ dạy chúng con về Phúc Lành Cao Thượng
Nhất. [5]
2. Không kết giao với người ác, thân cận với bậc
hiền trí, và tôn kính bậc đáng kính - là Phúc Lành Cao Thượng
Nhất.
3. Cư ngụ nơi thích nghi [6], đã có tạo công đức trong
quá khứ, và hướng tâm về chánh đạo [7] - là Phúc Lành
Cao Thượng Nhất.
4. Học nhiều hiểu rộng [8], lão luyện tinh thông thủ công
nghiệp [9], giới hạnh thuần thục trang nghiêm [10], có lời
nói thanh nhã - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
5. Hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, thương yêu tiếp độ
vợ con, và hành nghề an lạc - là Phúc Lành Cao Thượng
Nhất.
6. Rộng lượng bố thí, tâm tánh trực giác, giúp đỡ
họ hàng, và tạo nghiệp chân chánh - là Phúc Lành Cao Thượng
Nhất.
7. Loại trừ và ngăn ngừa nghiệp ác [11], thận trọng kiêng
cữ các chất say, vững vàng giữ gìn phẩm hạnh - là Phúc
Lành Cao Thượng Nhất.
8. Đức hạnh biết tôn kính [12], khiêm tốn, biết đủ,
biết ơn và đúng lúc, lắng nghe Giáo Pháp (Dhamma) [13] - là
Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
9. Nhẫn nhục, biết vâng lời, thường gặp gỡ bậc Sa Môn
(Samanas) [14] và tùy thời, luận đàm về Giáo Pháp - là Phúc
Lành Cao Thượng Nhất.
10. Tự kiểm soát, sống đời Thánh Thiện, quán tri Tứ
Đế, liễu ngộ Niết Bàn - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
11. Người mà tâm không giao động khi tiếp xúc với thế
gian pháp [15], Không Sầu Muộn, Vô Nhiễm và An Toàn [16] - là
Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
12. Đối với những ai đã viên mãn hoàn thành các pháp
trên [17], ở mọi nơi đều không thể bị thất bại, đi
khắp nơi đều được hạnh phúc - là Phúc Lành Cao Thượng
Nhất [18].
-oOo-
Chú Giải Hạnh Phúc Kinh:
[1] So sánh với Túc Sanh Truyện Mahamangala Jakata (số 453).
Bài kinh này được ghi trong bộ Sutta Nipata và Khuddaka Nikaya.
[2] Anathapindika, theo nghĩa trắng là "Người cho ăn đến
kẻ cô đơn không được giúp đỡ" hoặc "Nuôi
sống những người bị bỏ rơi", ta thường gọi là
Cấp Cô Độc. Tên thật của ông là Sudatta. Sau khi quy y
trở thành Phật tử, ông mua một khu rừng tươi tốt của
Ông Hoàng Jeta (Kỳ Đà) và xây dựng một ngôi đạo tràng có
tên là Jetavanarama (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nơi đây Đức Phật
cư ngụ phần lớn đời Ngài.
Muốn có nhiều chi tiết về Sudatta, đọc Kindred Sayings,
phần I, trang 27; và Vinaya Text, tập iii, trang 179.
[3] Savathi, tên ngày nay là Sahet-Mahet.
[4] Bản Chú Giải ghi nhận rằng ngày kia có một cuộc bàn
thảo sôi nổi xảy ra trong "Hội Trường" nhằm tìm
hiểu thế nào là phúc lành cao thượng nhất.
Đông người, mỗi người có một ý kiến riêng. Có người
chủ trương rằng sáng sớm ra đường thấy một điềm lành
(như gặp một người mẹ bồng con, một em bé, một con bò
trắng, v.v...) là phúc lành.
Những người có ý kiến khác nhau chia làm ba nhóm, mạnh
mẽ bênh vực ý kiến của nhóm mình, và cuộc bàn cãi sôi
nổi lan tràn đến cảnh giới chư thiên. Các vị Trời cũng
không đồng ý với nhau, không thỏa mãn được với những
cuộc tranh luận, đem câu chuyện lên đến Vua Trời Sakka (Đế
Thích).
Sau cùng, Vua Trời Sakka đề cử một vị Trời đại
diện đến hầu Phật và cung thỉnh tôn ý Ngài. Chính vị
Trời ấy đến gần Đức Thế Tôn và bạch hỏi bằng câu
kệ.
[5] Phúc Lành Cao Thượng Nhất. Theo Bản Chú Giải, Mangala
có nghĩa là những gì dẫn đến hạnh phúc và thịnh vượng.
Theo các nhà ngữ nguyên học, danh từ này chia làm ba phần:
"Man" là trạng thái khốn khổ, "ga" là đưa
đến và "la" là cắt đứt. Các Ngài gộp chung ba
phần lại và giải thích "Mangala" là "cái gì
chặn đứng con đường đưa đến trạng thái khốn
khổ".
[6] Cư ngụ nơi thích nghi. Tức là nơi nào Tứ Chúng (chư
vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Nam và Tín Nữ) thường cư
trú, thường có những người tâm đạo nhiệt thành thực hành
thập thiện nghiệp, và nơi mà Giáo Pháp được xem là quy
tắc của đời sống. (Bản Chú Giải).
[7] Hướng tâm về chánh đạo. Tức là hướng cái tâm đồi
bại vô luân về đạo đức chân chánh, tâm mất đức tin
về niềm tin chân chánh và tâm ích kỷ vị ngã về lòng
quảng đại vị tha. (Bản Chú Giải).
[8] Học nhiều hiểu rộng. Bahusutta, theo nghĩa trắng là
"người có nghe nhiều", đa văn. Danh từ này hàm ý
là người có học vấn uyên bác thâm sâu. Vào thời xưa không
có sách vở, vì lẽ ấy, người nhớ nhiều giáo huấn của
thầy được xem là học rộng, hiểu sâu. Nơi đây học
rộng, hay "nghe nhiều" có nghĩa là người thông
hiểu Giáo Pháp (Dhamma) một cách sâu xa.
[9] Bản Chú Giải đề cập đến hai loại công ăn việc
làm: nghề không làm tổn hại đến ai của người sống
tại gia, như thợ bạc, thợ rèn v.v... và nghề của người
xuất gia như vá y v.v...
[10] Vinaya, tức giới hạnh trang nghiêm trong tư tưởng,
lời nói và việc làm.
Bản Chú Giải đề cập đến hai loại giới hạnh: giới
của người tại gia, tức không vi phạm thập bất thiện
nghiệp và giới hạnh của hàng xuất gia như bảy loại vi
phạm được kể trong Giới Bổn (Patimokkha), hoặc nghiêm trì
Tứ Thanh Tịnh Giới.
[11] Hoàn toàn lánh xa ác nghiệp, không phải chỉ tiết
chế chừng mực.
[12] Tức tôn kính Đức Phật và các môn đệ của Ngài,
tôn kính Thầy, cha, mẹ, bậc trưởng thượng v.v... (Bản Chú
Giải).
[13] Thí dụ như lúc ta bị những tư tưởng ô nhiễm ám
ảnh, khuấy động.
[14] Những người đã đè nén khát vọng của mình.
[15] Thế gian pháp (lokadhamma), gồm có tám là: được và
thua, danh thơm và tiếng xấu, tán dương và khiển trách, đau
khổ và hạnh phúc (xem Chương 43).
[16] Asokam, Virajam và Khemam. Mỗi danh từ trong ba Phạn
ngữ này đều hàm xúc tâm của một vị A La Hán. Asoka là
không sầu não, phiền muộn. Virajam là không có những ô
nhiễm tham ái, sân hận và si mê. Khema là an toàn không bị
trói buộc trong những thằng thúc tham dục (Kama), trở thành,
hữu (Bhava), tà kiến (Ditthi) và vô minh (Avijja) -- (dục
lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu).
[17] Tức ba mươi tám Phúc Lành kể trên. (Bản Chú
Giải).
[18] So bản dịch trong quyển "Buddhism" trang 125
của Rhys David và "Some Sayings of the Buddha" của
Woodward, trang 56.
|