hế
gian chênh lệch nầy quả không hoàn toàn tươi đẹp như cánh
hoa hồng. Nó cũng không tuyệt đối gai góc như cây hồng.
Hoa hồng dịu dàng, đẹp đẽ, và mùi thơm ngào ngạt. Nhưng
cái cây sanh ra nó thì mình đấy gai góc. Hoa là hoa. Gai là
gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái gì thuộc về gai
là của gai. Không vì hoa mà ta lao mình vào gai, cũng không vì
gai mà xa lánh hẳn hoa hồng.
Với người lạc quan, thế gian nầy tuyệt đối như cánh
hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đấy gai chướng.
Nhưng đối vối người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối
tươi đẹp, cũng không hoàn toàn xấu xa.
Người hiểu biết sẽ không say mê sắc đẹp của hoa
hồng nhưng nhận định đúng nó là thế nào. Thấu triệt
bản chất của gai người ấy thấy đúng thực tướng của
nó và sẽ hành động thận trọng để khỏi bị gai quào
hay đâm, chích.
Giống như quả lắc của đồng hồ, đánh qua trái rồi
sang phải, phải rồi trở lại trái, luôn luôn như vậy, có
bốn phước lành và bốn điều bất hạnh trong đời sống
mà tất cả mọi người, ai ai cũng phải đương đầu, không
ai tránh khỏi. Đó là:
- được (labha) và thua (alabha),
- danh thơm (yasa) và tiếng xấu (ayasa),
- ca tụng (pasamsa) và khiển trách (ninda),
- hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha).
Danh từ Pali gọi là "Atthalokadhamma", Tám Pháp
Thế Gian [1].
1. Được và Thua (Labha và Alabha)
Thế thường các nhà doanh thương phải gặp cả hai điều:
được và thua, hay nói cách khác, lợi lộc và lỗ lã. Dĩ
nhiên, khi được lợi thì người ta thỏa thích, vui mừng.
Điều nầy tự nó không có gì sai lầm. Những mối lợi tương
tợ, dầu chánh đáng hay không, đều đem lại niềm vui mà
người đời ai cũng ước mong, ai cũng tìm kiếm. Nếu không
có những giờ phút vui vẽ, dầu là phù du tạm bợ, đời
quả thật không đáng sống. Trong thế gian tranh chấp và
bấp bênh nầy, con người được rất ít cơ hội thọ hưởng
một vài hạnh phúc làm phấn khởi tinh thần. Những lạc thú
tương tợ, dầu vẫn là vật chất, chắc chắn sẽ giúp ta
thêm sức khỏe và tuổi thọ.
Nhưng đến khi lỗ lã thì phiền não bắt đầu khởi phát.
Ta có thể dễ dàng mĩm cười khi lợi lộc, nhưng lúc thua
thiệt thì không. Nhiều trường hợp lỗ lã quan trọng làm
cho người ta loạn trí, lắm khi đưa đến cảnh quyên sinh
mạng sống, nếu không còn chịu đựng được nữa. Chính
trong những hoàn cảnh tương tợ, ta phải biểu dương tinh
thần dũng cảm và giữ tâm bình thản, không để quá chao
động. Trong lúc vật lộn với đời sống, tất cả mọi người
đều gặp phải những lúc thăng, lúc trầm, và chúng ta
phải sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đối phó, nhất là
trong nghịch cảnh. Nổi thất vọng sẽ được giảm thiểu.
Mất một vật gì tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng chính
cái buồn không giúp ta tìm lại được vật đã mất. Ta
phải nghĩ rằng ai đó có thể hưởng vật kia, mặc dầu
họ hưởng một cách bất chánh. Ước mong người ấy được
vui vẻ, an lành và hạnh phúc!
Hoặc giả ta có thể tự an ủi: "Đây chỉ là một
mất mát nhỏ nhen, không quan trọng." Hay ta có thể
chấp nhận một triết lý cao thượng: "Không có gì là
'Ta', không có cái gì là 'Của Ta'". Trong những trường
hợp tương tợ, phải giữ tâm bình thản.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một thiếu phụ
đến chùa trai tăng Đức Sariputta (Xá Lợi Phật) và nhiều
vị tỳ khưu khác. Trong khi chuẩn bị dâng vật thực đến
các Ngài thì được tin chồng và tất cả các con bị người
ta phục kích, giết chết lúc đang đi hòa giải một cuộc
tranh chấp. Bà không tỏ vẽ buồn. Thản nhiên, bà lặng
lẽ cất giữ thơ vào túi rồi tiếp tục để bát chư Tăng
như không có gì xảy ra. Lúc ấy một người tỳ nữ bưng hũ
mật và sữa để dâng chư Tăng rủi trật chân té, làm bể
cái hũ.
Nghĩ rằng có lẽ bà thí chủ sẽ tiếc cái hũ và thức
ăn đựng trong đó, Đức Sariputta (Xá Lợi Phật) an ủi
rằng các vật như cái hũ, đã mang tính chất "bể"
theo liền với nó, ắt phải bể một ngày nào. Bà tín nữ
trí tuệ điềm tĩnh trả lời: "Kính bạch Đại Đức,
đó chỉ là một mất mát bình thường. Con vừa nhận được
tin chồng và các con của con bị kẻ sát nhân giết chết.
Con bỏ thơ vào túi và vẫn giữ tâm bình thản, không bấn
loạn. Và mặc dầu được tin dữ, con vẫn tiếp tục để
bát Ngài và chư Tăng."
Đức quả cảm quý báu của người thiếu phụ quả
thật đáng ca ngợi và đáng làm gương cho người khác.
Lần kia, Đức Phật đi trì bình trong một làng nọ. Do
sự phá rối của Ma Vương, hôm ấy Đức Phật không được
ai để bát và không có gì để độ ngọ. Đến khi Ma Vương
sống sượng hỏi Ngài có nghe bụng đói không, Đức Phật
giải thích thái độ tinh thần của người đã vượt khỏi
mọi trở ngại và đáp: "Hạnh phúc thay, Như Lai sống
không bị chướng ngại. Dưỡng nuôi phỉ lạc, Như Lai lúc
nào cũng như các vị trời ở cảnh Quan Âm Thiên."
Lần khác, Đức Phật và các môn đệ an cư kiết hạ
trong làng nọ, theo lời cung thỉnh của một Bà La Môn. Nhưng
vị nầy hoàn toàn lãng quên bổn phận là phải chăm lo các
Ngài. Suốt trọn thời gian ba tháng hạ, Đức Phật và chư
Tăng bình thản dùng những thức ăn của ngựa mà một người
lái ngựa đã dâng đến, mặc dầu Đức Moggallana (Mục
Kiền Liên) tình nguyện dùng thần thông để tìm vật thực
khác. Đức Phật không một lời than van hay phản đối.
Bà Visakha, vị nữ thí chủ quan trọng trong thời Đức
Phật, thường đến chùa chăm lo mọi nhu cầu của Đức
Phật và chư Tăng. Một hôm, bà đắp một cái áo choàng
rất quý giá để đi chùa. Khi đến cổng chùa bà cởi áo
choàng ra đưa cho người tỳ nữ cầm giữ. Lúc ra về, cô
tỳ nữ vô ý bỏ quên lại. Đức Ananda (A Nan Đa) thấy, đem
cất lại một nơi, chờ bà Visakha đến sẽ trao lại. Về
đến nhà sực nhớ, bà bảo người tỳ nữ quay trở lại tìm.
Nhưng nếu có vị tỳ khưu nào đã đụng đến thì không nên
lấy về. Cô tỳ nữ đến chùa hỏi thăm, biết rằng Đại
Đức Ananda đã cất giữ cái áo choàng nên trở về báo tin
cho chủ. Bà Visakha liền đến hầu Phật và tỏ ý muốn làm
việc thiện với số tiền bán cái áo choàng quý báu ấy.
Đức Phật khuyên bà nên kiến tạo một ngôi tịnh xá để
chư Tăng có nơi cư trú. Vì không ai có đủ tiền mua cái áo
choàng quý giá như thế nên chính bà mua lại, và dùng số
tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá đẹp đẽ, dâng đến
chư Tăng. Sau khi dâng xong ngôi chùa bà ngỏ lời tri ân người
tỳ nữ như sau: "Nếu con không lỡ bỏ quên cái áo choàng,
ắt ta không có cơ hội tạo nên công đức nầy. Vậy, ta
xin chia phần phước nầy đến con."
Thay vì buồn rầu hay phiền muộn vì tạm thời mất một
vật quý giá, và la rầy người tỳ nữ vô ý, bà cảm ơn
người ấy đã giúp bà có cơ hội tạo phước.
Thái độ gương mẩu của bà thiện trí thức Visakha đáng
là một bài học cho những kẻ dễ nóng giận vì lỗi lầm
của người giúp việc thế cô.
Ta phải dũng cảm chịu đựng những lỗ lã, thua thiệt.
Phải đương đầu với nó, và như câu "họa vô đơn chí"
diễn tả, nó đến một cách đột ngột, từng đoàn, từng
đám đông, chớ không đơn độc. Ta phải điềm tĩnh đối
phó, với tâm Xả hoàn toàn, ta nghĩ rằng đây là cơ hội vàng
ngọc để thực hành đức tánh cao thượng nầy.
2. Danh Thơm và Tiếng Xấu (Yasa và
Ayasa)
Danh Thơm (Yasa) và Tiếng Xấu (Ayasa) là một cặp thăng
trầm khác mà ta phải đối phó hằng ngày. Danh thơm chúng
ta hoan hỷ đón mừng. Tiếng xấu thì chúng ta không thích.
Danh thơm làm phấn chấn tinh thần. Tiếng xấu làm cho ta
phiền muộn, khổ đau.
Chúng ta thích được trứ danh. Chúng ta mong muốn thấy tên
tuổi và hình ảnh mình trên báo. Chúng ta rất thỏa thích
thấy những hoạt động của mình, dầu không đáng kể,
được tường thuật và được nhiều người nhắc nhở,
nhiều người biết đến. Lắm khi ta cũng cố gắng, một cách
bất chánh, làm cho người ta chú ý đến mình.
Để thấy hình ảnh mình trên báo chí, vài người sẵn sàng
trả một số tiền to tát. Để được danh dự, vài người
sẵn sàng đóng góp quan trọng, hay hối lộ nhóm người
quyền thế. Để tự quảng cáo, vài người biểu dương tâm
trong sạch bố thí của mình bằng cách trai tăng cả trăm
vị tỳ khưu, hay hơn nữa. Nhưng có thể những người trên
sẽ hoàn toàn thản nhiên trước nổi thống khổ của người
nghèo nàn đói rách sống ngay bên cạnh mình. Ta có thể
rầy la và hành phạt một tên trộm quá đói khát, vào vườn
ăn cắp một trái dừa để làm dịu bớt cơn đói, nhưng ta
sẽ không ngần ngại cho ra cả thiên dừa để đổi lại chút
danh thơm.
Đó là khuyết điểm của con người. Chí đến khi làm điều
thiện, phần đông chúng ta cũng làm với ẩn ý vụ lợi.
Những người hoàn toàn vị tha rõ thật hiếm hoi trên thế
gian nầy. Vì lẽ ấy, người nào đã làm một việc thiện
- dầu động cơ thúc đẩy đến hành động không mấy đáng
được ca ngợi - cũng được tán dương vì đã làm điều
thiện ấy. Phần đông người thế gian chúng ta luôn luôn còn
giấu một cái gì trong tay áo. Ai là người trăm phần trăm
tốt? Bao nhiêu người hoàn toàn trong sạch, từ động cơ đến
hành động? Bao nhiêu người tuyệt đối vị tha?
Chúng ta không cần chạy theo danh thơm tiếng tốt. Nếu ta
xứng đáng, ắt nó sẽ đến mà ta không cần tìm. Khi hoa
đượm mật đầy đủ thì ong, bướm sẽ đến. Hoa không
cần mời ong hay mời bướm.
Đúng thật vậy, chúng ta cảm nghe tự nhiên hoan hỷ, vô
cùng hạnh phúc, khi thanh danh của chúng ta bay xa, lan rộng.
Tuy nhiên, phải nhận định rằng tiếng tốt, danh vọng,
vinh quang, chỉ theo ta đến nắm mồ, rồi tan biến ra mây,
ra khói. Nó chỉ là những ngôn từ, mặc dầu là kim ngôn, là
mỹ từ, làm êm dịu tai ta.
Còn tiếng xấu thì sao?
Chúng ta không thích nghe, hay nghĩ đến. Chắc chắn là khi
những lời nói xấu lọt vào tai, nó sẽ làm cho tâm ta bàng
hoàng, khó chịu. Nỗi khổ tâm càng xâu đậm hơn nếu
những lời gọi là tường thuật hay báo cáo ấy tỏ ra
bất công hay hoàn toàn sai lạc.
Thông thường phải mất cả năm trường, hay hơn nữa, để
kiến tạo một ngôi nhà nguy nga vĩ đại. Nhưng chỉ trong nháy
mắt khí giới tối tân hiện đại có thể tàn phá, tiêu
hủy dễ dàng. Lắm khi phải mất nhiều năm hay cả kiếp
sống để gây dựng thanh danh. Bao nhiêu công trình lao khổ
ấy có thể tàn rụi trong khoảnh khắc. Không ai có thể tránh
khỏi câu nói tai hại bắt đầu bằng tiếng "nhưng".
Thật vậy, ông ấy rất tốt, ông ấy đã làm việc nầy,
điều kia. Nhưng ... Phần đầu tốt đẹp của câu nói ấy
đã bị cái "nhưng" đẩy vào đêm tối của lãng quên.
Bạn có thể sống đời đạo đức trong sạch như một
vị Phật, nhưng bạn không thể tránh những lời chỉ trích,
tấn công và nguyền rủa.
Đức Phật là vị giáo chủ trứ danh nhất thời bấy
giờ mà cũng là người bị nguyền rủa và sỉ vả nhiều
nhất thời bấy giờ.
Các bậc vĩ nhân thường không được biết đến, hay có
được biết chăng nữa, cũng một cách sai lạc.
Vào thời Đức Phật, có một thiếu phụ thường lui
tới Tịnh Xá lúc ban đêm. Những người ở đạo khác
truyền rao tiếng đồn, vu oan Đức Phật và các vị đệ
tử Ngài đã sát hại thiếu phụ ấy và chôn vùi dưới
một đống hoa tàn, trong vòng Tịnh Xá.
Khi Đức Phật đã hoàn thành viên mãn sứ mạng lịch
sử của Ngài và có rất nhiều người xin đến xuất gia, các
vị đạo sĩ đối nghịch phỉ báng rằng tại vì Đức
Phật mà mẹ phải lìa con, vợ lìa chồng. Chính Ngài đã
trở ngại mọi tiến bộ của đất nước.
Chính người em họ, và cũng là môn đệ của Đức Phật
, nhiều lần âm mưu làm sụp đổ phẩm hạnh cao quý của
Ngài, nhưng thất bại. Ông lại sanh tâm mưu sát Đức Thế
Tôn bằng cách từ trên cao lăn đá vào mình Ngài. Đã là
một vị Phật, Ngài không thể bị sát hại.
Nếu đó là số phần bất hạnh của một người vô
tội và trong sạch như Đức Phật, hạng người tầm thường
còn phải chịu như thế nào nữa?
Lúc trèo núi, ta càng lên cao, người đứng dưới đồng
bằng càng để ý đến ta và càng thấy ta nhỏ hơn. Và họ
chỉ thấy phía sau lưng, không thấy phía trước. Thế gian
thổi lông tìm vết nầy chỉ muốn trưng bày khuyết điểm
và lỗi lầm của người. Bao nhiêu đức hạnh thì giấu
nhẹm. Cái xây quạt lúa quạt đi bụi bặm và những hột lúa
hư lép, nhưng giữ lại các hột tốt, no đầy. Cái rây thì
trái lại, giữ phần xác thô sơ mà lượt đi nước trái cây
ngon ngọt. Người có trau giồi trí thức giữ cho mình phần
tinh tế, và bỏ đi những gì thô sơ. Hạng vô học giữ cái
thô sơ và vứt bỏ đi phần tinh vi tế nhị.
Mỗi khi bị hiểu lầm và người ta vô tình hay cố ý,
truyền rao một cách bất công, ta nên sáng suốt suy tư, hay
nói như Epictetus đã khuyên: "May quá, người ta không
quen mình nhiều. Họ chỉ biết mình sơ sài nên chỉ nói
xấu mình có bấy nhiêu. Nếu người ta biết mình nhiều hơn,
chắc mình còn bị chỉ trích nhiều hơn nữa."
Không nên phung phí thời giờ vô ích để sửa sai những
lời đồn đãi sai lạc nếu hoàn cảnh không bắt buộc ta
phải làm sáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm
thỏa thích mà mà ta bực bội vì lời nói của họ. Đó chính
là điều mà họ mong muốn. Nếu ta thản nhiên, lời vu oan
sẽ tan biến vào quên lãng.
Để thấy lỗi lầm của người khác, ta phải làm như
người mù.
Để nghe lời chỉ trích người khác, ta phải làm như điếc.
Để nói xấu người khác, ta phải làm như người câm.
Không thể chấm dứt những lời buộc tội, Những tường
thuật hay những lời đồn đãi sai lầm. Thế gian đầy chông
gai và đá nhọn. Ta không thể dẹp sạch gai và đá. Nhưng
nếu phải đi trên đó bất kể những trở ngại thì, thay vì
dời đá và gai - chuyện mà ta không thể làm - tốt hơn nên
mang giầy và thận trọng đi từng bước. Chúng ta sẽ được
an toàn.
Giáo Pháp dạy:
"Hãy như sư tử, không run sợ trước tiếng động.
Hãy nhưng luồng gió, không dính mắc trong màn lưới.
Hãy như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục mọc lên
Nhưng không bị nước đục và bùn nhơ làm ô nhiễm.
Hãy vững bước, đơn độc một mình, như con tê giác."
Là chúa sơn lâm, sư tử không sợ hãi, run rẩy, hay giựt
mình khi nghe tiếng gầm thét của các loài thú khác. Trên
thế gian nầy chúng ta có nghe thuật lại những câu chuyện
trái tai, bất lợi, những lời buộc tội giả mạo, những
tiếng vu oan phỉ báng đê hèn, vì miệng lằn lưỡi mối không
thiếu chi. Như sư tử, không cần để ý đến. Như một
loại khí giới của người Úc (boomerang), khi được tung ra,
nó bay tới đánh vào mục tiêu rồi trở về tay chủ, cùng
thế ấy, những lời rêu rao xấu xa đê tiện ấy sẽ chấm
dứt nơi mà nó bắt đầu.
Mặc chó chó sủa, đoàn lữ hành cứ tiến bước.
Chúng ta đang sống trong bùn nhơ nước đục. Nhiều đóa
hoa sen đã từ đó vượt lên, tô điểm sơn hà, mà không
bị nước đục và bùn nhơ làm hoen ố. Chúng ta phải cố
gắng sống như hoa sen, một cuộc đời trong sạch và cao quý,
không màng để ý đến bùn nhơ mà người khác có thể ném
vào chúng ta.
Phải sẵn sàng đón nhận bùn dơ mà người khác có thể
ném vào mình, thay vì mong đợi những đóa hoa hồng mà người
ta có thể tặng. Ta sẽ không thất vọng.
Mặc dầu khó, chúng ta phải cố gắng trau giồi hạnh
từ khước, buông mình, không luyến ái.
Chúng ta đến đây một mình, một thân. Một thân một mình,
chúng ta sẽ ra đi. Trong thế gian nầy, không luyến ái là
hạnh phúc.
Không cần để ý đến nọc độc của nhưng lưỡi mối
miệng lằn. Đơn độc một mình, chúng ta hay ra đi đó đây,
tận lực phục vụ và tạo an lành cho kẻ khác.
Âu cũng lạ! Rằng các bậc vĩ nhân thường bị vu oan,
phỉ báng, đầu độc, treo lên thánh giá, hay bị bắn
chết.
Ông Socrates vĩ đại bị đầu độc. Đức Jesus Christ (Chúa
Ky Tô) cao quý bị treo trên cây thánh giá. Đức Mahatma Gandhi
bất bạo động bị bắn chết.
Vậy phải chăng tốt quá cũng nguy hiểm? Đúng, khi còn
sống các vị ấy bị chị trích hay vu oan, bởi vì không
chạy theo thanh danh. Người ta có thể biết được việc làm
của mình không, các Ngài không quan tâm đến. Các Ngài làm
việc, phục vụ, nhưng không màng đến việc thọ hưởng.
3. Ca Tụng và Khiễn Trách (Pasamsa và
Ninda)
Được ca tụng và bị khiển trách là hai hoàn cảnh thăng
trầm khác hằng ảnh hưởng đến nhân loại. Lẽ dĩ nhiên,
khi được ca tụng thì ta nở mặt nở mày, hân hoan thỏa thích.
Lúc bị khiển trách thì tinh thần suy sụp, ủ dột buồn
rầu.
Giữa những lời ca tụng hay khiển trách Đức Phật
dạy, bậc thiện trí không thỏa thích cũng không ủ dột ưu
phiền, mà tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay
chuyển dưới cơn bão táp phong ba của đời sống.
Nếu chúng ta xứng đáng, những lời khen tặng quả thật
êm tai. Nhưng nếu ta không xứng đáng, như trường hợp có
người nịnh bợ, thì những lời ấy dù êm tai, cũng sẽ làm
cho ta thất vọng, và là một tai hại. Dầu sao, đó cũng
chỉ là những tiếng động, những âm thanh, không đem lại
hậu quả nào nếu không lọt vào tai.
Đứng về phương diện thế gian, lời ca tụng có thể đi
rất xa. Một tiếng khen tặng nhẹ nhàng, đúng lúc, có thể
giúp ta dễ dàng thâu đạt điều mong muốn. Một câu giới
thiệu xứng đáng đủ làm cho toàn thể cử tọa chăm chú
lắng nghe diễn giả. Nếu diễn giả có lời khen tặng cử
tọa, ắt sẽ được chú ý. Trái lại, nếu diễn giả bắt
đầu bằng những lời khiển trách hay chỉ trích, thái độ
đáp ứng của người nghe ắt không được thuận lợi.
Người đã thuần thục không tin càn những lời nịnh
bợ, cũng không muốn được nịnh bợ. Khi khen tặng ai
xứng đáng, người già dặn thuần thành thật lòng khen
tặng mà không ẩn ý ganh tỵ. Khi khiển trách, các Ngài
khiển trách mà không ẩn ý khinh khi. Các Ngài chỉ khiển trách
vì lòng bi mẫn, muốn cải thiện người lầm đường lạc
nẻo.
Những bậc vĩ nhân được tất cả người lớn kẻ nhỏ
khen tặng nhưng thản nhiên, không hề chao động.
Nhiều người thân cận với Đức Phật thường ca tụng
phẩm hạnh Ngài, mỗi người một cách. Upali, một nhà
triệu phú mới quy y với Đức Phật, kể ra hằng trăm đức
tánh của Ngài. Chín hồng danh của Đức Thế Tôn thời
bấy giờ người ta thường nhắc nhở, chí đến nay hàng tín
đồ Phật Giáo vẫn còn đọc lên như kinh nhật tụng. Và
mỗi lần tụng đến các phẩm hạnh cao quý ấy, chúng ta nhìn
lên pho tượng trầm ngâm tự tại với tấm lòng kỉnh mộ
tôn sùng. Chín hồng danh ấy còn là đề mục hành thiền
cho người có tâm đạo nhiệt thành và vẫn còn là nguồn
gợi cảm quan trọng cho những ai tự xem mình là Phật Tử.
Còn khiển trách thì sao?
Đức Phật dạy: "Người nói nhiều bị khiển trách.
Người nói ít bị khiển trách. Người lặng thinh cũng bị
khiển trách."
Hình như khiển trách là phần di sản chung của nhân
loại.
"Người thế gian phần đông sống không kỷ
luật" Đức Phật ghi nhận như vậy, và dạy tiếp:
"Như voi chiến ở trận địa, hứng lãnh lằn tên mũi
đạn từ mọi hướng dồn dập bắn đến, cùng thế ấy,
Như Lai hứng chịu mọi nguyền rủa của thế gian."
Kẻ si mê lầm lạc chỉ vì cái xấu, cái hư của người
khác mà không nhìn cái đẹp của ai.
Ngoại trừ Đức Phật, không ai trăm phần trăm tốt. Cũng
không ai xấu trăm phần trăm. Giữa chúng ta, bên trong con người
tốt nhất cũng có phần hư hỏng. Trong con người xấu
nhất cũng có điểm tốt đẹp.
Người biết làm câm như cái mõ bể khi bị tấn công,
nguyền rủa, chửi mắng, người ấy - Đức Phật dạy - đã
đứng trước Niết Bàn, mặc dầu chưa chứng ngộ Niết Bàn.
Ta có thể phục vụ nhân loại với tấm lòng cao cả
nhất, nhưng người thế gian thường hiểu lầm và gán cho
ta những mục tiêu, những lý tưởng mà chúng ta không bao
giờ mơ đến.
Ta có thể tận lực phục vụ và giúp đỡ một người
bạn trong cơ nguy ngập. Lắm khi muốn được việc, ta phải
vay nợ hay bán cả đồ đạt, nhà cửa. Nhưng về sau, thế
gian mê lầm này hư hỏng đến nổi người phục vụ kia
trở lại phủ nhận lòng tốt của ta, phiền trách, nói
xấu, bôi bẩn và sẽ thỏa thích thấy ta suy sụp.
Trong Túc Sanh Truyện có tích truyện một nhạc sĩ tên
Guttila, hết lòng truyền dạy các đệ tử và không bao giờ
dấu giếm điều gì. Tuy nhiên, có một người học trò vô
ơn bạc nghĩa nọ cố tình làm đủ mọi cách để tranh giành
ảnh hưởng với thầy. Về sau người đệ tử này thất
bại.
Devadatta (Đề Bà Đạt Ma), đệ tử, vừa là em họ của
Đức Phật, đã có thần thông, không những cố gắng làm
mất thanh danh của Đức Thế Tôn mà còn mưu toan sát hại
Ngài bằng cách lăn đá từ đỉnh núi cao xuống, trong khi Ngài
ngồi hành thiền dưới chân núi.
Một lần nọ có người Bà La Môn cung thỉnh Đức Phật
về nhà trai tăng. Theo lời thỉnh cầu, Đức Phật đến. Nhưng
thay vì tiếp đón phải lẽ, người Bà La Môn tuông ra một
loạt những lời lẽ thô kịch và nhơ bẩn vô cùng. Đức
Phật lễ độ hỏi thăm:
- Này ông Bà La Môn, có khi nào khách đến nhà ông không?
- Có, ông Bà La Môn trả lời.
- Khi biết khách đến nhà ông làm gì?
- Tôi sẽ dọn một bữa cơm thịnh soạn để đãi khách.
- Nhưng nếu khách bận việc không đến thì sao?
- Thì gia đình chúng tôi sẽ chia nhau bữa cơm.
- Tốt lắm, này ông Bà La Môn, hôm nay ông mời Như Lai đến
nhà để trai tăng và ông đã khoản đãi Như Lai bằng
những lời nguyền rủa chửi mắng thậm tệ. Như Lai không
nhận. Vậy xin ông vui lòng lấy trở lại.
Đức Phật không giận, không trả thù, nhưng Ngài lễ độ
trao trả lại người Bà La Môn những gì người này đã
khoản đãi Ngài.
"Không nên trả thù, không nên báo oán", Đức
Phật khuyên dạy như vậy. Hận thù sẽ đối diện với
hận thù. Báo oán, trả thù sẽ không bao giờ đưa đến hòa
bình và an tĩnh. Sức mạnh chắc chắn phải đương đầu
với sức mạnh. Bom đạn sẽ gặp bom đạn. "Sân hận
sẽ không bao giờ dập tắt sân hận. Chỉ có tâm Từ mới
diệt lòng sân." Đó là giáo từ của Đức Bổn Sư.
Không có vị giáo chủ nào được ca tụng và tôn sùng như
Đức Phật. Tuy nhiên, Ngài cũng là vị giáo chủ bị chỉ
trích, bị khiển trách và bị sỉ vả nhiều nhất. Đó là
số phận của các bậc vĩ nhân.
Trước giữa đám đông một thiếu phụ tên Cincà giả làm
người có mang, vu oan Đức Phật. Với gương mặt từ bi, Ngài
nhẫn nại chịu đựng những lời nguyền rủa, và đức
hạnh trong sạch của Ngài được chứng minh tỏ rõ.
Đức Phật cũng bị vu cáo và đã sát hại một thiếu
phụ với sự đồng lõa của các vị đệ tử.
Lần kia những người khác đạo chỉ trích Ngài và các môn
đệ với lời lẽ nặng nề đến độ Đại Đức Ananđa
xin Ngài rời khỏi nơi đó để qua một làng khác.
- Này Ananđa, nếu những người ở làng kia cũng chửi
mắng chúng ta nữa thì phải làm sao?
- Kính Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta sẽ sang một làng khác
nữa.
- Này ananda, nếu làm như thế toàn thể lãnh thổ của
xứ Ấn Độ sẽ không có đủ chổ cho chúng ta. Hãy nhẫn
nại. Những lời nguyền rủa tự nhiên sẽ chấm dứt.
Một bà thứ phi của ông vua nọ tên Magandiya, có nuôi
mối hận thù với Đức Phật bỡi Ngài tỏ ra không tôn
trọng sắc đẹp mỹ miều của bà phi, vì không biết, cha bà
muốn gã bà làm vợ Đức Phật. Khi đi ngang qua quốc gia bà
đang ở, Magandiya thuê những người say rượu công khai
chữi mắng Đức Phật vô cùng thậm tệ. Với tâm xã hoàn
toàn Đức Phật chịu đựng tất cả. Nhưng Magandiya phãi
chịu đau khổ vì hành động sai lầm của bà.
Nguyền rủa, chửi mắng là thường tình. Càng hoạt động,
càng phục vụ, chúng ta càng trở nên càng vĩ đại hơn và
càng phải chịu sĩ nhục và nguyền rũa nhiều hơn.
Socrates bị chính vợ ông chửi mắng. Mỗi khi ra ngoài để
phục vụ đồng bào, ông Socrates thường bị bà vợ tâm tánh
hẹp hòi của ông rày rà la mắng. Ngày kia bà Socrates lâm
bệnh nên không thể thực hành "công tác" rày rà thường
lệ. Hôm ấy, ông Socrates ra đường với vẻ mặt buồn
rầu. Bạn bè thăm hỏi vì sao. Ông giải thích rằng vì hôm
nay bà vợ ông đang bệnh nên không có rầy ông.
- Sao lạ vậy? Ông phải vui mới phải chứ. Không bị
rầy, tại sao ông lại buồn?
- Không phải vậy đâu, khi bị rầy, tôi lại cơ hội để
thực hành phát nhẫn nại. Hôm nay, tôi đã mất một cơ
hội. Vì lẽ ấy mà tôi buồn.
Trên đây là bài học quí báu cho tất cả. Khi bị chửi
mắng ta phải nghĩ rằng đây là cơ hội để hành pháp
nhẫn nhục. Thay vì tức giận, phải biết ơn người chữi
mắng ta.
4. Hạnh Phúc và Đau Khổ (Sukha và
Dukkha)
Hạnh phúc (Sukha) và Đau khổ (Dukkha) là cặp thăng trầm
cuối cùng. Nó cũng có nhiều năng lực nhất, ảnh hưởng
đến đời sống nhân loại. Cái gì làm được dễ dàng là
hạnh phúc (Sukha). Cái gì khó chịu đựng là đau khổ
(Dukkha).
Thông thường, thỏa mãn điều mong ước là hạnh phúc.
Nhưng, liền khi vừa đạt được điều mong ước ấy, ta
lại ước mong điều hạnh phúc khác. Túi tham không đáy. Lòng
tham không bao giờ được thỏa mãn, không bao giờ biết là
đủ.
Đối với hạng người tầm thường, hưởng thọ những
lạc thú của nhục dục ngũ trần là hạnh phúc duy nhất và
cao thượng nhất. Trong lúc mơ ước, trong khi thọ hưởng, và
khi hồi nhớ lại những khoái lạc ấy mà người thiên về
vật chất rất ưa thích, chắc chắn là có hạnh phúc tức
thời. Nhưng quả thật là ngắn ngủi và ảo huyền.
Tư sản vật chất có thể đem lại cho ta hạnh phúc có
thật sự không? Nếu có, các nhà triệu phú hẳn không bao
giờ nghĩ đến chuyện quyên sinh. Trong một quốc gia nọ mà
tiến bộ vật chất đã tiến đến mức tuyệt đỉnh, có
phải mười phần trăm dân số mắc phải những chứng
bệnh thần kinh. Tại sao vậy? Tài sàn và sự nghiệp có đủ
đem lại hạnh phúc thật sự không?
Cầm quyền thống trị toàn thế gian có phải là hạnh phúc
thật sự không? Đại đế Alexander, người đã rầm rộ kéo
quân vào Ấn Độ một cách hiên ngang, hùng vĩ và vẻ vang,
người đã chinh phục tất cả lãnh thổ trên đường đi
của mình, người ấy than rằng không tìm đâu ra một quốc
gia nào khác để chinh phục.
Các vị đế vương, các vị vua đang còn đội mão, cá
vị ấy có luôn hạnh phúc không? Đời sống các nhà lãnh
đạo chính trị và các nhà lãnh đạo quốc gia rất thường
bị các phe đối nghịch lâm le hâm dọa. Cái chết của
Mahatma Gandhi và của Tổng thống J.F. Kennedy là một vài trường
hợp điễn hình.
Chân hạnh phúc nằm bên trong chúng ta và không thể được
định nghĩa bằng những danh từ như tài sản, quyền thế,
danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng. Nếu những tư hữu
trần tục kia được thâu đạt bằng bạo lực, cường
quyền, hay một phương tiện bất công nào khác, hoặc theo
một chiều hướng sai lầm, hoặc nữa, được nhìn với
cặp mắt trìu mến hay tham lam, thì nó sẽ là nguồn đau
khổ và sầu muộn cho chính người làm chủ nó.
Cái gì là hạnh phúc cho người này có thể không phải là
hạnh phúc cho người kia. Cái gì là thức ăn thức uống có
thể là thuốc độc cho người khác. Đức Phật kể ra bốn
loại hạnh phúc của người tại gia cư sĩ:
a) Loại đầu tiên là hạnh phúc được có tư hữu
(atthi sukha) như sức khỏe, tài sản, sống lâu, sắc đẹp,
vui vẽ, mạnh mẽ, sự nghiệp, đông đảo con cháu v.v...
b) Nguồn hạnh phúc thứ nhì là họ được hưởng
những tư hữu ấy (bhoga sukha). Thông thường, ai cũng
muốn thọ hưởng, ai cũng ưa vui thích. Đức Phật không
bao giờ khuyên dạy rằng tất cả mọi người nên từ khước
hạnh phúc trần gian và rút vào sống ẩn dật, chốn
rừng sâu vắng vẽ.
Thọ hưởng tài sản không phải là chỉ dùng nó cho riêng
mình, mà cũng là bố thí ra để tạo an lành cho người khác.
Cái gì mà ta ăn, chỉ tồn tại nhất thời. Cái gì mà ta
tích trữ, ta sẽ bỏ lại, và ra đi. Nhưng cái gì mà ta
cho ra, sẽ trở lại với ta. Những hành động thiện mà
ta làm với những tư hữu trần tục, sẽ tồn tại lâu dài
không thể mất.
c) Không nợ nần (anana sukha) là một nguồn hạnh phúc
khác. Nếu tri túc, biết an phận với những gì mình có và
nếu ăn ở kiệm cần, ta sẽ không nợ nần với ai. Người
mang nợ luôn luôn sống trong tâm trạng hấp hối, nơm
nớp lo sợ chủ nợ. Nếu không nợ nần, mặc dù nghèo,
ta vẫn cảm thấy thoải mái dễ chịu và thơi thới trong
lòng.
d) Nếp sống trong sạch (anavajja sukha), hay hạnh phúc không
đáng bị khiển trách, là nguồn hạnh phúc cao thượng
nhất của người cư sĩ. Người có đời sống trong sạch
là một nguồn phước báu cho mình và cho người khác. Người
trong sạch được tất cả khăm phục. Người ấy cảm
nghe hạnh phúc vì nằm trong phạm vi ảnh hưởng của
những rung động an lành mà nhiều người khác gởi đến
mình.
Tuy nhiên, ta phải ghi nhận rằng rất khó, vô cùng khó, mà
được tất cả mọi người khâm phục. Người có tâm tánh
cao quý chỉ biết giữ mình để sống đời trong sạch và
thản nhiên trước dư luận.
Phần đông thỏa thích trong sự thọ hưởng những lạc
thú của đời sống. Nhưng cũng có những hạng người
thỏa thích trong sự từ khước, buông các lạc thú. Không
luyến ái, hay vượt lên trên mọi khoái lạc vật chất, là
hạnh phúc đối với người đạo đức. Hạnh phúc Niết Bàn
- tức là trạng thái thoát ra khỏi mọi đau khổ - là hình
thức hạnh phúc cao thượng nhất.
Chúng ta vui vẻ đón mừng hạnh phúc. Nhưng đau khổ thì
không được niềm nở tiếp nhận.
Đau đớn (vật chất) và phiền muộn (tinh thần) đến
với ta dưới nhiều hình thức. Chúng ta đau khổ khi phải
chịu già yếu, đó là lẽ tự nhiên. Phải bình thản chịu
đựng những khổ đau của tuổi già.
Càng đau khổ hơn hoàn cảnh già nua, là bệnh hoạn. Và
nếu là một chứng bệnh trầm kha làm đau nhức lâu ngày,
ta sẽ cảm thấy thà chết còn hơn. Chỉ một cái răng đau
hay một lúc nhức đầu, đôi khi cũng làm cho ta vô cùng khó
chịu đựng. Đúng vậy, phải tự an ủi rằng ta khỏi
phải mang một chứng bệnh trầm trọng hơn.
Lắm khi chúng ta phải chia lìa thân bằng quyến thuộc.
Cảnh biệt ly vô cùng đau khổ. Chúng ta phải nhận định
rằng mọi kết hợp đều phải chắm dứt trong cảnh biệt
ly. Đây là cơ hội quý báu để ta thực hành tâm Xả.
Một việc thường xảy ra là chúng ta phải kết hợp
với người mình không ưa thích, sống chung với người mà
ta ghét. Phải cố gắng chịu đựng và nghĩ rằng mình đang
gặt hái quả xấu của một cái nghiệp nào mà chính mình
tạo ra, hoặc trong quá khứ, hoặc trong hiện tại. Chúng ta
phải cố gắng tự tạo cho mình một nếp sống thích hợp
với hoàn cảnh mới và, bằng cách này hay cách khác, phải
cố gắng vượt qua mọi trở ngại.
Chí đến Đức Phật, đấng toàn thiện đã tận diệt
mọi ô nhiễm, mà còn phải chịu đau đớn vì bệnh hay vì
tai nạn. Đức Phật nhiều lần bị nhức đầu. Chứng
bệnh kiết lỵ sau cùng làm cho ngài đau đớn không xiết
kể. Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) lăn đá từ đỉnh núi cao gây
thương tích cho Ngài ở chân phải mổ. Lắm lúc Ngài phải
nhịn đói. Đôi khi Ngài phải dùng thức ăn dành cho ngựa.
Một lần nọ, vì các đệ tử không vâng lời, Ngài vào
rừng ở ba tháng. Giữa rừng sâu, Ngài phải nằm trên một
lớp lá ủ, trải trên mặt đất gồ ghề thô cứng và
phải đối phó với những cơn lạnh buốt xương. Nhưng Ngài
vẫn thản nhiên. Giữa những hoàn cảnh đau khổ, cũng như
những lúc an vui hạnh phúc Đức Phật luôn luôn giữ tâm
Xả hoàn toàn.
Trên bước lang thang trong vòng luân hồi, chết là mối ưu
phiền trọng đại nhất mà chúng ta phải đối phó. Đôi
khi cái chết không đến lẻ loi cho một người thân mà đến
trùng hợp cho nhiều người thân trong một lúc.
Bà Patacara mất một lúc bao nhiêu nhưng thân thuộc: cha,
mẹ, chồng, anh và hai con. Bà trở nên loạn trí. Đức
Phật khuyên giải và an ủi bà.
Bà Kisa Gotami mất người con thân yêu duy nhất. Tay bồng
con, bà chạy đi tìm thuốc chữa trị và đến cầu cứu
với Đức Phật.
- Được, con có thể tìm ra một vài hạt cải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ tìm ra hột cải, chắc như
vậy.
- Nhưng hột cải này phải lấy từ trong nhà nào mà chưa
từng có ai chết.
Hột cải thì có. Nhưng bà không tìm ra nơi nào mà thần
chết chưa hề đến viếng. Bà tỉnh ngộ và nhận thức
bản chất thiên nhiên của kiếp sinh tồn.
Một lần nọ, bà kia được người ta hỏi tại sao không
khóc cái chết thê thảm của người con. Bà trả lời:
"Không ai mời mọc, nó đến. Không cho ai hay, nó đi. Đến
thế nào, nó ra đi cùng thế ấy. Tại sao ta khóc? Khóc có
ích gì?"
Từ cành cây có nhiều trái rơi rụng - trái non có, trái
già có, trái chín có - cùng thế ấy, ta có thể lìa đời lúc
sơ sinh, lúc thiếu niên, lúc tráng niên, hay khi niên cao
tuổi lớn.
Mặt trời mọc ở phương Đông chỉ để lặn ở phương
Tây. Hoa nở tốt tươi buổi sáng để úa tàn vào lúc
chiều.
Cái chết không thể tránh, đến với tất cả mọi người,
không trừ ai. Và ta phải bình thản đối phó.
"Cũng như trên đất ta có thể vứt bất luận vật gì,
dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ. Đất vẫn thản
nhiên một mực trơ trơ, không giận cũng không thương.
Vậy, cùng thế ấy, trong hạnh phúc, trong phiền muộn, lúc
thăng lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất."
Đức Phật dạy như vậy.
Trước những thăng trầm của thế gian, tâm của vị A La
Hán không bao giờ chao động.
Giữa những hoàn cảnh được và thua, danh thơm và tiếng
xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, chúng
ta hãy giữ tâm bình thản.